Download Tiểu luận Trách nhiệm của cha mẹ và của những người thân thích về tình trạng trẻ em phải lao động sớm miễn phí
Mục lục
I. MỞ ĐẦU.
II. NỘI DUNG.
1. Khái quát chung.
1.1. Khái niệm trẻ em.
1.2.Trẻ em lao động sớm.
2. Thực trạng và nguyên nhân.
3. Trách nhiệm của cha mẹ và của những người thân thích về tình trạng trẻ
em lao động sớm.
3.1. Trách nhiệm của cha mẹ.
3.2. Trách nhiệm của ông bà nội, ông bà ngoại.
3.3. Trách nhiệm giữa anh, chị, em trong gia đình.
4. Giải pháp nâng cao trách nhiệm của cha mẹ và của những người thân
thích nhằm giảm thiểu tình trạng trẻ em lao động sớm.
III. KẾT LUẬN.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
Mục lụcMỞ ĐẦU.
NỘI DUNG.
Khái quát chung.
1.1. Khái niệm trẻ em.
1.2.Trẻ em lao động sớm.
2. Thực trạng và nguyên nhân.
3. Trách nhiệm của cha mẹ và của những người thân thích về tình trạng trẻ
em lao động sớm.
3.1. Trách nhiệm của cha mẹ.
3.2. Trách nhiệm của ông bà nội, ông bà ngoại.
3.3. Trách nhiệm giữa anh, chị, em trong gia đình.
4. Giải pháp nâng cao trách nhiệm của cha mẹ và của những người thân
thích nhằm giảm thiểu tình trạng trẻ em lao động sớm.
KẾT LUẬN.
Đề số 8: Nêu trách nhiệm của cha mẹ và của những người thân thích về tình trạng trẻ em phải lao động sớm.
Bài làm
MỞ ĐẦU
Theo báo cáo của Tổ chức cứu vớt trẻ em (Save the children) hiện nay trên thế giới có khoảng 218 triệu trẻ em phải lao động, trong đó có 126 triệu trẻ em làm việc trong những điều kiện nguy hiểm và 8,5 triệu trẻ em lao động như nô lệ. Tình trạng trẻ em lao động sớm đang ngày càng diễn biến phức tạp trên thế giới. Tại Việt Nam vấn đề này cũng đang gây xôn xao dư luận. Tháng 11/2007 dư luận cả nước đã bất bình về việc ngay giữa thủ đô Hà Nội, một bé gái hơn 10 năm bị bóc lột và hành hạ không khác gì nô lệ thời trung cổ. Đến lúc này, một loạt các động thái thể hiện trách nhiệm mới được đề cập đến. Vụ việc này đã như một hồi chuông cảnh tỉnh chúng ta về vấn đề trẻ em đang từng ngày, từng giờ bị bóc lột sức lao động, bị xâm phạm quyền trẻ em. Nỗi đau về thể xác của em gái nhỏ đáng thương kia rồi cũng qua đi nhưng hồi ức đau đớn về những tháng ngày em phải chịu đày đọa sẽ còn là nỗi ám ảnh khiếp sợ khó có thể nguôi ngoai trong suốt cuộc đời. Xuất phát từ vấn đề đó em xin chọn đề tài “Trách nhiệm của cha mẹ và của những người thân thích về tình trạng trẻ em phải lao động sớm”.
NỘI DUNG.
Khái quát chung.
1.1 Khái niệm trẻ em.
Vấn đề trẻ em trên thế giới đang được cộng đồng nhân loại quan tâm ngày càng nhiều hơn trong vài thập kỷ qua. Đã có những cam kết toàn cầu và những cố gắng bước đầu được thực hiện để đem lại cho trẻ em một tương lai tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, để đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về trẻ em lại là một điều không đơn giản, bởi hệ thống chính trị, nền văn hóa và hoàn cảnh sống của các quốc gia khác nhau, nên khái niệm trẻ em ở mỗi quốc gia cũng được hiểu không giống nhau. Chính vì thế, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 chỉ đưa ra ngưỡng độ tuổi cao nhất là 18 tuổi để xác định tuổi của trẻ em: “Trẻ em là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi trưởng thành niên sớm hơn”. Hay trong điều 2 Công ước số 182 về loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất cũng có quy định: “Vì mục đích của công ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ được áp dụng cho những ai dưới 18 tuổi”.
Việt Nam là quốc gia đầu tiên của Châu Á và là quốc gia thứ hai trên thế giới tham gia Công ước quốc tế về quyền trẻ em vào năm 1990. Theo đó, Điều 1 Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: “Trẻ em trong quy định của Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
1.2 Trẻ em lao động sớm.
Từ khái niệm trẻ em nêu trên, có thể hiểu trẻ em phải lao động sớm là việc trẻ em tham gia lao động khi dưới 16 tuổi.
Trẻ em phải lao động sớm là một vấn đề xã hội rộng lớn và phức tạp, tồn tại từ trước tới nay trong xã hội loài người. Trẻ em lao động sớm khác với sự tham gia làm việc của trẻ em cần có sự phân biệt giữa hai khái niệm này.
Sự tham gia làm việc của trẻ em không gây nên ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển của trẻ em vì đó là những việc làm tự nguyện hay một hoạt động phi lợi nhuận. Sự tham gia làm việc của trẻ em là đáng khuyến khích vì nó mở ra cho các em những cơ hội trong cuộc sống và tạo cho trẻ em những kinh nghiệm mới mẻ. Với môi trường như vậy sẽ góp phần nuôi dưỡng và phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ và tinh thần của các em. Trái lại, trẻ em phải lao động sớm là việc các em phải làm những công việc quá sức, quá nặng nhọc đối với tuổi và khả năng, các em phải làm việc nhiều giờ, bị hạn chế hay không có thời gian đi học, vui chơi và nghỉ ngơi. Nơi làm việc độc hại và ảnh hưởng tới sức khỏe và cuộc sống của trẻ em. Trẻ em bị hạn chế hay không được khuyến khích về tinh thần và vật chất.
2. Thực trạng và nguyên nhân
Trẻ em phải lao động sớm có thể được coi là một hiện tượng do cùng kiệt đói và kém phát triển gây ra. Ở việt nam, vì cùng kiệt đói và thiếu công ăn việc làm, các gia đình thường chủ yếu dựa vào sức lao động của người chưa thành niên (trong đó có trẻ em).
Gần 60% trẻ em trong diện điều tra phải làm việc sau giờ đi học, gần 40% làm việc cả trước và sau giờ đi học và hầu hết trẻ em phải làm việc quanh năm. Đó là một vài kết quả từ cuộc khảo sát tình trạng trẻ em lao động sớm, do Sở LĐTBXH Hà Nội thực hiện tại một số quận, huyện giai đoạn 2009-2010.
Kết quả khảo sát được công bố mới đây cho thấy kết quả đáng báo động, khi có gần 85% trẻ em tham gia lao động sớm cho biết phải làm những công việc nặng nhọc, độc hại như sản xuất gốm, sành sứ, vật liệu xây dựng dân dụng, phụ hồ, thu lượm phế liệu,bán hàng rong… khi đang đi học, đặc biệt trong đó có 18,3% đang học tiểu học, 54,57% đang học THCS và 27% đang học THPT. 71,2% trẻ làm việc từ 9 – 10h/ngày; 72% làm việc cả ngày chủ nhật; 1% trẻ phải làm việc trong điều kiện sức khỏe yếu. Kết quả trên cho thấy, số học sinh từ 6-14 tuổi chiếm phần lớn trong số trẻ em phải lao động sớm hiện nay.
Về nguyên nhân khiến trẻ em lao động sớm được lý giải một phần do cha mẹ khi phần lớn các gia đình có con lao động sớm vì hoàn cảnh cùng kiệt khó nên bắt các con phải lao động để đóng góp vào chi tiêu cho gia đình. Một số em do học kém, lười học nên không còn lựa chọn nào khác là đi làm để giúp đỡ gia đình.Bằng chứng là có tới 2/3 trẻ em (62%) trong số được điều tra cho biết tiền kiếm được từ lao động được sử dụng góp vào chi tiêu chung của gia đình, khoảng 19% sử dụng tiền vào chi tiêu riêng hay tiết kiệm riêng và chỉ có 8% sử dụng tiền lương để mua sắm đồ dùng học tập. Đáng lưu tâm là có khoảng 4% trẻ em không nhận trực tiếp lương từ chủ sử dụng lao động vì “họ đưa thẳng cho bố mẹ chúng em”.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thì hãn hữu mới có trẻ em phải làm lụng vất vả, những trường hợp đó chủ yếu là ở nông thôn; ở khu vực phi nông nghiệp, chế độ tuyển dụng và sử dụng lao động bảo đảm cho trẻ em không lâm vào tình trạng làm việc trước tuổi, làm việc quá sức. Khi bước vào nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế thì việc sử dụng lao động trẻ em đã khác biệt rất xa so với trước đây. Ngay trong nông nghiệp, nông thôn cũng đã có sự biến đổi lớn. Với 75% dân số sinh sống, làm việc ở nông thôn thì việc thu hút lao động trẻ em vào các công việc đồng áng, ruộng vườn, những công việc theo thời vụ đã mang tính phổ biến, nhất là vào thời gian các em nghỉ h