ngocmai14686
New Member
Download Tổ chức tốt mô hình đồng quản lý khai thác phát triển bền vững nguồn tài nguyên ven biển của Bến Tre
Ủy ban nhân dân tỉnh giao đất cho hợp tác xã quản lý khai thác (1997); Cục thuế áp dụng chính sách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (2004); Liên minh Hợp tác xã tỉnh hướng dẫn họat động theo Luật Hợp tác xã (1997); Sở Thủy sản hướng dẫn áp dụng cơ chế đồng quản lý (2003); Liên minh Hợp tác xã tỉnh phối hợp với Sở Thủy sản (Sở Nông nghiệp và PTNT) hướng dẫn xây dựng Liên hiệp các Hợp tác xã Thủy sản ( 2008); đào tạo tập huấn về nghiệp vụ chuyên môn quản lý kiểm soát thu họach, quản lý bệnh, quản lý môi trường, quản lý tài chính
Thể chế:
+ Quản lý môi trường và tài nguyên:Ngòai việc áp dụng Luật Thủy sản, Luật tài nguyên và khóang sản, Luật Hợp tác xã ; các Hợp tác xã thủy sản trong tỉnh còn thực hiện các qui định chuyên ngành như: qui định của Sở thủy sản (1997) về tỷ lệ, kích cở và mùa vụ khai thác nghêu giống, nghêu thịt ; qui định của Ủy ban nhân dân tỉnh (2001) về những vùng cấm khai thác để bảo vệ đàn nghêu bố mẹ ; qui định của Ủy ban nhân dân tỉnh (2001) về bảo tồn rừng ngập mặn, qui định của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2004) về cấm khai thác động vật hoang dã
+ Quản lý an tòan vệ sinh thực phẩm: 7/1997 Bộ Thủy sản ban hành qui chế kiểm soát An toàn vệ sinh vùng thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ, giao nhiệm vụ cho NAFIQACEN phối hợp với Sở thủy sản triển khai chương trình tại Tiền Giang và Bến Tre. Tháng 3/2000 EU công nhận chương trình kiểm soát của Việt Nam ; đây là nền tảng để nghêu Bến Tre được xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, cho đến hôm nay.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Thách thức: số lượng phương tiện khai thác ven bờ còn khá lớn với đa loại hình ngư, lưới cụ có kích thước mắt lưới không phù hợp; cơ chế chính sách và hình thức quản lý chưa hiệu quả; nạn nghêu tặc còn diễn ra ở một vài Hợp tác xã quản lý yếu, gây tổn thất nguồn lợi thủy sản, ảnh hưởng đến chu kỳ phát triển của hệ đa dạng sinh học, mất cân bằng môi trường sinh thái, ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội và đời sống kinh tế, văn hóa của cộng đồng.
Phần II. XÂY DỰNG MÔ HÌNH ĐỒNG QUẢN LÝ CỦA CÁC HỢP TÁC XÃ
QUẢN LÝ KHAI THÁC NGHÊU Ở BẾN TRE
Mô hình đồng quản lý của các Hợp tác xã quản lý và khai thác nghêu ở Bến Tre là mô hình mà Nhà nước chia sẻ một số quyền hạn cho cộng đồng ngư dân quản lý khai thác và phát triển nguồn lợi nghêu tự nhiên ở vùng ven biển Bến Tre. Cụ thể như: giao quyền sử dụng đất bãi bồi ven biển để quản lý và khai thác nghêu tự nhiên, quản lý sử dụng lao động là những xã viên của hợp tác xã vào hoạt động quản lý khai thác nghêu, quản lý thu chi tài chính theo Luật ngân sách, Luật hợp tác xã và điều lệ và cách hoạt động đã được xã viên hay đại biểu xã viên của Hợp tác xã thống nhất thông qua trong các kỳ đại hội.
I. Quá trình hình thành cơ chế và hệ thống tổ chức quản lý của các Hợp tác xã khai thác nghêu ở Bến Tre:
Từ năm 1980 trở về trước nghề nuôi nghêu hãy còn là nghề tự phát, người dân nơi đây chỉ dựa vào các bãi nghêu giống tự nhiên thu nhặt về làm thực phẩm hay mang đi bán lẻ ở các chợ nông thôn để đổi lấy mắm, muối và một ít lương thực, thực phẩm về trang trải cho cuộc sống gia đình. Cuối năm 1980 một số thương gia Hồng Kông, Đài Loan thông qua các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản trong nước đến khảo sát đặt quan hệ mua bán nghêu nhưng chỉ ở qui mô nhỏ lẻ theo dạng buôn chuyến thì phong trào nuôi nghêu bằng con giống tự nhiên mới bắt đầu phát triển. Từ các bãi nghêu giống tự nhiên ở Thạnh Phong - Thạnh Phú, Thới Thuận, Thừa Đức - Bình Đại người ta thu nhặt và mang đi rải nuôi ở các khu vực lân cận với qui mô, sản lượng phát triển lớn dần theo nhu cầu của thị trường tiêu thụ ở một vài quốc gia của Châu Á dưới dạng sản phẩm nghêu luộc cấp đông.
Do đặc điểm con nghêu là nguồn tài nguyên sinh học có khả năng tái tạo nhưng rất dễ bị tổn thương, nguồn lợi có thể bị cạn kiệt, môi trường thiên nhiên sẽ suy thoái nếu cộng đồng ngư dân không gắn liền với khai thác sử dụng với bảo vệ nguồn lợi. Mặt khác con nghêu còn là mặt hàng thủy sản xuất khẩu có giá trị nếu đảm bảo các nguyên tắc an toàn vệ sinh thực phẩm thông qua qui trình kiểm soát quản lý nghiêm ngặt của hệ thống kiểm soát chất lượng được quốc tế công nhận. Đối với cộng đồng ngư dân cùng kiệt ven biển con nghêu còn là đối tượng phát triển phù hợp với mục tiêu xóa đói giảm cùng kiệt bỡi đặc tính dễ nuôi, ít dịch bệnh và vốn đầu tư thấp. Vì vậy nếu giao quyền cho cá nhân quản lý khai thác sẽ dễ dẫn đến sự tranh chấp và rất khó thực hiện qui trình kiểm soát thu hoạch và bảo tồn nguồn lợi.
Dựa vào các yếu tố đặc thù trên, Ủy ban nhân dân tỉnh đã có chủ trương thành lập các Tổ hợp tác, Hợp tác xã quản lý và khai thác nghêu để quản lý tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên quí giá, có giá trị xuất khẩu và mang lại hiệu quả cao đối với chương trình xóa đói giảm cùng kiệt cho cộng đồng ngư dân vùng ven biển nhằm thực hiện tốt các qui trình kiểm soát và tổ chức tốt việc phân phối lợi nhuận cho cộng đồng ngư dân nghèo, trích nộp thuế cho nhà nước đồng thời giao cho Ủy ban nhân dân các xã quản lý hoạt động của các Tổ hợp tác, Hợp tác xã.
Sau khi có chủ trương của tỉnh một số địa phương có quan tâm đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội này hình thành tổ chức tổ hợp tác, hợp tác xã thủy sản để quản lý và khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên quí báu của địa phương như Thạnh Phong - Thạnh Phú, Thới Thuận - Bình Đại,… nhưng sau đó các Tổ hợp tác, Hợp tác xã lại liên tục bị phá vỡ, nguồn lợi tiếp tục bị hủy diệt.. Do thuở ấy đời sống ngư dân còn quá cùng kiệt khó, cán bộ quản lý chưa có nhiều kinh nghiệm, cách quản lý còn mang nặng hình thức bao cấp, thị trường còn bấp bênh, ngư dân ở các huyện ven biển trong tỉnh kéo theo cả người ngòai tỉnh đến các bãi nghêu của tổ hợp tác, hợp tác xã tranh nhau khai thác nghêu thịt, nghêu giống mang đi bán khắp nơi với giả cả rẻ mạt 300-500đ/kg nghêu thịt chỉ nhằm thu lợi trước mắt.
Mãi cho đến giữa những năm 1990 Liên minh hợp tác xã tỉnh đựơc thành lập để quản lý hoạt động của các Hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã, bao gồm cả Hợp tác xã thủy sản. Chính nhờ đó Liên minh các Hợp tác xã tỉnh đã phối hợp với Sở Thủy sản xây dựng kế hoạch tổ chức củng cố lại các hợp tác xã quản lý khai thác nghêu trong tỉnh.Trải qua nhiều mô hình quản lý, nhiều lần tổ chức Đại hội bầu lại Ban chủ nhiệm, xây dựng lại cách phân phối lợi nhuận cho xã viên nhưng họat động Hợp tác xã vẫn bất ổn. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực cán bộ quản lý không ngang tầm với nhiệm vụ, cơ chế công khai dân chủ không được thực hiện một cách đầy đủ và đồng bộ, phương án ăn chia bất hợp lý kéo dài cho nên đã không được sự đồng thuận của bà con xã viên.
Nắm bắt được nguyên nhân trên tỉnh đã cho chủ trương thành lập Ban chỉ đạo củng cố tổ hợp tác, hợp tác xã bao gồm các thành phần: thay mặt Ban chủ nhiệm Liên minh Hợp tác xã tỉnh, Ban Giám đốc Sở Thủy sản (nay là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Ủy ban nhân dân huyện, Ủy ban nhân dân xã đã trực tiếp tham gia tổ chức củng cố lại Hợp tác xã. Bắt đầu từ việc lấy ý kiến nhân dân thông qua cơ sở tổ nhân dân tự quản cho đến từng đơn vị Ấp, đơn vị Xã về qui mô phát triển xã viên, về việc bầu chọn nhân sự vào Ban chủ nhiệm hợp tác xã và cả phương án phân phối lợi nhuận của hợp tác xã.
Ban chỉ đạo cùng Ban chủ nhiệm hợp tác xã thống nhất lại cơ cấu tổ chức quản lý, qui mô phát triển và cách phân phối lợi nhuận. Mãi cho đến tháng 7 năm 1997 Hợp tác xã kiểu mới Thới Thuận - Bình Đại chính thức được thành lập lấy tên là Hợp tác xã Thủy sản Rạng đông. Đặc trưng của Hợp tác xã Thủy sản Rạng Đông là huy động tòan thể các hộ dân trong xã tham gia vào Hợp tác xã với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là quản lý khai thác và tiêu thụ nguồn lợi nghêu tự nhiên trên diện tích 900ha đất bãi triều ven biển, do nhà nước địa phương quyết định tạm cấp, nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, phân phối lợi nhuận hợp lý và từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho các hộ xã viên, góp phần đẫy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Một cách sản xuất và một cung cách quản lý mới được xác lập trên nền tảng của cơ chế đồng quản lý và nguyên tắc công khai dân chủ được Ban chủ nhiệm Hợp tác xã nghiêm túc thực hiện đã mang lại sự đồng thuận cao trong hằ...
Download Tổ chức tốt mô hình đồng quản lý khai thác phát triển bền vững nguồn tài nguyên ven biển của Bến Tre miễn phí
Ủy ban nhân dân tỉnh giao đất cho hợp tác xã quản lý khai thác (1997); Cục thuế áp dụng chính sách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (2004); Liên minh Hợp tác xã tỉnh hướng dẫn họat động theo Luật Hợp tác xã (1997); Sở Thủy sản hướng dẫn áp dụng cơ chế đồng quản lý (2003); Liên minh Hợp tác xã tỉnh phối hợp với Sở Thủy sản (Sở Nông nghiệp và PTNT) hướng dẫn xây dựng Liên hiệp các Hợp tác xã Thủy sản ( 2008); đào tạo tập huấn về nghiệp vụ chuyên môn quản lý kiểm soát thu họach, quản lý bệnh, quản lý môi trường, quản lý tài chính
Thể chế:
+ Quản lý môi trường và tài nguyên:Ngòai việc áp dụng Luật Thủy sản, Luật tài nguyên và khóang sản, Luật Hợp tác xã ; các Hợp tác xã thủy sản trong tỉnh còn thực hiện các qui định chuyên ngành như: qui định của Sở thủy sản (1997) về tỷ lệ, kích cở và mùa vụ khai thác nghêu giống, nghêu thịt ; qui định của Ủy ban nhân dân tỉnh (2001) về những vùng cấm khai thác để bảo vệ đàn nghêu bố mẹ ; qui định của Ủy ban nhân dân tỉnh (2001) về bảo tồn rừng ngập mặn, qui định của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2004) về cấm khai thác động vật hoang dã
+ Quản lý an tòan vệ sinh thực phẩm: 7/1997 Bộ Thủy sản ban hành qui chế kiểm soát An toàn vệ sinh vùng thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ, giao nhiệm vụ cho NAFIQACEN phối hợp với Sở thủy sản triển khai chương trình tại Tiền Giang và Bến Tre. Tháng 3/2000 EU công nhận chương trình kiểm soát của Việt Nam ; đây là nền tảng để nghêu Bến Tre được xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, cho đến hôm nay.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
u hoạch nhuyễn thể hai mảnh võ, tiêu chí MSC …Thách thức: số lượng phương tiện khai thác ven bờ còn khá lớn với đa loại hình ngư, lưới cụ có kích thước mắt lưới không phù hợp; cơ chế chính sách và hình thức quản lý chưa hiệu quả; nạn nghêu tặc còn diễn ra ở một vài Hợp tác xã quản lý yếu, gây tổn thất nguồn lợi thủy sản, ảnh hưởng đến chu kỳ phát triển của hệ đa dạng sinh học, mất cân bằng môi trường sinh thái, ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội và đời sống kinh tế, văn hóa của cộng đồng.
Phần II. XÂY DỰNG MÔ HÌNH ĐỒNG QUẢN LÝ CỦA CÁC HỢP TÁC XÃ
QUẢN LÝ KHAI THÁC NGHÊU Ở BẾN TRE
Mô hình đồng quản lý của các Hợp tác xã quản lý và khai thác nghêu ở Bến Tre là mô hình mà Nhà nước chia sẻ một số quyền hạn cho cộng đồng ngư dân quản lý khai thác và phát triển nguồn lợi nghêu tự nhiên ở vùng ven biển Bến Tre. Cụ thể như: giao quyền sử dụng đất bãi bồi ven biển để quản lý và khai thác nghêu tự nhiên, quản lý sử dụng lao động là những xã viên của hợp tác xã vào hoạt động quản lý khai thác nghêu, quản lý thu chi tài chính theo Luật ngân sách, Luật hợp tác xã và điều lệ và cách hoạt động đã được xã viên hay đại biểu xã viên của Hợp tác xã thống nhất thông qua trong các kỳ đại hội.
I. Quá trình hình thành cơ chế và hệ thống tổ chức quản lý của các Hợp tác xã khai thác nghêu ở Bến Tre:
Từ năm 1980 trở về trước nghề nuôi nghêu hãy còn là nghề tự phát, người dân nơi đây chỉ dựa vào các bãi nghêu giống tự nhiên thu nhặt về làm thực phẩm hay mang đi bán lẻ ở các chợ nông thôn để đổi lấy mắm, muối và một ít lương thực, thực phẩm về trang trải cho cuộc sống gia đình. Cuối năm 1980 một số thương gia Hồng Kông, Đài Loan thông qua các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản trong nước đến khảo sát đặt quan hệ mua bán nghêu nhưng chỉ ở qui mô nhỏ lẻ theo dạng buôn chuyến thì phong trào nuôi nghêu bằng con giống tự nhiên mới bắt đầu phát triển. Từ các bãi nghêu giống tự nhiên ở Thạnh Phong - Thạnh Phú, Thới Thuận, Thừa Đức - Bình Đại người ta thu nhặt và mang đi rải nuôi ở các khu vực lân cận với qui mô, sản lượng phát triển lớn dần theo nhu cầu của thị trường tiêu thụ ở một vài quốc gia của Châu Á dưới dạng sản phẩm nghêu luộc cấp đông.
Do đặc điểm con nghêu là nguồn tài nguyên sinh học có khả năng tái tạo nhưng rất dễ bị tổn thương, nguồn lợi có thể bị cạn kiệt, môi trường thiên nhiên sẽ suy thoái nếu cộng đồng ngư dân không gắn liền với khai thác sử dụng với bảo vệ nguồn lợi. Mặt khác con nghêu còn là mặt hàng thủy sản xuất khẩu có giá trị nếu đảm bảo các nguyên tắc an toàn vệ sinh thực phẩm thông qua qui trình kiểm soát quản lý nghiêm ngặt của hệ thống kiểm soát chất lượng được quốc tế công nhận. Đối với cộng đồng ngư dân cùng kiệt ven biển con nghêu còn là đối tượng phát triển phù hợp với mục tiêu xóa đói giảm cùng kiệt bỡi đặc tính dễ nuôi, ít dịch bệnh và vốn đầu tư thấp. Vì vậy nếu giao quyền cho cá nhân quản lý khai thác sẽ dễ dẫn đến sự tranh chấp và rất khó thực hiện qui trình kiểm soát thu hoạch và bảo tồn nguồn lợi.
Dựa vào các yếu tố đặc thù trên, Ủy ban nhân dân tỉnh đã có chủ trương thành lập các Tổ hợp tác, Hợp tác xã quản lý và khai thác nghêu để quản lý tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên quí giá, có giá trị xuất khẩu và mang lại hiệu quả cao đối với chương trình xóa đói giảm cùng kiệt cho cộng đồng ngư dân vùng ven biển nhằm thực hiện tốt các qui trình kiểm soát và tổ chức tốt việc phân phối lợi nhuận cho cộng đồng ngư dân nghèo, trích nộp thuế cho nhà nước đồng thời giao cho Ủy ban nhân dân các xã quản lý hoạt động của các Tổ hợp tác, Hợp tác xã.
Sau khi có chủ trương của tỉnh một số địa phương có quan tâm đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội này hình thành tổ chức tổ hợp tác, hợp tác xã thủy sản để quản lý và khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên quí báu của địa phương như Thạnh Phong - Thạnh Phú, Thới Thuận - Bình Đại,… nhưng sau đó các Tổ hợp tác, Hợp tác xã lại liên tục bị phá vỡ, nguồn lợi tiếp tục bị hủy diệt.. Do thuở ấy đời sống ngư dân còn quá cùng kiệt khó, cán bộ quản lý chưa có nhiều kinh nghiệm, cách quản lý còn mang nặng hình thức bao cấp, thị trường còn bấp bênh, ngư dân ở các huyện ven biển trong tỉnh kéo theo cả người ngòai tỉnh đến các bãi nghêu của tổ hợp tác, hợp tác xã tranh nhau khai thác nghêu thịt, nghêu giống mang đi bán khắp nơi với giả cả rẻ mạt 300-500đ/kg nghêu thịt chỉ nhằm thu lợi trước mắt.
Mãi cho đến giữa những năm 1990 Liên minh hợp tác xã tỉnh đựơc thành lập để quản lý hoạt động của các Hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã, bao gồm cả Hợp tác xã thủy sản. Chính nhờ đó Liên minh các Hợp tác xã tỉnh đã phối hợp với Sở Thủy sản xây dựng kế hoạch tổ chức củng cố lại các hợp tác xã quản lý khai thác nghêu trong tỉnh.Trải qua nhiều mô hình quản lý, nhiều lần tổ chức Đại hội bầu lại Ban chủ nhiệm, xây dựng lại cách phân phối lợi nhuận cho xã viên nhưng họat động Hợp tác xã vẫn bất ổn. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực cán bộ quản lý không ngang tầm với nhiệm vụ, cơ chế công khai dân chủ không được thực hiện một cách đầy đủ và đồng bộ, phương án ăn chia bất hợp lý kéo dài cho nên đã không được sự đồng thuận của bà con xã viên.
Nắm bắt được nguyên nhân trên tỉnh đã cho chủ trương thành lập Ban chỉ đạo củng cố tổ hợp tác, hợp tác xã bao gồm các thành phần: thay mặt Ban chủ nhiệm Liên minh Hợp tác xã tỉnh, Ban Giám đốc Sở Thủy sản (nay là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Ủy ban nhân dân huyện, Ủy ban nhân dân xã đã trực tiếp tham gia tổ chức củng cố lại Hợp tác xã. Bắt đầu từ việc lấy ý kiến nhân dân thông qua cơ sở tổ nhân dân tự quản cho đến từng đơn vị Ấp, đơn vị Xã về qui mô phát triển xã viên, về việc bầu chọn nhân sự vào Ban chủ nhiệm hợp tác xã và cả phương án phân phối lợi nhuận của hợp tác xã.
Ban chỉ đạo cùng Ban chủ nhiệm hợp tác xã thống nhất lại cơ cấu tổ chức quản lý, qui mô phát triển và cách phân phối lợi nhuận. Mãi cho đến tháng 7 năm 1997 Hợp tác xã kiểu mới Thới Thuận - Bình Đại chính thức được thành lập lấy tên là Hợp tác xã Thủy sản Rạng đông. Đặc trưng của Hợp tác xã Thủy sản Rạng Đông là huy động tòan thể các hộ dân trong xã tham gia vào Hợp tác xã với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là quản lý khai thác và tiêu thụ nguồn lợi nghêu tự nhiên trên diện tích 900ha đất bãi triều ven biển, do nhà nước địa phương quyết định tạm cấp, nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, phân phối lợi nhuận hợp lý và từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho các hộ xã viên, góp phần đẫy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Một cách sản xuất và một cung cách quản lý mới được xác lập trên nền tảng của cơ chế đồng quản lý và nguyên tắc công khai dân chủ được Ban chủ nhiệm Hợp tác xã nghiêm túc thực hiện đã mang lại sự đồng thuận cao trong hằ...