Trái phiếu là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải trả cho người sở có trái phiếu đối với một khoản trước cụ thể (mệnh giá của trái phiếu), trong một thời (gian) gian xác định và với một lợi tức quy định. Người phát hành có thể là doanh nghề (trái phiếu trong trường hợp này được gọi là trái phiếu doanh nghiệp), một tổ chức chính quyền như Kho bạc nhà nước (trong trường hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), chính quyền (trong trường hợp này gọi là công trái hay trái phiếu chính phủ). Người mua trái phiếu, hay 'trái chủ', có thể là cá nhân hay doanh nghề hay chính phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi trên trái phiếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hay bất được ghi (trái phiếu không danh). Nói cách khác, trái phiếu là những khoản vay người đầu tư dành cho doanh nghề và chính phủ. Người cho vay thu lợi từ trước lãi vay, và người vay có được khoản trước mặt mà họ cần. Một cách định nghĩa đơn giản hơn nữa như sau: trái phiếu là một khoản vay phải trả lãi trong một thời (gian) hạn (term) cố định, hay trong một thời (gian) kỳ nào đó. Khi trái phiếu đó đáo hạn vào cuối thời (gian) hạn đó, khoản vay gốc (principal), hay khoản đầu tư sẽ được trả lại cho người cho vay, hay người sở có trái phiếu đó.
Trái phiếu là phương tiện huy động vốn phổ biến hiên nay, và có bản chất là khoản vay.
Các đặc tính kỹ thuật của trái phiếu cần lưu ý khi giao dịch là: 1) Thời hạn của trái phiếu (ngày phát hành, ngày đáo hạn);
2. Mức lãi được trả (coupon);
3. Kỳ trả lãi (nửa năm hay một năm, hay một lần duy nhất);
4. Địa điểm và loại mệnh giá phát hành;
5. Có được niêm yết và chuyển nhượng dễ dàng hay bất (tính thanh khoản).
"Cổ phiếu" là giấy chứng nhận số trước nhà đầu tư đóng lũy vào công ty phát hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hay bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở có một hay một số cổ phần của công ty đó. Nguời nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và cùng thời là chủ sở có của công ty phát hành. Có nhiều loại cổ phiếu: 1) 'Cổ phiếu phổ thông': là loại cổ phiếu có thu nhập phụ̀ thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ty. Người sở có cổ phiếu phổ thông được tham gia (nhà) họp Đại hội cùng cổ đông và được bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty, được quyền bầu cử và ứng cử vào Hội cùng quản trị của công ty; 2) 'Cổ phiếu ưu đãi': tương tự như cổ phiếu phổ thông nhưng cổ đông sở có nó bất được tham gia (nhà) bầu cử và ứng cử vào Hội cùng quản trị, nhưng lại có quyền được hưởng thu nhập cố định hàng năm theo một tỷ lệ lãi suất cố định bất phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty, được ưu tiên chia lãi cổ phần trước cổ đông phổ thông (cổ phiếu ưu đãi cổ tức) hay có quyền được biểu quyết với số phiếu cao hơn so với cổ phần phổ thông (cổ phiếu ưu đãi biểu quyết) hay có quyền đòi lại phần vốn lũy bất cứ khi nào yêu cầu (cổ phiếu ưu đãi trả lại); 3) 'Cổ phiếu đang lưu hành': là cổ phiếu hiện đang lưu hành trên thị trường và do các cổ đông đang nắm giữ.
Cổ phiếu có tiềm năng chuyển hóa thành trước mặt dễ dàng. Tuy nhiên tính thanh khoản của cổ phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau: 1) Kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành (công ty có cổ phiếu niêm yết); 2) Mối quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán: Thị trường cổ phiếu cũng như các loại thị trường khác đều chịu sự chi phối của qui luật cung cầu. Giá cổ phiếu trên thị trường bất chỉ phụ thuộc vào chất lượng công ty mà còn phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu của nhà đầu tư. Tuy một loại cổ phiếu rất tốt nhưng thị trường đang bão hòa nguồn cung (nhiều hàng bán) thì cổ phiếu đó cũng khó tăng giá. Ngược lại khi thị trường khan hiếm hàng hóa thì ngay cả những cổ phiếu chất lượng kém hơn cũng có thể bán dễ dàng.
Do có tính lưu thông khiến cổ phiếu có giá trị như một loại tài sản thực sư, nếu như tính thanh khoản giúp cho chủ sở có cổ phiếu chuyển cổ phiếu thành trước mặt khi cần thiết thì tính lưu thông giúp chủ sở có cổ phiếu thực hiện được nhiều hoạt động như thừa kế tặng cho để thục hiện nghĩa vụ tài sản của mình. Song cũng cần lưu ý rằng cổ phiếu cũng mang tính rủi ro cao. Khi vừa phát hành cổ phiếu bất còn đem lại rủi ro cho tổ chức phát hành mà rủi ro lúc này thuộc về chủ sở có cổ phiếu. Nguyên nhân là do giá trị của cổ phiếu do các nguyên nhân khách quan quyết định: kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành cổ phiếu, tình hình chính trị,kinh tế xã hội của nước và toàn thế giới, hơn nữa còn bị ảnh hưởng bởi tâm lý của số đông nhà đầu tư khi nắm bắt các thông tin bất chính xác.
Một doanh nghề có quyền phát hành cả cổ phiếu lẫn trái phiếu (như trên nói, lúc này trái phiếu được gọi là trái phiếu doanh nghiêp).