Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Mục lục
1 Table of Contents
1.1 Khái niệm 4
1.2 Đặc điểm của tranh chấp thương mại 5
1.3 Phân loại tranh chấp thương mại 5
1.3.1 Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm 5
1.3.2 Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. 6
1.3.3 Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. 6
1.3.4 Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. 6
1.4 Hình thức giải quyết giải quyết tranh chấp thương mại 6
1.4.1 Các hình thức mang tính tài phán 6
1.4.2 Các hình thức không mang tính tài phán 6
2.1 Thương lượng 7
2.1.1 Khái niệm 7
2.1.2 Đặc trưng 7
2.1.3 Nguyên tắc khi tiến hành thương lượng 8
2.1.4 Cách thức thương lượng 8
2.2 Hòa giải 8
2.2.1 Khái niệm 8
2.2.2 Phân loại 9
Có hai loại hoà giải là hòa giải trong tố tụng và hòa giải ngoài tố tụng. 9
2.2.3 Các nguyên tắc của hòa giải 9
2.2.4 Tiến trình hòa giải 11
2.3 Trọng tài 11
2.3.1 Khái niệm 11
2.3.2 Điều kiện giải quyết bằng hình thức trọng tài 12
2.3.3 Thời hiệu khởi kiện 13
2.3.4 Trình tự giải quyết 13
2.3.5 Quyền yêu cầu hủy quyết định trọng tài 18
2.3.6 Thi hành quyết định trọng tài 20
2.3.7 Giải quyết vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài bằng trọng tài 20
2.4 Tòa án 21
2.4.1 Khái quát về Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ở nước ta 21
2.4.2 Thẩm quyền các cấp Toà án: 21
2.4.3 Các nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại toà án 24
2.4.4 Thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại toà án 26
2.5 So sánh giữa các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại 27
3.1 Nội dung các tranh chấp thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp 31
3.2 Lựa chọn các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh và thương mại 32
3.2.1 Hoạt động hoà giải còn thiếu tính chuyên nghiệp 32
• Nguyên nhân 32
3.2.2 .Trọng tài - một cách giải quyết tranh chấp ưu việt 33
3.2.3 Cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ngày càng hoàn thiện 38
3.3 Giải pháp 40
3.3.1 Chuyên nghiệp hoá đội ngũ hoà giải viên 40
3.3.2 Nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài 41
Lời nói đầu
Với nền kinh tế thị trường đang phát triển như ở Việt Nam hiện nay, các hoạt động thương mại đang ngày càng được đẩy mạnh, hợp tác bền vững lâu dài không chỉ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn vươn xa ra thương trường quốc tế. Hoạt động thương mại tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, mở ra cơ hội cho các nhà đầu tư, nhưng bên cạnh đó cũng không thể né tránh các yếu tố rủi ro phát sinh trong quá trình hợp tác, trao đổi buôn bán.
Khi quyền lợi của các bên không được cân bằng trong mối quan hệ này tất yếu sẽ dẫn đến những xung đột, mâu thuẫn do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nội dung các tranh chấp thương mại ngày càng đa dạng, phức tạp khiến các bên tham gia giải quyết tranh chấp cần cân nhắc kĩ các hình thức giải quyết cho phù hợp.
Theo điều 317 Luật thương mại 2005 có các hình thức chủ yếu sau đây
- Thương lượng giữa các bên
- Hoà giải giữa các bên do một cơ quan. tổ chức hay cá nhân được các bên thoả thuận chọn làm trung gian hoà giải
- Trọng tài thương mại hay toà án
Trong phạm vi nghiên cứu tiểu luận này, chúng tui xin trình bày ba phần
- Phần thức nhất là các lý luận cơ bản về tranh chấp thương mại
- Phần thứ hai bao gồm các hình thức giải quyết tranh chấp theo pháp luật hiện hành
- Phần thứ ba nêu lên vấn đề thực trạng về vấn đề tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam
Thông qua việc tìm hiểu nghiên cứu các tài liệu, tổng hợp phân tích và trình bày quan điểm của nhóm, chúng tui mong muốn mang lại một các nhìn tổng thể về vấn đề này, phục vụ tốt hơn cho môn học Pháp luật thương mại về hàng hoá và dịch vụ.
Chương 1: Những lí luận cơ bản về tranh chấp thương mại
1.1 Khái niệm
Tranh chấp theo nghĩa chung là "đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa các bên” .
Tranh chấp thương mại là các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Tranh chấp thương mại thể hiện ở các hành vi vi phạm pháp luật về thương mại:
- Vi phạm quy định về đăng ký kinh doanh; giấy phép kinh doanh của thương nhân; thành lập và hoạt động của Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam và của thương nhân nước ngoài;
- Vi phạm quy định về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập; chuyển khẩu; quá cảnh;
- Vi phạm chế độ thuế, hóa đơn, chứng từ, sổ và báo cáo kế toán;
- Vi phạm quy định về giá hàng hóa, dịch vụ;
- Vi phạm quy định về ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
- Buôn lậu, kinh doanh hàng nhập lậu, buôn bán hàng giả hay nguyên liệu, vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng giả, kinh doanh trái phép;
- Vi phạm các quy định liên quan đến chất lượng hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu;
- Gian lận, lừa dối khách hàng khi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
- Vi phạm các quy định liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
- Vi phạm quy định về quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và xuất khẩu, nhập khẩu;
- Vi phạm quy định về xuất xứ hàng hóa;
- Các vi phạm khác trong hoạt động thương mại theo quy định của pháp luật.
1.2 Đặc điểm của tranh chấp thương mại
• Tranh chấp thương mại trước hết là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh trực tiếp từ các quan hệ kinh doanh và luôn gắn liền với hoạt động kinh doanhCác bên tranh chấp thương mại thường là chủ thể kinh doanh có tư cách thương nhân hay tư cách nhà kinh doanh
• Việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại là các vấn đề do các bên tranh chấp tự định đoạt.
• Tranh chấp kinh doanh thương mại là những tranh chấp mang yếu tố vật chất và thường có giá trị lớn
1.3 Phân loại tranh chấp thương mại
Căn cứ vào Điều 29 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2004, có thể phân chia như sau:
1.3.1 Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm
a) Mua bán hàng hoá;
b) Cung ứng dịch vụ;
c) Phân phối;
d) Đại diện, đại lý;
đ) Ký gửi;
e) Thuê, cho thuê, thuê mua;
g) Xây dựng;
h) Tư vấn, kỹ thuật;
i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa;
k) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng;
n) Bảo hiểm;
o) Thăm dò, khai thác.
1.3.2 Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
1.3.3 Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
1.3.4 Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
1.4 Hình thức giải quyết giải quyết tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại có thể giải quyết bằng một trong hai cách, cách mang tính tài phán hay không mang tính tài phán.
1.4.1 Các hình thức mang tính tài phán
Tài phán là quyền của các cơ quan hành chính và tư pháp của quốc gia thực hiện giải quyết các vụ việc vi phạm pháp luật theo thẩm quyền của họ. Theo nghĩa thông thường, quyền tài phán là quyền xử lý, xét xử đối với các hành vi vi phạm.
Trong giải quyết tranh chấp thương mại, hình thức này bao gồm trọng tài thương mại và toà án. Những quyết định của toà án hay trọng tài không chỉ mang giá trị ràng buộc phải thực hiện mà buộc bên thua kiện phải thi hành các quyết định đó.
1.4.2 Các hình thức không mang tính tài phán
Bao gồm cách giải quyết tranh chấp lựa chọn (ADR - alternative dispute resolution) bao gồm hoà giải và thương lượng.
Khác với các hình thức mang tính tài phán, ADR đề cao sự tự nguyện, tinh thần thiện chí của các bên. Quyết định trong hoà giải và thương lượng không mang tính bắt buộc thi hành. Các bên có thể tự do áp dụng hay khước từ. Trong trường hợp không đạt được thoả thuận hay sự nhất trí thì họ có thể tiếp tục lựa chọn cách giải quyết mang tính tài phán.
Chương 2: Những cách giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại
2.1 Thương lượng
2.1.1 Khái niệm
Thương lượng nghĩa là "bàn bạc nhằm đi đến sự thoả thuận giải quyết một vấn đề nào đó giữa hai bên.”
Thương lượng trong hoạt động thương mại là cách giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kì bên thức ba nào.
Theo đó, muốn tiến hành thương lượng trước hết đòi hỏi sự đồng thuận tự nguyện của cả hai bên. cụ thể đó là thiện chí hợp tác, nhận thức về quá trình giải quyết mâu thuẫn một cách êm đẹp nhất.
Đây được xem như là cách giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất, thông dụng và phổ biến nhất được các bên áp dụng rộng rãi nhằm giải quyết mâu thuẫn trong tất cả mọi vấn đề, nhất là hoạt động thương mại. Bởi vì đơn giản nếu không thương lượng chúng ta sẽ không đạt được những thỏa thuận tốt nhất cho mình. Nhà nước khuyến khích áp dụng cách tự thương lượng để giải quyết tranh chấp trên tinh thần hoàn toàn tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên.
2.1.2 Đặc trưng
cách giải quyết tranh chấp này được thực hiện bởi các cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên tranh thấp gặp nhau bàn bạc, thoả thuận để tự giải quyết những bất đồng phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba trợ giúp hay ra phán quyết.
Quá trình thương lượng giữa các bên cũng không chịu sự ràng buộc của bất kì nguyên tắc pháp luật hay những qui định mang tính khuôn mẫu nào của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp nào. Việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên.
2.1.3 Nguyên tắc khi tiến hành thương lượng
Nguyên tắc trọng yếu trong việc tiến hành thương lượng chính là đôi bên cùng có lợi. Dân tộc ta có câu "dĩ hoà vi quý" - tức là lấy sự hoà hợp với nhau làm trọng. Quan điểm thiện chí góp phần giúp các bên cùng đạt được lợi ích tốt nhất. Thương lượng hiểu quả không phải là đạt được lợi ích cho một bên mà phải là sự cân bằng lợi ích của các bên liên quan.
Thương lượng không phải là chấp nhận thua hay thắng, nhượng bộ hay chèn ép. Khi tiến hành thương lượng các bên có quyền lợi ngang nhau. Đó được xem như là một giao dịch mà cả hai bên đều có quyền bác bỏ kết quả cuối cùng.Thương lượng cũng không phải là cố chấp không khoan nhượng, vì như vậy sẽ làm mâu thuẫn tăng cao. Việc thể hiện điểm mạnh và tỏ ra cứng rắn đi ngược lại với tinh thần tự nguyện, thiện chí cùng hợp tác, và như vậy càng đến tình trạng bế tắc.
2.1.4 Cách thức thương lượng
• Thương lượng trực tiếp: là cách thức mà các bên tranh chấp trực tiếp gặp nhau bàn bạc, trao đổi và đề xuất ý kiến của mỗi nên nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh chấp
• Thương lượng gián tiếp: là cách thức các bên tranh chấp gửi cho nhau tài liệu giao dịch thể hiện quan điểm và yêu cầu của mình nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh chấp.
Thực tế khi tự thương lượng thì có nhiều trường hợp không thành công. Đó là do xung đột lợi ích của các bên. Bên nào cũng muốn bảo vệ lợi ích của mình và cũng bảo vệ quan điểm và cách xử lý của mình cho nên thương lượng trực tiếp với nhau khó đạt kết quả. Vì vậy họ dùng cách giải quyết thứ hai là trung gian hoà giải.
2.2 Hòa giải
2.2.1 Khái niệm
Hòa giải “là hành vi thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hay xích mích một cách ổn thoả.”
Hòa giải cũng là giải quyết các tranh chấp, bất đồng giữa hai hay nhiều bên tranh chấp bằng việc các bên dàn xếp, thương lượng với nhau có sự tham gia của bên thứ ba (không phải là bên tranh chấp).
Hòa giải còn được hiểu ở góc độ rộng hơn là một quá trình, trong đó bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ. Hòa giải cũng được coi là sự tiếp nối của quá trình thương lượng, trong đó các bên cố gắng làm điều hoà những ý kiến bất đồng.
Bên thứ ba đóng vai trò trung gian, hoà toàn độc lập với hai bên, không có quyền áp đặt, thiên vị, hay hành động như một người môi giới, giúp hai bên ngồi lại với nhau và tìm cách đưa các bên tranh chấp tới những điểm mà họ có thể thoã thuận được.
2.2.2 Phân loại
Có hai loại hoà giải là hòa giải trong tố tụng và hòa giải ngoài tố tụng.
• Hòa giải trong tố tụng được hiểu là việc hòa giải được tiến hành khi vụ án đã nằm trong vòng tố tụng, tức là khi Tòa án đã thụ lý đơn khởi kiện. Thông thường, việc hòa giải trong tố tụng sẽ do cơ quan tiến hành tố tụng đứng ra thực hiện.
• Hòa giải ngoài tố tụng là việc các bên trong vụ việc tự thương lượng hòa giả với nhau hay thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ví dụ như cơ quan hòa giải của UBND cấp xã. Thông thường, hòa giải ngoài tố tụng được tiến hành trước khi vụ việc được đưa đến tòa án. Phần trình bày sau đây chủ yếu tập trung bàn về hoà giải ngoài tố tụng.
Ở Việt Nam, chế định hòa giải đã được quy định trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh Giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996. Chế định hòa giải ra đời có một ý nghĩa rất quan trọng. Nó đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử hình thành và tồn tại của chế định hòa giải trong tố tụng tư pháp nói chung.
2.2.3 Các nguyên tắc của hòa giải
Nguyên tắc hoà giải là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo mà khi tiến hành hoạt động hoà giải phải tuân thủ một cách đầy đủ, toàn diện và nghiêm túc. dựa vào Điều 4 Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, hoạt động hoà giải trong tranh chấp thương mại cần bảo đảm các nguyên tắc sau:
• Thứ nhất, tôn trọng sự tự nguyện, quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoà giải. Vì bản chất của hoà giải là việc giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thoả thuận trên cơ sở tự nguyện. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên có tranh chấp trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật.
Người làm công tác hoà giải phải hiểu được tâm lý của những người đang có mâu thuẫn, tranh chấp, giữa họ ai cũng có những lý lẽ cho rằng mình đúng và không chấp nhận lý lẽ của bên kia. Do đó, khi hoà giải, hoà giải viêm phải giúp họ bình tĩnh, tỉnh táo để nhìn nhận ra sự thật, thấy rõ cái đúng, cái sai của cả hai bên. Chỉ khi nào họ hiểu đúng đắn và thông cảm với nhau thì họ mới tự nguyện cùng nhau giải quyết mọi mâu thuẫn.
• Thứ hai,việc hòa giải các tranh chấp kinh tế phải bảo đảm tính khách quan, công bằng, hợp lý, không trái pháp luật và không trái các tập quán thương mại quốc tế,phù hợp với đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân
Hoà giải viên trước tiên phải có trình độ chuyên môn nhất định hiểu biết rõ chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bên cạnh đó cần kết hợp với các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân.
Thông thường khi mâu thuẫn xảy ra, mỗi bên tranh chấp đều đưa ra lý lẽ để tự bảo vệ mình cho mình là đúng, không nhìn nhận được cái sai của mình đã gây ra cho người khác. Do đó người hoà giải phải thực sự khách quan, vô tư, công minh, đề cao lẽ phải, tìm cách thuyết phục để mỗi bên hiểu rõ sai trái, không xuề xòa “dĩ hoà vi quý” cho xong việc. Hơn nữa sự công minh, khách quan, vô tư của người hoà giải sẽ là yếu tố để hai bên đặt lòng tin và cùng nhau giải quyết vụ việc.
• Thứ ba, bảo vệ uy tín của các bên tranh chấp trên thương trường, bảo toàn các yếu tố bí mật, bí quyết kinh doanh trong quá trình hòa giải;tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Trong quá trình thực hiện hoà giải, tổ viên Tổ hoà giải phải giữ bí mật yếu tố bí mật, bí quyết kinh doanh trong quá trình hòa giải của các bên tranh chấp. Khi đã được các bên tranh chấp tin tưởng và thổ lộ thông tin bí mật của mình cho hoà giải viên, thì hoà giải viên không được phép tiết lộ thông tin đó cho người khác.
Bên cạnh đó, hoà giải phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Nguyên tắc này mang tính pháp lý cao và thường được áp dụng cho mọi loại hình hoà giải các tranh chấp kể cả việc hoà giải được thực hiện bởi Toà án và tổ chức trọng tài.
• Thứ tư, kịp thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, hạn chế những hậu quả xấu khác có thể xảy ra và đạt được kết quả hoà giải.
2.2.4 Tiến trình hòa giải
Hòa giải là một quá trình linh hoạt được sử dụng trong một số tình huống khác nhau.
Có thể được trực tiếp hay gián tiếp có nghĩa là những người tham gia gặp mặt trực tiếp hay khi đó là không thích hợp, những hòa giải trung gian có thể có ích.
Ban đầu, các bên đang viếng thăm cá nhân của các hòa giải viên. Các hòa giải viên sẽ yêu cầu mỗi người trong số họ để giải thích làm thế nào họ thấy tình hình hiện nay, và làm thế nào họ muốn nó được sau khi hòa giải.
Họ cũng sẽ hỏi ý kiến các bên có để sắp xếp các bất đồng.Thông tin được chia sẻ trong buổi hòa giải là riêng tư và bảo mật (trừ công bố lạm dụng nghiêm trọng), hay trừ khi có thoả thuận khác.
Nếu cả hai bên đồng ý đi đến một cuộc họp chung, các bước sau đâysẽ diễn ra. Hòa giải viên sẽ giải thích cấu trúc của các cuộc họp và yêu cầu mọi người phải đồng ý với một số nguyên tắc cơ bản như nghe mà không ngắt lời và không sử dụng lời nhận xét xúc phạm. Mỗi người sau đó sẽ có cơ hội để nói về vấn đề này vì nó ảnh hưởng đến anh ta hay mình. Các hòa giải viên sẽ cố gắng để đảm bảo rằng mọi người đều hiểu những gì mỗi người nói và cho phép họ trả lời. Họ sau đó sẽ giúp cả hai bên xác định các vấn đề cần được giải quyết.
Rất thường này dẫn đến các giải pháp mà không ai nghĩ đến trước đó, giúp các bên đạt được thỏa thuận. Thỏa thuận này được viết ra và được ký bởi cả hai bên và các hòa giải viên chứng thực và đồng thời cũng là biên bàn thỏa thuận chung.
2.3 Trọng tài
2.3.1 Khái niệm
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục Trọng tài là trình tự áp dụng tại cơ quan Trọng tài do các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại bao gồm mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý thương mại; ký gởi, thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò; khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác. Theo Luật trọng tài thương mại thương mại (có hiệu lực từ 01/1/2011), thủ tục này gồm 2 loại : giải quyết tranh chấp tại Hội đồng trọng tài do Trung tâm trọng tài tổ chức hay tại Hội đồng trọng tài do các bên thành lập (gồm 3 Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất do các bên thỏa thuận).
• Trọng tài viên :
Để trở thành Trọng tài viên phải hội đủ các điều kiện sau:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
- Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, vô tư, khách quan.
- Có bằng đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ năm năm trở lên.
- Người đang bị quản chế hành chính, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
đã bị kết án mà chưa được xoá án tích không được làm Trọng tài viên.
- Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công chức đang công
tác tại Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án không được làm Trọng tài viên.
• Trung tâm Trọng tài :
Trung tâm Trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
Muốn thành lập Trung tâm Trọng tài phải có đề nghị của ít nhất 5 sáng lập viên có đủ điều kiện làm Trọng tài viên và được Hội Luật gia Việt Nam giới thiệu, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định cấp Giấy phép thành lập Trung tâmTrọng tài.
Sau khi được cấp giấy phép thành lập, Trung tâmTrọng tài phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Trung tâm Trọng tài đặt trụ sở đăng báo trong ba số liên tiếp về nhưng nội dung chủ yếu của trung tâm.
Trung tâm Trọng tài có Ban điều hành và các Trọng tài viên. Ban điều hành Trung tâm Trọng tài gồm có Chủ tịch, một hay các Phó chủ tịch, có thể có Tổng Thư ký do Chủ tịch Trung tâm Trọng tài cử. Những người được Trung tâm Trọng tài mời làm Trọng tài viên phải có đủ điều kiện quy định tại Điều 20 của luật này.
2.3.2 Điều kiện giải quyết bằng hình thức trọng tài
Để giải quyết theo thủ tục trọng tài, trước hay sau khi xảy ra tranh chấp, phải có thỏa thuận về việc nhờ cơ quan trọng tài giải quyết. Thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Các hình thức khác như thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hay hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài cũng được cvoi là thỏa thuận bằng văn bản. Thỏa thuận này có thể ghi hẳn trong hợp đồng hay ghi riêng. Trường hợp đã có sự thỏa thuận của hai bên về việc chọn trọng tài mà sau đó một trong hai bên đưa ra Tòa án để giải quyết thì Tòa án phải từ chối thụ lý trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
2.3.3 Thời hiệu khởi kiện
Đối với vụ tranh chấp mà pháp luật có quy định thời hiệu khởi kiện thì thựchiện theo quy định đó của pháp luật.
Đối với vụ tranh chấp mà pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài là hai năm, kể từ ngày xảy ra tranh chấp, trừ trường hợp bất khả kháng.Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày xảy ra sự kiện cho đến khi không còn sự kiện bất khả kháng.
2.3.4 Trình tự giải quyết
2.3.4.1 Đơn kiện
Để giải quyết vụ tranh chấp tại Trung tâm Trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi Trung tâm Trọng tài. Kèm theo đơn kiện, nguyên đơn phải gửi bản chính hay bản sao thoả thuận trọng tài, bản chính hay bản sao các tài liệu, chứng cứ. Bản sao phải có chứng thực hợp lệ. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ khi nhận được đơn kiện, Trung tâm Trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện của nguyên đơn, tên Trọng tài viên mà nguyên đơn chọn và các tài liệu kèm theo cùng với danh sách trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện, nếu các bên không có thoả thuận khác, bị đơn phải gửi cho Trung tâm Trọng tài bản tự bảo vệ
Để giải quyết vụ tranh chấp tại Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập,nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi cho bị đơn có các nội dung chính liên quan đến vụ kiện. Nếu không có thoả thuận khác, trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho nguyên đơn bản tự bảo vệ và tên Trọng tài viên mà mình chọn
2.3.4.2 Thành lập Hội đồng Trọng tài
a. Trường hợp giải quyết qua Trung tâm Trọng tài thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện và các tài liệu kèm theo do Trung tâm Trọng tài gửi đến, bị đơn phải chọn Trọng tài viên có tên trong danh sách Trọng tài viên của Trung tâm trọng tài và báo cho Trung tâm Trọng tài biết hay yêu cầu Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên cho mình. Hết thời hạn này, nếu bị đơn không chọn Trọng tài viên hay không yêu cầu Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên thì trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày hết hạn, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên có tên trong danh sách trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài cho bị đơn.
Trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn thì các bị đơn phải thống nhất chọn một Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu chọn Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài. Hết thời hạn này, nếu các bị đơn không chọn được Trọng tài viên thì trong thời hạn 7 ngày làm việc, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hai Trọng tài viên được các bên chọn hay được Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định, các Trọng tài viên này phải chọn Trọng tài viên thứ ba có tên trong danh sách Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Hết thời hạn này, hai Trọng tài viên được chọn hay được chỉ định không chọn được Trọng tài viên thứ ba thì trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày hết hạn, theo yêu cầu của một bên hay các bên, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên thứ ba có tên trong danh sách Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài.
Trong trường hợp các bên thoả thuận vụ tranh chấp do Trọng tài viên duy nhất của Trung tâm Trọng tài giải quyết, nhưng không chọn được Trọng tài viên thì theo yêu cầu của một bên, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên duy nhất cho các bên trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu và thông báo cho các bên. Trọng tài viên duy nhất làm nhiệm vu như một Hội đồng Trọng tài. Quyết định của Trọng tài viên duy nhất có hiệu lực thi hành như quyết định của Hội đồng Trọng tài.
b. Trường hợp giải quyết bằng Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nguyên đơn gửi đơn kiện cho bị đơn, các bên không có thỏa thuận khác, bị đơn phải chọn Trọng tài viên và thông báo cho nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình chọn. Hết thời hạn này, nếu bị đơn không thông báo cho nguyên đơn tên Trọng tài viên mà mình chọn, thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi bị đơn có trụ sở hay cư trú chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn. Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Chánh án Toà án giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn và thông báo cho các bên.
Trong trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn thì các bị đơn phải thống nhất chọn một Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện của nguyên đơn. Hết thời hạn này, các bị đơn không chọn được Trọng tài viên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án cấp tỉnh, nơi có trụ sở hay cư trú của một trong các bị đơn chỉ định Trọng tài viên cho các bị đơn. Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Chánh án Tòa án giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên theo yêu cầu nguyên đơn và thông báo cho các bên.
Trong thời hại 15 ngày, kể từ ngày hai Trọng tài viên được chọn hay được Tòa án chỉ định, các Trọng tài viên này phải thống nhất chọn Trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Hết thời hạn này, nếu hai Trọng tài viên được chọn hay được chỉ định không chọn được Trọng tài viên thứ ba, các bên có quyền yêu cầu Tòa án cấp Tỉnh, nơi bị đơn có trụ sở hay cư trú chỉ định Trọng tài viên thứ ba. Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Chánh án Tòa án giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài và thông báo cho các bên.
Trọng tài viên do các bên chọn hay do Tòa án chỉ định có thể là Trọng tài viên trong danh sách hay ngoài danh sách Trọng tài viên của các trung tâm Trọng tài Việt Nam.
Trong trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do Trọng tài viên duy nhất giải quyết, nhưng khôngchọn được trọng tài viên duy nhất thì theo yêu cầu của một bên, Chánh án Tòa án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hay cư trú giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên duy nhất cho các bên trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu và thông báo cho các bên.
2.3.4.3 Nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc và thu thập chứng cứ
Sau khi được chọn hay chỉ định, các Trọng tài viên phải nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc nếu thấy cần thiết.
Hội đồng Trọng tài có quyền gặp các bên để nghe các bên trình bày ý kiến. Theo yêu cầu của một bên hay các bên hay theo sáng kiến của mình, Hội đồng Trọng tài có thể tìm hiểu sự việc từ người thứ ba với sự có mặt của các bên hay sau khi đã thông báo cho các bên.
Các bên có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng mibg sự việc mà mình nêu ra. Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng Trọng tài có thể tự mình thu thập chứng cứ, mời giám định theo yêu cầu của một bên hay các bên và phải thông báo cho các bên biết. Bên yêu cầu giám định phải nộp tạm ứng phí giám định, trường hợp các bên mời giám định thì cùng phải nộp tạm ứng phí giám định.
2.3.4.4 Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hay có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các bên có quyền làm đơn đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hay một số biện pháp khẩn cấp tạm thời sau đây:
- Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ hay có nguy cơ bị tiêu huỷ
- Kê biên tài sản tranh chấp
- Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp
- Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ
- Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng.
Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải gửi kèm theo bản sao đơn kiện, bản sao thỏa thuận trọng tài, các bằng chứng liên quan đến biện pháp khẩn cấp tạm thời yêu cầu áp dụng. Bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp một khoản tiền bảo đảm do Toà án ấn định, nhưng không quá nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của bị đơn và ngăn ngừa sự lạm dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có yêu cầu. Các khoản tiền này được gửi giữ tại ngân hàng nơi có trụ sở của Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Sau khi nhận được đơn yêu cầu, Chánh án Toà án cấp tỉnh giao cho một Thẩm phán xem xét, giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày được giao, Thẩm phán phải kiểm tra tính chính xác của những tài liệu và có thể ra quyết định áp dụng một hay một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được gửi ngay cho Hội đồng trọng tài, các bên tranh chấp và Viện Kiểm sát cùng cấp. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi hành ngay.
Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị, bị đơn có quyền yêu cầu Chánh án Toà án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời xem xét, giải quyết việc thay đổi, huỷ bỏ hay giữ nguyên các biện pháp đó. Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Viện Kiểm sát hay yêu cầu của bị đơn, Chánh án Toà án phải có quyết định và trả lời cho Viện Kiểm sát hay bị đơn.
khiếu nại ra Toà án về vấn đề thẩm quyền thì Hội đồng trọng tài có tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp hay dừng việc giải quyết vụ tranh chấp?
Như vậy, một là, có tranh chấp về “thẩm quyền” giữa trọng tài và Toà án trong giải quyết các vụ việc tranh chấp cụ thể cho dù các bên đã có thoả thuận trọng tài và trong trường hợp này, trọng tài chưa phải là cách giải quyết tranh chấp được ưu tiên áp dụng. Hai là, căn cứ vào điều kiện để Toà án tuyên huỷ phán quyết của trọng tài là dễ dàng, có phần tuỳ ý và ít tốn kém đối với bên “thua kiện”. Tiêu chí Toà án huỷ quyết định của trọng tài còn chưa rõ và rất dễ bị lạm dụng.
3.2.3.2 Về biện pháp khẩn cấp tạm thời
Thứ nhất, Luật trọng tài thương mại đã xây dựng được chế định hết sức quan trọng và có ý nghĩa trong tố tụng trọng tài đó là quyền các bên tranh chấp được yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên quy định này vẫn có điểm chưa hợp lý. Điều 33 quy định “Trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hay có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hay một số biện pháp khẩn cấp tạm thời”.
Theo quy định trên, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên phải chờ đến khi Hội đồng Trọng tài được thành lập. Tuy nhiên, nếu phải chờ đợi như vậy thì trong một số trường hợp, biện pháp này sẽ không còn ý nghĩa gì nữa. Do bản chất của biện pháp khẩn cấp tạm thời mang tính nhanh chóng, khẩn trương, kịp thời, nên biện pháp này phải được áp dụng ngay khi một bên thấy rằng quyền lợi hợp pháp của mình có nguy cơ bị xâm phạm, không nhất thiết phải chờ đợi đến khi khởi kiện hay Hội đồng trọng tài được thành lập.
Thứ hai, Luật trọng tài thương mại chỉ giới hạn thẩm quyền của Toà án, nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp mới có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này có thể gây khó khăn cho cả Toà án và các bên trong quá trình áp dụng quy định này. Ví dụ khi các bên khởi kiện ra Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, theo Luật trọng tài thương mại, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì chỉ được phép làm đơn yêu cầu Toà án nhân dân Hà Nội ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này chỉ hợp lý và thuận tiện khi cả hai bên đều có trụ sở tại Hà Nội hay đối tượng tài sản yêu cầu áp dụng đặt tại Hà Nội. Khi tài sản nằm ở địa bàn khác, nhất là trường hợp tài sản ở nước ngoài, mà yêu cầu Toà án Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ không khả thi và không hợp lý.
3.2.3.3 Vấn đề triệu tập nhân chứng
Luật trọng tài thương mại không xác lập cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với trọng tài trong việc thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng. Đây là quy định quan trọng trong tố tụng trọng tài. Quá trình giải quyết tranh chấp không chỉ có các bên mà nhiều trường hợp có liên quan đến người thứ ba hay bên thứ ba. Trong khi Toà án có thẩm quyền đương nhiên trong việc triệu tập các đối tượng này thì trọng thì lại không có thẩm quyền. Vấn đề này, Luật Trọng tài các nước có quy định rất rõ Hội đồng trọng tài hay một bên được sự đồng ý của Hội đồng trọng tài có thể yêu cầu Toà án có thẩm quyền trợ giúp thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng có mặt tại trọng tài. Do không có cơ chế hỗ trợ nêu trên, các luật sư và doanh nghiệp vẫn băn khoăn khi lựa chọn trọng tài Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
3.2.3.4 Quy định về huỷ quyết định trọng tài
Quy định về huỷ quyết định trọng tài còn nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân khiến cho cả số lượng quyết định trọng tài bị yêu cầu huỷ gia tăng đó là cơ chế huỷ quyết định trọng tài quá đơn giản. Điều 50 của Pháp lệnh quy định “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định trọng tàiQ, nếu có bên không đồng ý với quyết định trọng tài thì có quyền làm đơn gửi Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định trọng tài để yêu cầu huỷ quyết định trọng tài”.
Tranh chấp là vấn đề phức tạp, khi các bên không thể tự giải quyết được mới đưa ra trọng tài để giải quyết. Do vậy, quyết định trọng tài khó có thể thoả mãn được cả hai bên. Trong khi đó, theo Pháp lệnh chỉ cần điều kiện “không đồng ý với quyết định trọng tài” thì có quyền làm đơn yêu cầu huỷ. Điều này vô hình trung đã khuyến khích các bên làm đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài với nhiều mục đích khác nhau, đặc biệt là để kéo dài thời hạn thi hành quyết định trọng tài, để kịp tẩu tán tài sản. Một khi đưa đơn yêu cầu huỷ ra Toà án, thủ tục giải quyết đơn yêu cầu huỷ tại Toà án phải qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm, thời gian giải quyết tại Toà án cũng không xác định là bao lâu. Như vậy, nếu như các bên mong muốn được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do trọng tài có ưu điểm nhanh chóng, đơn giản thì thực tế các quy định của Luật trọng tài thương mại lại không được như các bên mong đợi. Vấn đề này cần sớm được khắc phục để tránh sự lạm dụng một cách có chủ ý của các bên, nhất là bên thua kiện tại trọng tài. Nếu không sớm giải quyết, các quyết định trọng tài sẽ có nguy cơ trở thành các bản án sơ thẩm.
3.3 Giải pháp
3.3.1 Chuyên nghiệp hoá đội ngũ hoà giải viên
Như đã phân tích, hoà giải là một cách giải quyết tranh chấp vô cùng quan trọng, ngay cả trong hoạt động hoà giải trong tố tụng lẫn hoạt động hoà giải ngoài tố tụng
Hoạt động hoà giải trong tương lai cần đươc chuyên nghiệp hoá theo hướng cần có luật điều chỉnh hoạt động hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại, nhưng phải cụ thể, rõ ràng, cũng như hoàn thiện cơ chế pháp lý áp dụng đối với các thiết chế tư pháp và bổ trợ tư pháp (luật sư, trọng tài thương mại, công chứng, giám định tư pháp) để hỗ trợ các DN xử lý tranh chấp khi tham gia hoạt động thương mại quốc tế.
Đồng thời, để hòa giđội ngũ hoà giải viên ải có thể được các DN lựa chọn như một biện pháp giải quyết tranh chấp cần có cơ chế hỗ trợ tư pháp đối với việc giải quyết các tranh chấp theo hướng kết quả hòa giải có thể được tòa án có thẩm quyền công nhận để đảm bảo khả năng thi hành trên thực tế. Bên cạnh đó, cần xây dựng được một đội ngũ hòa giải viên có năng lực và các trung tâm hòa giải chuyên nghiệp./.
3.3.2 Nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Thứ nhất, mở rộng, xác định rõ và cụ thể phạm vi thẩm quyền của trọng tài. Cụ thể, phạm vi thẩm quyền của trọng tài có thể bao gồm:
• Tất cả các tranh chấp dân sự, kinh tế và lao động đều có thể giải quyết bằng trọng tài, trừ một số ít các trường hợp được quy định cụ thể ;
• Các tranh chấp giữa cơ quan quản lý nhà nước và nhà đầu tư trong việc chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư, khuyến khích và ưu đãi đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam cũng có thể được giải quyết bằng trọng tài.
Thứ hai, mở rộng tiêu chí xác định thoả thuận trọng tài. cần làm rõ, đầy đủ cả hình thức và nội dung của thoả thuận trọng tài, bao quát hết các trường hợp thoả thuận của các bên về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, bao gồm: i) Xác định rõ nội dung tối thiểu của thoả thuận trọng tài, là sự đồng ý của các bên về việc sử dụng trọng tài như một trong số các hình thức giải quyết tranh chấp, hay đồng ý chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp; ii) Xác định rõ và cụ thể các trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu; iii), Xác định rõ và cụ thể các thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Thứ ba, Hội đồng trọng tài là cơ quan duy nhất quyết định hiệu lực của thoả thuận trọng tài.
Thứ tư, nếu các bên có tranh chấp về hiệu lực thoả thuận trọng tài (kể cả tranh chấp giữa các bên hay giữa một hay các bên với Trung tâm trọng tài) thì Toà án là nơi có quyền quyết định hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Tuy nhiên, cần xác định rõ thẩm quyền của Toà án và hiệu lực của quyết định của Toà án trong trường hợp này.
Thứ năm, xác định chặt chẽ, rõ ràng, hợp lý tiêu chí xác định Toà án có thẩm quyền đối với trọng tài theo hướng linh hoạt; đồng thời cần xác định rõ trong trường hợp nếu nhiều Toà án có thẩm quyền thì Trung tâm trọng tài có quyền lựa chọn một trong các Toà án đó và quy định rõ trách nhiệm hợp tác, phối hợp công việc của Toà án và không được quyền từ chối.
Thứ sáu, cần quy định cụ thể, chi tiết “trách nhiệm của Toà án” trong việc thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ về hình thức và nội dung yêu cầu của trọng tài, cụ thể là trong thời hạn cụ thể mà Toà án phải xem xét và chỉ định một thẩm phán có trách nhiệm thu thập chứng cứ; Toà án thông báo bằng văn bản về việc chỉ định thẩm phán. Đặc biệt phải xác định rõ trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm sự có mặt của người làm chứng , xác định rõ trình tự thủ tục nhanh chóng, thuận tiện trong việc yêu cầu Toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp, tạm thời.
Thứ bảy, xác định rõ các trường hợp Toà án có thể huỷ quyết định của trọng tài theo hướng hạn chế hơn việc huỷ quyết định trọng tài.
Thứ tám, cho phép Hội đồng trọng tài được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và trực tiếp yêu cầu cơ quan thi hành án hỗ trợ thực hiện biện pháp này.
Thứ chín, tăng cường sự hỗ trợ của Cơ quan thi hành án đối với thực thi quyết định của trọng tài thông qua việc quy định rõ tiêu chí xác định cơ quan thi hành có liên quan. Thi hành đầy đủ, kịp thời và hiệu quả phán quyết trọng tài là một trong số các giải pháp cơ bản nâng cao độ tin cậy và tính hấp dẫn của trọng tài đối với các bên tranh chấp. Phán quyết trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực kể từ ngày công bố. Các bên tranh chấp phải thừa nhận, tôn trọng và nghiêm túc thực hiện đầy đủ, kịp thời. Tuy vậy, trong trường hợp các bên không tự nguyện thi hành thì sự can thiệp và hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả của Cơ quan thi hành án là không thể thiếu, để bảo đảm hiệu lực của phán quyết trọng tài.
Với các giải pháp nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhằm mục tiêu xây dựng một hệ thống trọng tài có chất lượng, đáng tin tưởng sẽ “kéo” hoạt động giải quyết tranh chấp quay trở lại Việt Nam, góp phần thúc đẩy ngành trọng tài và xa hơn nữa, điều này có thể hấp dẫn những bên tranh chấp ngoài Việt Nam đến giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Việc khuyến khích giải quyết tranh chấp qua đường trọng tài cũng sẽ giảm tải gánh nặng về công việc cho hệ thống Toà án và góp phần nâng cao chất lượng và sự tin cậy đối với hệ thống Toà án. Tất cả điều này sẽ góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thúc đẩy hơn nữa các hoạt động dân sự, thương mại, nhất là trong hoàn cảnh toàn cầu hoá như hiện nay.
Luật trọng tài thương mại có hiệu thi hành từ ngày 1/1/2011. Mục tiêu quan trọng nhất của Luật Trọng tài là tạo một cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Toà án thuận lợi cho các bên, đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư. Cụ thể hơn, mục tiêu của Luật Trọng tài nhằm khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua hệ thống trọng tài, qua đó giảm tải công việc cho hệ thống Toà án. Luật Trọng tài ban hành nhằm giảm tải khoảng 30% số lượng tranh chấp kinh tế cho Toà án, chuyển sang giải quyết thông qua hệ thống trọng tài vào năm 2015 . Trong thời gian tới khi Luật Trong tài đi sâu vào thực tiễn , việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài sẽ hứa hẹn một bước phát triển, trong những năm tới, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong tranh chấp kinh tế.
Kết luận
Qua những nghiên cứu của nhóm về tranh chấp thương mại và các hình thức giải quyết,n hóm đã kết hợp những tài liệu sưu tập được cùng những nhận định chủ quan khi tìm hiểu về đề tài, qua đó giúp người đọc hiểu rõ hơn về các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại cũng như ưu và nhược điểm của các hình thức, nhằm tạo điều kiện cho các bên lựa chọn hình thức thích hợp để giải quyết tranh chấp nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm...
Trong cuộc sống không có điều gì là tuyệt đối, điều gì cũng có tính hai mặt của nó và các hình thức giải quyết tranh chấp cũng vậy. Bên cạnh những ưu điểm mà chúng mang lại trong quá trình thi hành thì nó cũng đang gây ra một số trở ngại,nhưng nhìn chung các hình thức giải quyết cũng tạo ra một hành lang pháp lí khá hoàn chỉnh khi điều chỉnh về việc giải quyết tranh chấp, tổ chức và hoạt động của các loại hình này. Đồng thời chúng tui cũng đã cố gắng tìm hiểu về quá trình, việc lựa chọn các hình thức giải quyết cũng như thực trạng giải quyết tranh chấp tại Việt Nam, qua đó giúp chúng ta có một cái nhìn, một bức tranh hoàn chỉnh hơn về giải quyết tranh chấp trong hoạt động thương mại tại Việt Nam.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Mục lục
1 Table of Contents
1.1 Khái niệm 4
1.2 Đặc điểm của tranh chấp thương mại 5
1.3 Phân loại tranh chấp thương mại 5
1.3.1 Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm 5
1.3.2 Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. 6
1.3.3 Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. 6
1.3.4 Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. 6
1.4 Hình thức giải quyết giải quyết tranh chấp thương mại 6
1.4.1 Các hình thức mang tính tài phán 6
1.4.2 Các hình thức không mang tính tài phán 6
2.1 Thương lượng 7
2.1.1 Khái niệm 7
2.1.2 Đặc trưng 7
2.1.3 Nguyên tắc khi tiến hành thương lượng 8
2.1.4 Cách thức thương lượng 8
2.2 Hòa giải 8
2.2.1 Khái niệm 8
2.2.2 Phân loại 9
Có hai loại hoà giải là hòa giải trong tố tụng và hòa giải ngoài tố tụng. 9
2.2.3 Các nguyên tắc của hòa giải 9
2.2.4 Tiến trình hòa giải 11
2.3 Trọng tài 11
2.3.1 Khái niệm 11
2.3.2 Điều kiện giải quyết bằng hình thức trọng tài 12
2.3.3 Thời hiệu khởi kiện 13
2.3.4 Trình tự giải quyết 13
2.3.5 Quyền yêu cầu hủy quyết định trọng tài 18
2.3.6 Thi hành quyết định trọng tài 20
2.3.7 Giải quyết vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài bằng trọng tài 20
2.4 Tòa án 21
2.4.1 Khái quát về Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ở nước ta 21
2.4.2 Thẩm quyền các cấp Toà án: 21
2.4.3 Các nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại toà án 24
2.4.4 Thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại toà án 26
2.5 So sánh giữa các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại 27
3.1 Nội dung các tranh chấp thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp 31
3.2 Lựa chọn các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh và thương mại 32
3.2.1 Hoạt động hoà giải còn thiếu tính chuyên nghiệp 32
• Nguyên nhân 32
3.2.2 .Trọng tài - một cách giải quyết tranh chấp ưu việt 33
3.2.3 Cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ngày càng hoàn thiện 38
3.3 Giải pháp 40
3.3.1 Chuyên nghiệp hoá đội ngũ hoà giải viên 40
3.3.2 Nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài 41
Lời nói đầu
Với nền kinh tế thị trường đang phát triển như ở Việt Nam hiện nay, các hoạt động thương mại đang ngày càng được đẩy mạnh, hợp tác bền vững lâu dài không chỉ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn vươn xa ra thương trường quốc tế. Hoạt động thương mại tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, mở ra cơ hội cho các nhà đầu tư, nhưng bên cạnh đó cũng không thể né tránh các yếu tố rủi ro phát sinh trong quá trình hợp tác, trao đổi buôn bán.
Khi quyền lợi của các bên không được cân bằng trong mối quan hệ này tất yếu sẽ dẫn đến những xung đột, mâu thuẫn do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nội dung các tranh chấp thương mại ngày càng đa dạng, phức tạp khiến các bên tham gia giải quyết tranh chấp cần cân nhắc kĩ các hình thức giải quyết cho phù hợp.
Theo điều 317 Luật thương mại 2005 có các hình thức chủ yếu sau đây
- Thương lượng giữa các bên
- Hoà giải giữa các bên do một cơ quan. tổ chức hay cá nhân được các bên thoả thuận chọn làm trung gian hoà giải
- Trọng tài thương mại hay toà án
Trong phạm vi nghiên cứu tiểu luận này, chúng tui xin trình bày ba phần
- Phần thức nhất là các lý luận cơ bản về tranh chấp thương mại
- Phần thứ hai bao gồm các hình thức giải quyết tranh chấp theo pháp luật hiện hành
- Phần thứ ba nêu lên vấn đề thực trạng về vấn đề tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam
Thông qua việc tìm hiểu nghiên cứu các tài liệu, tổng hợp phân tích và trình bày quan điểm của nhóm, chúng tui mong muốn mang lại một các nhìn tổng thể về vấn đề này, phục vụ tốt hơn cho môn học Pháp luật thương mại về hàng hoá và dịch vụ.
Chương 1: Những lí luận cơ bản về tranh chấp thương mại
1.1 Khái niệm
Tranh chấp theo nghĩa chung là "đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa các bên” .
Tranh chấp thương mại là các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Tranh chấp thương mại thể hiện ở các hành vi vi phạm pháp luật về thương mại:
- Vi phạm quy định về đăng ký kinh doanh; giấy phép kinh doanh của thương nhân; thành lập và hoạt động của Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam và của thương nhân nước ngoài;
- Vi phạm quy định về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập; chuyển khẩu; quá cảnh;
- Vi phạm chế độ thuế, hóa đơn, chứng từ, sổ và báo cáo kế toán;
- Vi phạm quy định về giá hàng hóa, dịch vụ;
- Vi phạm quy định về ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
- Buôn lậu, kinh doanh hàng nhập lậu, buôn bán hàng giả hay nguyên liệu, vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng giả, kinh doanh trái phép;
- Vi phạm các quy định liên quan đến chất lượng hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu;
- Gian lận, lừa dối khách hàng khi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
- Vi phạm các quy định liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
- Vi phạm quy định về quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và xuất khẩu, nhập khẩu;
- Vi phạm quy định về xuất xứ hàng hóa;
- Các vi phạm khác trong hoạt động thương mại theo quy định của pháp luật.
1.2 Đặc điểm của tranh chấp thương mại
• Tranh chấp thương mại trước hết là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh trực tiếp từ các quan hệ kinh doanh và luôn gắn liền với hoạt động kinh doanhCác bên tranh chấp thương mại thường là chủ thể kinh doanh có tư cách thương nhân hay tư cách nhà kinh doanh
• Việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại là các vấn đề do các bên tranh chấp tự định đoạt.
• Tranh chấp kinh doanh thương mại là những tranh chấp mang yếu tố vật chất và thường có giá trị lớn
1.3 Phân loại tranh chấp thương mại
Căn cứ vào Điều 29 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2004, có thể phân chia như sau:
1.3.1 Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm
a) Mua bán hàng hoá;
b) Cung ứng dịch vụ;
c) Phân phối;
d) Đại diện, đại lý;
đ) Ký gửi;
e) Thuê, cho thuê, thuê mua;
g) Xây dựng;
h) Tư vấn, kỹ thuật;
i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa;
k) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng;
n) Bảo hiểm;
o) Thăm dò, khai thác.
1.3.2 Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
1.3.3 Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
1.3.4 Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
1.4 Hình thức giải quyết giải quyết tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại có thể giải quyết bằng một trong hai cách, cách mang tính tài phán hay không mang tính tài phán.
1.4.1 Các hình thức mang tính tài phán
Tài phán là quyền của các cơ quan hành chính và tư pháp của quốc gia thực hiện giải quyết các vụ việc vi phạm pháp luật theo thẩm quyền của họ. Theo nghĩa thông thường, quyền tài phán là quyền xử lý, xét xử đối với các hành vi vi phạm.
Trong giải quyết tranh chấp thương mại, hình thức này bao gồm trọng tài thương mại và toà án. Những quyết định của toà án hay trọng tài không chỉ mang giá trị ràng buộc phải thực hiện mà buộc bên thua kiện phải thi hành các quyết định đó.
1.4.2 Các hình thức không mang tính tài phán
Bao gồm cách giải quyết tranh chấp lựa chọn (ADR - alternative dispute resolution) bao gồm hoà giải và thương lượng.
Khác với các hình thức mang tính tài phán, ADR đề cao sự tự nguyện, tinh thần thiện chí của các bên. Quyết định trong hoà giải và thương lượng không mang tính bắt buộc thi hành. Các bên có thể tự do áp dụng hay khước từ. Trong trường hợp không đạt được thoả thuận hay sự nhất trí thì họ có thể tiếp tục lựa chọn cách giải quyết mang tính tài phán.
Chương 2: Những cách giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại
2.1 Thương lượng
2.1.1 Khái niệm
Thương lượng nghĩa là "bàn bạc nhằm đi đến sự thoả thuận giải quyết một vấn đề nào đó giữa hai bên.”
Thương lượng trong hoạt động thương mại là cách giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kì bên thức ba nào.
Theo đó, muốn tiến hành thương lượng trước hết đòi hỏi sự đồng thuận tự nguyện của cả hai bên. cụ thể đó là thiện chí hợp tác, nhận thức về quá trình giải quyết mâu thuẫn một cách êm đẹp nhất.
Đây được xem như là cách giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất, thông dụng và phổ biến nhất được các bên áp dụng rộng rãi nhằm giải quyết mâu thuẫn trong tất cả mọi vấn đề, nhất là hoạt động thương mại. Bởi vì đơn giản nếu không thương lượng chúng ta sẽ không đạt được những thỏa thuận tốt nhất cho mình. Nhà nước khuyến khích áp dụng cách tự thương lượng để giải quyết tranh chấp trên tinh thần hoàn toàn tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên.
2.1.2 Đặc trưng
cách giải quyết tranh chấp này được thực hiện bởi các cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên tranh thấp gặp nhau bàn bạc, thoả thuận để tự giải quyết những bất đồng phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba trợ giúp hay ra phán quyết.
Quá trình thương lượng giữa các bên cũng không chịu sự ràng buộc của bất kì nguyên tắc pháp luật hay những qui định mang tính khuôn mẫu nào của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp nào. Việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên.
2.1.3 Nguyên tắc khi tiến hành thương lượng
Nguyên tắc trọng yếu trong việc tiến hành thương lượng chính là đôi bên cùng có lợi. Dân tộc ta có câu "dĩ hoà vi quý" - tức là lấy sự hoà hợp với nhau làm trọng. Quan điểm thiện chí góp phần giúp các bên cùng đạt được lợi ích tốt nhất. Thương lượng hiểu quả không phải là đạt được lợi ích cho một bên mà phải là sự cân bằng lợi ích của các bên liên quan.
Thương lượng không phải là chấp nhận thua hay thắng, nhượng bộ hay chèn ép. Khi tiến hành thương lượng các bên có quyền lợi ngang nhau. Đó được xem như là một giao dịch mà cả hai bên đều có quyền bác bỏ kết quả cuối cùng.Thương lượng cũng không phải là cố chấp không khoan nhượng, vì như vậy sẽ làm mâu thuẫn tăng cao. Việc thể hiện điểm mạnh và tỏ ra cứng rắn đi ngược lại với tinh thần tự nguyện, thiện chí cùng hợp tác, và như vậy càng đến tình trạng bế tắc.
2.1.4 Cách thức thương lượng
• Thương lượng trực tiếp: là cách thức mà các bên tranh chấp trực tiếp gặp nhau bàn bạc, trao đổi và đề xuất ý kiến của mỗi nên nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh chấp
• Thương lượng gián tiếp: là cách thức các bên tranh chấp gửi cho nhau tài liệu giao dịch thể hiện quan điểm và yêu cầu của mình nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh chấp.
Thực tế khi tự thương lượng thì có nhiều trường hợp không thành công. Đó là do xung đột lợi ích của các bên. Bên nào cũng muốn bảo vệ lợi ích của mình và cũng bảo vệ quan điểm và cách xử lý của mình cho nên thương lượng trực tiếp với nhau khó đạt kết quả. Vì vậy họ dùng cách giải quyết thứ hai là trung gian hoà giải.
2.2 Hòa giải
2.2.1 Khái niệm
Hòa giải “là hành vi thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hay xích mích một cách ổn thoả.”
Hòa giải cũng là giải quyết các tranh chấp, bất đồng giữa hai hay nhiều bên tranh chấp bằng việc các bên dàn xếp, thương lượng với nhau có sự tham gia của bên thứ ba (không phải là bên tranh chấp).
Hòa giải còn được hiểu ở góc độ rộng hơn là một quá trình, trong đó bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ. Hòa giải cũng được coi là sự tiếp nối của quá trình thương lượng, trong đó các bên cố gắng làm điều hoà những ý kiến bất đồng.
Bên thứ ba đóng vai trò trung gian, hoà toàn độc lập với hai bên, không có quyền áp đặt, thiên vị, hay hành động như một người môi giới, giúp hai bên ngồi lại với nhau và tìm cách đưa các bên tranh chấp tới những điểm mà họ có thể thoã thuận được.
2.2.2 Phân loại
Có hai loại hoà giải là hòa giải trong tố tụng và hòa giải ngoài tố tụng.
• Hòa giải trong tố tụng được hiểu là việc hòa giải được tiến hành khi vụ án đã nằm trong vòng tố tụng, tức là khi Tòa án đã thụ lý đơn khởi kiện. Thông thường, việc hòa giải trong tố tụng sẽ do cơ quan tiến hành tố tụng đứng ra thực hiện.
• Hòa giải ngoài tố tụng là việc các bên trong vụ việc tự thương lượng hòa giả với nhau hay thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ví dụ như cơ quan hòa giải của UBND cấp xã. Thông thường, hòa giải ngoài tố tụng được tiến hành trước khi vụ việc được đưa đến tòa án. Phần trình bày sau đây chủ yếu tập trung bàn về hoà giải ngoài tố tụng.
Ở Việt Nam, chế định hòa giải đã được quy định trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh Giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996. Chế định hòa giải ra đời có một ý nghĩa rất quan trọng. Nó đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử hình thành và tồn tại của chế định hòa giải trong tố tụng tư pháp nói chung.
2.2.3 Các nguyên tắc của hòa giải
Nguyên tắc hoà giải là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo mà khi tiến hành hoạt động hoà giải phải tuân thủ một cách đầy đủ, toàn diện và nghiêm túc. dựa vào Điều 4 Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, hoạt động hoà giải trong tranh chấp thương mại cần bảo đảm các nguyên tắc sau:
• Thứ nhất, tôn trọng sự tự nguyện, quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoà giải. Vì bản chất của hoà giải là việc giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thoả thuận trên cơ sở tự nguyện. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên có tranh chấp trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật.
Người làm công tác hoà giải phải hiểu được tâm lý của những người đang có mâu thuẫn, tranh chấp, giữa họ ai cũng có những lý lẽ cho rằng mình đúng và không chấp nhận lý lẽ của bên kia. Do đó, khi hoà giải, hoà giải viêm phải giúp họ bình tĩnh, tỉnh táo để nhìn nhận ra sự thật, thấy rõ cái đúng, cái sai của cả hai bên. Chỉ khi nào họ hiểu đúng đắn và thông cảm với nhau thì họ mới tự nguyện cùng nhau giải quyết mọi mâu thuẫn.
• Thứ hai,việc hòa giải các tranh chấp kinh tế phải bảo đảm tính khách quan, công bằng, hợp lý, không trái pháp luật và không trái các tập quán thương mại quốc tế,phù hợp với đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân
Hoà giải viên trước tiên phải có trình độ chuyên môn nhất định hiểu biết rõ chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bên cạnh đó cần kết hợp với các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân.
Thông thường khi mâu thuẫn xảy ra, mỗi bên tranh chấp đều đưa ra lý lẽ để tự bảo vệ mình cho mình là đúng, không nhìn nhận được cái sai của mình đã gây ra cho người khác. Do đó người hoà giải phải thực sự khách quan, vô tư, công minh, đề cao lẽ phải, tìm cách thuyết phục để mỗi bên hiểu rõ sai trái, không xuề xòa “dĩ hoà vi quý” cho xong việc. Hơn nữa sự công minh, khách quan, vô tư của người hoà giải sẽ là yếu tố để hai bên đặt lòng tin và cùng nhau giải quyết vụ việc.
• Thứ ba, bảo vệ uy tín của các bên tranh chấp trên thương trường, bảo toàn các yếu tố bí mật, bí quyết kinh doanh trong quá trình hòa giải;tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Trong quá trình thực hiện hoà giải, tổ viên Tổ hoà giải phải giữ bí mật yếu tố bí mật, bí quyết kinh doanh trong quá trình hòa giải của các bên tranh chấp. Khi đã được các bên tranh chấp tin tưởng và thổ lộ thông tin bí mật của mình cho hoà giải viên, thì hoà giải viên không được phép tiết lộ thông tin đó cho người khác.
Bên cạnh đó, hoà giải phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Nguyên tắc này mang tính pháp lý cao và thường được áp dụng cho mọi loại hình hoà giải các tranh chấp kể cả việc hoà giải được thực hiện bởi Toà án và tổ chức trọng tài.
• Thứ tư, kịp thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, hạn chế những hậu quả xấu khác có thể xảy ra và đạt được kết quả hoà giải.
2.2.4 Tiến trình hòa giải
Hòa giải là một quá trình linh hoạt được sử dụng trong một số tình huống khác nhau.
Có thể được trực tiếp hay gián tiếp có nghĩa là những người tham gia gặp mặt trực tiếp hay khi đó là không thích hợp, những hòa giải trung gian có thể có ích.
Ban đầu, các bên đang viếng thăm cá nhân của các hòa giải viên. Các hòa giải viên sẽ yêu cầu mỗi người trong số họ để giải thích làm thế nào họ thấy tình hình hiện nay, và làm thế nào họ muốn nó được sau khi hòa giải.
Họ cũng sẽ hỏi ý kiến các bên có để sắp xếp các bất đồng.Thông tin được chia sẻ trong buổi hòa giải là riêng tư và bảo mật (trừ công bố lạm dụng nghiêm trọng), hay trừ khi có thoả thuận khác.
Nếu cả hai bên đồng ý đi đến một cuộc họp chung, các bước sau đâysẽ diễn ra. Hòa giải viên sẽ giải thích cấu trúc của các cuộc họp và yêu cầu mọi người phải đồng ý với một số nguyên tắc cơ bản như nghe mà không ngắt lời và không sử dụng lời nhận xét xúc phạm. Mỗi người sau đó sẽ có cơ hội để nói về vấn đề này vì nó ảnh hưởng đến anh ta hay mình. Các hòa giải viên sẽ cố gắng để đảm bảo rằng mọi người đều hiểu những gì mỗi người nói và cho phép họ trả lời. Họ sau đó sẽ giúp cả hai bên xác định các vấn đề cần được giải quyết.
Rất thường này dẫn đến các giải pháp mà không ai nghĩ đến trước đó, giúp các bên đạt được thỏa thuận. Thỏa thuận này được viết ra và được ký bởi cả hai bên và các hòa giải viên chứng thực và đồng thời cũng là biên bàn thỏa thuận chung.
2.3 Trọng tài
2.3.1 Khái niệm
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục Trọng tài là trình tự áp dụng tại cơ quan Trọng tài do các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại bao gồm mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý thương mại; ký gởi, thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò; khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác. Theo Luật trọng tài thương mại thương mại (có hiệu lực từ 01/1/2011), thủ tục này gồm 2 loại : giải quyết tranh chấp tại Hội đồng trọng tài do Trung tâm trọng tài tổ chức hay tại Hội đồng trọng tài do các bên thành lập (gồm 3 Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất do các bên thỏa thuận).
• Trọng tài viên :
Để trở thành Trọng tài viên phải hội đủ các điều kiện sau:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
- Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, vô tư, khách quan.
- Có bằng đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ năm năm trở lên.
- Người đang bị quản chế hành chính, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
đã bị kết án mà chưa được xoá án tích không được làm Trọng tài viên.
- Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công chức đang công
tác tại Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án không được làm Trọng tài viên.
• Trung tâm Trọng tài :
Trung tâm Trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
Muốn thành lập Trung tâm Trọng tài phải có đề nghị của ít nhất 5 sáng lập viên có đủ điều kiện làm Trọng tài viên và được Hội Luật gia Việt Nam giới thiệu, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định cấp Giấy phép thành lập Trung tâmTrọng tài.
Sau khi được cấp giấy phép thành lập, Trung tâmTrọng tài phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Trung tâm Trọng tài đặt trụ sở đăng báo trong ba số liên tiếp về nhưng nội dung chủ yếu của trung tâm.
Trung tâm Trọng tài có Ban điều hành và các Trọng tài viên. Ban điều hành Trung tâm Trọng tài gồm có Chủ tịch, một hay các Phó chủ tịch, có thể có Tổng Thư ký do Chủ tịch Trung tâm Trọng tài cử. Những người được Trung tâm Trọng tài mời làm Trọng tài viên phải có đủ điều kiện quy định tại Điều 20 của luật này.
2.3.2 Điều kiện giải quyết bằng hình thức trọng tài
Để giải quyết theo thủ tục trọng tài, trước hay sau khi xảy ra tranh chấp, phải có thỏa thuận về việc nhờ cơ quan trọng tài giải quyết. Thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Các hình thức khác như thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hay hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài cũng được cvoi là thỏa thuận bằng văn bản. Thỏa thuận này có thể ghi hẳn trong hợp đồng hay ghi riêng. Trường hợp đã có sự thỏa thuận của hai bên về việc chọn trọng tài mà sau đó một trong hai bên đưa ra Tòa án để giải quyết thì Tòa án phải từ chối thụ lý trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
2.3.3 Thời hiệu khởi kiện
Đối với vụ tranh chấp mà pháp luật có quy định thời hiệu khởi kiện thì thựchiện theo quy định đó của pháp luật.
Đối với vụ tranh chấp mà pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài là hai năm, kể từ ngày xảy ra tranh chấp, trừ trường hợp bất khả kháng.Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày xảy ra sự kiện cho đến khi không còn sự kiện bất khả kháng.
2.3.4 Trình tự giải quyết
2.3.4.1 Đơn kiện
Để giải quyết vụ tranh chấp tại Trung tâm Trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi Trung tâm Trọng tài. Kèm theo đơn kiện, nguyên đơn phải gửi bản chính hay bản sao thoả thuận trọng tài, bản chính hay bản sao các tài liệu, chứng cứ. Bản sao phải có chứng thực hợp lệ. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ khi nhận được đơn kiện, Trung tâm Trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện của nguyên đơn, tên Trọng tài viên mà nguyên đơn chọn và các tài liệu kèm theo cùng với danh sách trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện, nếu các bên không có thoả thuận khác, bị đơn phải gửi cho Trung tâm Trọng tài bản tự bảo vệ
Để giải quyết vụ tranh chấp tại Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập,nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi cho bị đơn có các nội dung chính liên quan đến vụ kiện. Nếu không có thoả thuận khác, trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho nguyên đơn bản tự bảo vệ và tên Trọng tài viên mà mình chọn
2.3.4.2 Thành lập Hội đồng Trọng tài
a. Trường hợp giải quyết qua Trung tâm Trọng tài thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện và các tài liệu kèm theo do Trung tâm Trọng tài gửi đến, bị đơn phải chọn Trọng tài viên có tên trong danh sách Trọng tài viên của Trung tâm trọng tài và báo cho Trung tâm Trọng tài biết hay yêu cầu Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên cho mình. Hết thời hạn này, nếu bị đơn không chọn Trọng tài viên hay không yêu cầu Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên thì trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày hết hạn, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên có tên trong danh sách trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài cho bị đơn.
Trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn thì các bị đơn phải thống nhất chọn một Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu chọn Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài. Hết thời hạn này, nếu các bị đơn không chọn được Trọng tài viên thì trong thời hạn 7 ngày làm việc, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hai Trọng tài viên được các bên chọn hay được Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định, các Trọng tài viên này phải chọn Trọng tài viên thứ ba có tên trong danh sách Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Hết thời hạn này, hai Trọng tài viên được chọn hay được chỉ định không chọn được Trọng tài viên thứ ba thì trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày hết hạn, theo yêu cầu của một bên hay các bên, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên thứ ba có tên trong danh sách Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài.
Trong trường hợp các bên thoả thuận vụ tranh chấp do Trọng tài viên duy nhất của Trung tâm Trọng tài giải quyết, nhưng không chọn được Trọng tài viên thì theo yêu cầu của một bên, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên duy nhất cho các bên trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu và thông báo cho các bên. Trọng tài viên duy nhất làm nhiệm vu như một Hội đồng Trọng tài. Quyết định của Trọng tài viên duy nhất có hiệu lực thi hành như quyết định của Hội đồng Trọng tài.
b. Trường hợp giải quyết bằng Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nguyên đơn gửi đơn kiện cho bị đơn, các bên không có thỏa thuận khác, bị đơn phải chọn Trọng tài viên và thông báo cho nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình chọn. Hết thời hạn này, nếu bị đơn không thông báo cho nguyên đơn tên Trọng tài viên mà mình chọn, thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi bị đơn có trụ sở hay cư trú chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn. Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Chánh án Toà án giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn và thông báo cho các bên.
Trong trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn thì các bị đơn phải thống nhất chọn một Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện của nguyên đơn. Hết thời hạn này, các bị đơn không chọn được Trọng tài viên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án cấp tỉnh, nơi có trụ sở hay cư trú của một trong các bị đơn chỉ định Trọng tài viên cho các bị đơn. Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Chánh án Tòa án giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên theo yêu cầu nguyên đơn và thông báo cho các bên.
Trong thời hại 15 ngày, kể từ ngày hai Trọng tài viên được chọn hay được Tòa án chỉ định, các Trọng tài viên này phải thống nhất chọn Trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Hết thời hạn này, nếu hai Trọng tài viên được chọn hay được chỉ định không chọn được Trọng tài viên thứ ba, các bên có quyền yêu cầu Tòa án cấp Tỉnh, nơi bị đơn có trụ sở hay cư trú chỉ định Trọng tài viên thứ ba. Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Chánh án Tòa án giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài và thông báo cho các bên.
Trọng tài viên do các bên chọn hay do Tòa án chỉ định có thể là Trọng tài viên trong danh sách hay ngoài danh sách Trọng tài viên của các trung tâm Trọng tài Việt Nam.
Trong trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do Trọng tài viên duy nhất giải quyết, nhưng khôngchọn được trọng tài viên duy nhất thì theo yêu cầu của một bên, Chánh án Tòa án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hay cư trú giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên duy nhất cho các bên trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu và thông báo cho các bên.
2.3.4.3 Nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc và thu thập chứng cứ
Sau khi được chọn hay chỉ định, các Trọng tài viên phải nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc nếu thấy cần thiết.
Hội đồng Trọng tài có quyền gặp các bên để nghe các bên trình bày ý kiến. Theo yêu cầu của một bên hay các bên hay theo sáng kiến của mình, Hội đồng Trọng tài có thể tìm hiểu sự việc từ người thứ ba với sự có mặt của các bên hay sau khi đã thông báo cho các bên.
Các bên có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng mibg sự việc mà mình nêu ra. Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng Trọng tài có thể tự mình thu thập chứng cứ, mời giám định theo yêu cầu của một bên hay các bên và phải thông báo cho các bên biết. Bên yêu cầu giám định phải nộp tạm ứng phí giám định, trường hợp các bên mời giám định thì cùng phải nộp tạm ứng phí giám định.
2.3.4.4 Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hay có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các bên có quyền làm đơn đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hay một số biện pháp khẩn cấp tạm thời sau đây:
- Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ hay có nguy cơ bị tiêu huỷ
- Kê biên tài sản tranh chấp
- Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp
- Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ
- Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng.
Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải gửi kèm theo bản sao đơn kiện, bản sao thỏa thuận trọng tài, các bằng chứng liên quan đến biện pháp khẩn cấp tạm thời yêu cầu áp dụng. Bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp một khoản tiền bảo đảm do Toà án ấn định, nhưng không quá nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của bị đơn và ngăn ngừa sự lạm dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có yêu cầu. Các khoản tiền này được gửi giữ tại ngân hàng nơi có trụ sở của Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Sau khi nhận được đơn yêu cầu, Chánh án Toà án cấp tỉnh giao cho một Thẩm phán xem xét, giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày được giao, Thẩm phán phải kiểm tra tính chính xác của những tài liệu và có thể ra quyết định áp dụng một hay một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được gửi ngay cho Hội đồng trọng tài, các bên tranh chấp và Viện Kiểm sát cùng cấp. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi hành ngay.
Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị, bị đơn có quyền yêu cầu Chánh án Toà án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời xem xét, giải quyết việc thay đổi, huỷ bỏ hay giữ nguyên các biện pháp đó. Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Viện Kiểm sát hay yêu cầu của bị đơn, Chánh án Toà án phải có quyết định và trả lời cho Viện Kiểm sát hay bị đơn.
khiếu nại ra Toà án về vấn đề thẩm quyền thì Hội đồng trọng tài có tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp hay dừng việc giải quyết vụ tranh chấp?
Như vậy, một là, có tranh chấp về “thẩm quyền” giữa trọng tài và Toà án trong giải quyết các vụ việc tranh chấp cụ thể cho dù các bên đã có thoả thuận trọng tài và trong trường hợp này, trọng tài chưa phải là cách giải quyết tranh chấp được ưu tiên áp dụng. Hai là, căn cứ vào điều kiện để Toà án tuyên huỷ phán quyết của trọng tài là dễ dàng, có phần tuỳ ý và ít tốn kém đối với bên “thua kiện”. Tiêu chí Toà án huỷ quyết định của trọng tài còn chưa rõ và rất dễ bị lạm dụng.
3.2.3.2 Về biện pháp khẩn cấp tạm thời
Thứ nhất, Luật trọng tài thương mại đã xây dựng được chế định hết sức quan trọng và có ý nghĩa trong tố tụng trọng tài đó là quyền các bên tranh chấp được yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên quy định này vẫn có điểm chưa hợp lý. Điều 33 quy định “Trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hay có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hay một số biện pháp khẩn cấp tạm thời”.
Theo quy định trên, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên phải chờ đến khi Hội đồng Trọng tài được thành lập. Tuy nhiên, nếu phải chờ đợi như vậy thì trong một số trường hợp, biện pháp này sẽ không còn ý nghĩa gì nữa. Do bản chất của biện pháp khẩn cấp tạm thời mang tính nhanh chóng, khẩn trương, kịp thời, nên biện pháp này phải được áp dụng ngay khi một bên thấy rằng quyền lợi hợp pháp của mình có nguy cơ bị xâm phạm, không nhất thiết phải chờ đợi đến khi khởi kiện hay Hội đồng trọng tài được thành lập.
Thứ hai, Luật trọng tài thương mại chỉ giới hạn thẩm quyền của Toà án, nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp mới có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này có thể gây khó khăn cho cả Toà án và các bên trong quá trình áp dụng quy định này. Ví dụ khi các bên khởi kiện ra Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, theo Luật trọng tài thương mại, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì chỉ được phép làm đơn yêu cầu Toà án nhân dân Hà Nội ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này chỉ hợp lý và thuận tiện khi cả hai bên đều có trụ sở tại Hà Nội hay đối tượng tài sản yêu cầu áp dụng đặt tại Hà Nội. Khi tài sản nằm ở địa bàn khác, nhất là trường hợp tài sản ở nước ngoài, mà yêu cầu Toà án Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ không khả thi và không hợp lý.
3.2.3.3 Vấn đề triệu tập nhân chứng
Luật trọng tài thương mại không xác lập cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với trọng tài trong việc thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng. Đây là quy định quan trọng trong tố tụng trọng tài. Quá trình giải quyết tranh chấp không chỉ có các bên mà nhiều trường hợp có liên quan đến người thứ ba hay bên thứ ba. Trong khi Toà án có thẩm quyền đương nhiên trong việc triệu tập các đối tượng này thì trọng thì lại không có thẩm quyền. Vấn đề này, Luật Trọng tài các nước có quy định rất rõ Hội đồng trọng tài hay một bên được sự đồng ý của Hội đồng trọng tài có thể yêu cầu Toà án có thẩm quyền trợ giúp thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng có mặt tại trọng tài. Do không có cơ chế hỗ trợ nêu trên, các luật sư và doanh nghiệp vẫn băn khoăn khi lựa chọn trọng tài Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
3.2.3.4 Quy định về huỷ quyết định trọng tài
Quy định về huỷ quyết định trọng tài còn nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân khiến cho cả số lượng quyết định trọng tài bị yêu cầu huỷ gia tăng đó là cơ chế huỷ quyết định trọng tài quá đơn giản. Điều 50 của Pháp lệnh quy định “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định trọng tàiQ, nếu có bên không đồng ý với quyết định trọng tài thì có quyền làm đơn gửi Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định trọng tài để yêu cầu huỷ quyết định trọng tài”.
Tranh chấp là vấn đề phức tạp, khi các bên không thể tự giải quyết được mới đưa ra trọng tài để giải quyết. Do vậy, quyết định trọng tài khó có thể thoả mãn được cả hai bên. Trong khi đó, theo Pháp lệnh chỉ cần điều kiện “không đồng ý với quyết định trọng tài” thì có quyền làm đơn yêu cầu huỷ. Điều này vô hình trung đã khuyến khích các bên làm đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài với nhiều mục đích khác nhau, đặc biệt là để kéo dài thời hạn thi hành quyết định trọng tài, để kịp tẩu tán tài sản. Một khi đưa đơn yêu cầu huỷ ra Toà án, thủ tục giải quyết đơn yêu cầu huỷ tại Toà án phải qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm, thời gian giải quyết tại Toà án cũng không xác định là bao lâu. Như vậy, nếu như các bên mong muốn được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do trọng tài có ưu điểm nhanh chóng, đơn giản thì thực tế các quy định của Luật trọng tài thương mại lại không được như các bên mong đợi. Vấn đề này cần sớm được khắc phục để tránh sự lạm dụng một cách có chủ ý của các bên, nhất là bên thua kiện tại trọng tài. Nếu không sớm giải quyết, các quyết định trọng tài sẽ có nguy cơ trở thành các bản án sơ thẩm.
3.3 Giải pháp
3.3.1 Chuyên nghiệp hoá đội ngũ hoà giải viên
Như đã phân tích, hoà giải là một cách giải quyết tranh chấp vô cùng quan trọng, ngay cả trong hoạt động hoà giải trong tố tụng lẫn hoạt động hoà giải ngoài tố tụng
Hoạt động hoà giải trong tương lai cần đươc chuyên nghiệp hoá theo hướng cần có luật điều chỉnh hoạt động hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại, nhưng phải cụ thể, rõ ràng, cũng như hoàn thiện cơ chế pháp lý áp dụng đối với các thiết chế tư pháp và bổ trợ tư pháp (luật sư, trọng tài thương mại, công chứng, giám định tư pháp) để hỗ trợ các DN xử lý tranh chấp khi tham gia hoạt động thương mại quốc tế.
Đồng thời, để hòa giđội ngũ hoà giải viên ải có thể được các DN lựa chọn như một biện pháp giải quyết tranh chấp cần có cơ chế hỗ trợ tư pháp đối với việc giải quyết các tranh chấp theo hướng kết quả hòa giải có thể được tòa án có thẩm quyền công nhận để đảm bảo khả năng thi hành trên thực tế. Bên cạnh đó, cần xây dựng được một đội ngũ hòa giải viên có năng lực và các trung tâm hòa giải chuyên nghiệp./.
3.3.2 Nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Thứ nhất, mở rộng, xác định rõ và cụ thể phạm vi thẩm quyền của trọng tài. Cụ thể, phạm vi thẩm quyền của trọng tài có thể bao gồm:
• Tất cả các tranh chấp dân sự, kinh tế và lao động đều có thể giải quyết bằng trọng tài, trừ một số ít các trường hợp được quy định cụ thể ;
• Các tranh chấp giữa cơ quan quản lý nhà nước và nhà đầu tư trong việc chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư, khuyến khích và ưu đãi đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam cũng có thể được giải quyết bằng trọng tài.
Thứ hai, mở rộng tiêu chí xác định thoả thuận trọng tài. cần làm rõ, đầy đủ cả hình thức và nội dung của thoả thuận trọng tài, bao quát hết các trường hợp thoả thuận của các bên về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, bao gồm: i) Xác định rõ nội dung tối thiểu của thoả thuận trọng tài, là sự đồng ý của các bên về việc sử dụng trọng tài như một trong số các hình thức giải quyết tranh chấp, hay đồng ý chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp; ii) Xác định rõ và cụ thể các trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu; iii), Xác định rõ và cụ thể các thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Thứ ba, Hội đồng trọng tài là cơ quan duy nhất quyết định hiệu lực của thoả thuận trọng tài.
Thứ tư, nếu các bên có tranh chấp về hiệu lực thoả thuận trọng tài (kể cả tranh chấp giữa các bên hay giữa một hay các bên với Trung tâm trọng tài) thì Toà án là nơi có quyền quyết định hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Tuy nhiên, cần xác định rõ thẩm quyền của Toà án và hiệu lực của quyết định của Toà án trong trường hợp này.
Thứ năm, xác định chặt chẽ, rõ ràng, hợp lý tiêu chí xác định Toà án có thẩm quyền đối với trọng tài theo hướng linh hoạt; đồng thời cần xác định rõ trong trường hợp nếu nhiều Toà án có thẩm quyền thì Trung tâm trọng tài có quyền lựa chọn một trong các Toà án đó và quy định rõ trách nhiệm hợp tác, phối hợp công việc của Toà án và không được quyền từ chối.
Thứ sáu, cần quy định cụ thể, chi tiết “trách nhiệm của Toà án” trong việc thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ về hình thức và nội dung yêu cầu của trọng tài, cụ thể là trong thời hạn cụ thể mà Toà án phải xem xét và chỉ định một thẩm phán có trách nhiệm thu thập chứng cứ; Toà án thông báo bằng văn bản về việc chỉ định thẩm phán. Đặc biệt phải xác định rõ trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm sự có mặt của người làm chứng , xác định rõ trình tự thủ tục nhanh chóng, thuận tiện trong việc yêu cầu Toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp, tạm thời.
Thứ bảy, xác định rõ các trường hợp Toà án có thể huỷ quyết định của trọng tài theo hướng hạn chế hơn việc huỷ quyết định trọng tài.
Thứ tám, cho phép Hội đồng trọng tài được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và trực tiếp yêu cầu cơ quan thi hành án hỗ trợ thực hiện biện pháp này.
Thứ chín, tăng cường sự hỗ trợ của Cơ quan thi hành án đối với thực thi quyết định của trọng tài thông qua việc quy định rõ tiêu chí xác định cơ quan thi hành có liên quan. Thi hành đầy đủ, kịp thời và hiệu quả phán quyết trọng tài là một trong số các giải pháp cơ bản nâng cao độ tin cậy và tính hấp dẫn của trọng tài đối với các bên tranh chấp. Phán quyết trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực kể từ ngày công bố. Các bên tranh chấp phải thừa nhận, tôn trọng và nghiêm túc thực hiện đầy đủ, kịp thời. Tuy vậy, trong trường hợp các bên không tự nguyện thi hành thì sự can thiệp và hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả của Cơ quan thi hành án là không thể thiếu, để bảo đảm hiệu lực của phán quyết trọng tài.
Với các giải pháp nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhằm mục tiêu xây dựng một hệ thống trọng tài có chất lượng, đáng tin tưởng sẽ “kéo” hoạt động giải quyết tranh chấp quay trở lại Việt Nam, góp phần thúc đẩy ngành trọng tài và xa hơn nữa, điều này có thể hấp dẫn những bên tranh chấp ngoài Việt Nam đến giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Việc khuyến khích giải quyết tranh chấp qua đường trọng tài cũng sẽ giảm tải gánh nặng về công việc cho hệ thống Toà án và góp phần nâng cao chất lượng và sự tin cậy đối với hệ thống Toà án. Tất cả điều này sẽ góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thúc đẩy hơn nữa các hoạt động dân sự, thương mại, nhất là trong hoàn cảnh toàn cầu hoá như hiện nay.
Luật trọng tài thương mại có hiệu thi hành từ ngày 1/1/2011. Mục tiêu quan trọng nhất của Luật Trọng tài là tạo một cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Toà án thuận lợi cho các bên, đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư. Cụ thể hơn, mục tiêu của Luật Trọng tài nhằm khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua hệ thống trọng tài, qua đó giảm tải công việc cho hệ thống Toà án. Luật Trọng tài ban hành nhằm giảm tải khoảng 30% số lượng tranh chấp kinh tế cho Toà án, chuyển sang giải quyết thông qua hệ thống trọng tài vào năm 2015 . Trong thời gian tới khi Luật Trong tài đi sâu vào thực tiễn , việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài sẽ hứa hẹn một bước phát triển, trong những năm tới, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong tranh chấp kinh tế.
Kết luận
Qua những nghiên cứu của nhóm về tranh chấp thương mại và các hình thức giải quyết,n hóm đã kết hợp những tài liệu sưu tập được cùng những nhận định chủ quan khi tìm hiểu về đề tài, qua đó giúp người đọc hiểu rõ hơn về các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại cũng như ưu và nhược điểm của các hình thức, nhằm tạo điều kiện cho các bên lựa chọn hình thức thích hợp để giải quyết tranh chấp nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm...
Trong cuộc sống không có điều gì là tuyệt đối, điều gì cũng có tính hai mặt của nó và các hình thức giải quyết tranh chấp cũng vậy. Bên cạnh những ưu điểm mà chúng mang lại trong quá trình thi hành thì nó cũng đang gây ra một số trở ngại,nhưng nhìn chung các hình thức giải quyết cũng tạo ra một hành lang pháp lí khá hoàn chỉnh khi điều chỉnh về việc giải quyết tranh chấp, tổ chức và hoạt động của các loại hình này. Đồng thời chúng tui cũng đã cố gắng tìm hiểu về quá trình, việc lựa chọn các hình thức giải quyết cũng như thực trạng giải quyết tranh chấp tại Việt Nam, qua đó giúp chúng ta có một cái nhìn, một bức tranh hoàn chỉnh hơn về giải quyết tranh chấp trong hoạt động thương mại tại Việt Nam.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: