Download Luận văn Triển khai quyền chọn cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Các đợt sốt giá đầu năm 2001 cho thấy phần n ào tính hấp dẫn của một thị tr ường
non trẻ tạo ra các l àn sóng đầu tư đón đầu vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Những nhà đầu tư tiên phong có công làm b ật lên thị trường trong giai đoạn đầu hầu
như là giới thạo nghề gồm những ng ười và tổ chức trong v à ngoài nư ớc có kinh
nghiệm, có tiềm lực t ài chính và nh ậy bén, có mục ti êu và chiến lược đầu tư rõ ràng
và chủ động, có ý đồ đầu t ư dài hạn. Tuy nhi ên, trong quá trình s ưu tập danh mục cổ
phiếu cho mình họ mặc nhiên tạo ra tình trạng cạnh tranh mua l àm cho thị trường
bắt đầu nóng l ên
Như là một quy luật, thị tr ường sôi động v à giá tăng liên t ục đã nhanh chóng cu ốn
hút một làn sóng nhà đ ầu tư mới khác muốn thử thời vận tr ên thị trường tài chính có
mức sinh lợi hấp dẫn, tham gia dễ d àng. Nhóm đ ầu tư này không có ki ến thức v à
hiểu biết sâu sắc về TTCK, không chấp nhận thua lỗ trong ngắn hạn c ùng với việc
mua bán chỉ dựa vào cảm tính và theo xu hư ớng số đông (bầy đ àn), mua nhanh ch ờ
giá lên và bán nhanh vì s ợ giásẽ giảm (l ướt sóng). Ở nhóm nh à đầu tư này, khả
năng phân tích t ình hình tài chính, đánh giá các ch ỉ số hoạt động của doanh nghiệp
rất hạn chế, đ ưa đến hệ quả l à các lệnh giao dịch của họ vô t ình làm th ị trường chao
đảo, tuy trong thời gian ngắn cũng phần nào làm mất phương hướng của nhà đầu tư
cũ và tạo tâm lý ngần ngại cho các nh à đầu tư mới muốn tham gia v ào thị trường.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
điểm. Tháng 03/2007 chỉ số VN -index vượt quá 1.170 điểm và cuối năm 2007 chỉ
còn 927,02 điểm và còn tiếp tục giảm nữa sang những tháng đầu năm 2008 nói l ên
sự thăng trầm của thị trường chứng khoán Việt Nam sinh sau đẻ muộn v à rất còn
mới mẻ này. Đến ngày 08/04/2008 Phiên thứ hai áp dụng biên độ dao động mới, chỉ
số VN-index tăng vượt qua ngưỡng 500 điểm với mốc 548,56 điểm cuối ng ày giao
dịch và các nhà đầu tư ồ ạt xả hàng nhằm thực hiện hóa lợi nhuận sau 9 phiên thị
trường tăng điểm liên tiếp. Trong khi nhà đầu tư nội xả hàng thì nhà đầu tư ngoại
tăng mạnh việc mua vào.Đến ngày 09/04/2008 chỉ số VN-index tăng đến 552,05
điểm và như vậy thị trường chứng khoán đang có dấu hiệu phục hồi nhẹ (Hình 2.1).
Luận Văn Thạc sĩ - 38 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
Hình 2.1:
Bảng 2.1: Quy mô TTCK Việt Nam qua các năm từ 2000 – 2007
Năm Giá trị vốn hoá thị trường phiên cuối năm (Tỷ đồng) Tăng (*)
2000 1.046 136 %
2001 1.605 53 %
2002 2.537 58 %
2003 2.408 -5 %
2004 3.913 63 %
2005 7.765 98 %
2006 145.896 1779 %
2007 364.425 150 %
Nguồn: Từ các trang web của HoSE (http//www.vse.org.vn), các công ty chứng khoán SSI, BSC,
BVS…và (*) là tính toán của tác giả Hồ Viết Tiến (bài đăng trên tạp chí Phát triển kinh tế số tháng
2/2008), riêng năm 2000 so với ngày khai trương.
VN-Index vượt qua ngưỡng 550 điểm trong ngày 9/4/08 – (Nguồn: vse.org.vn)
Luận Văn Thạc sĩ - 39 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
Xét về góc độ quy mô thì thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé so với
khu vực và trên thế giới; tổng số vốn hoá thị tr ường hiện nay chỉ gần 23 tỷ USD
(cuối năm 2007), trong khi Thái Lan- 119 tỷ USD; Trung Quốc- 681tỷ USD; Nhật-
3040 tỷ USD; Mỹ- 14.266 tỷ USD. Bảng 2.1 cho thấy sự tăng trưởng giá trị vốn
hoá thị trường ở các phiên giao dịch cuối năm như trên.
Hình 2.2:
HÌNH 2.2b – HASTC
(Nguồn: Công ty chứng khoán Quốc gia)
Qua phân tích và với hai đồ thị trên hình 2.2a-2.2b chứng tỏ thị trường chứng
khoán Việt Nam còn rất non trẻ và đầy biến động.
HÌNH 2.2a - HOSE
Luận Văn Thạc sĩ - 40 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
Bảng 2.2: Chỉ số VN-Index từ 2000 – 2007
Năm Chỉ số VN-index phiên cuối năm Tăng (*)
2000 206,83 106,8 %
2001 235,40 13,8 %
2002 183,33 -22,1 %
2003 166,94 -8,9 %
2004 239,29 43,3 %
2005 307,50 28,5 %
2006 751,77 144,5 %
2007 927,02 23,3 %
Trung bình 35, 0 %
Nguồn: Từ các trang web của HoSE (http//www.vse.org.vn), các công ty chứng
khoán SSI, BSC, BVS…và (*) là tính toán của tác giả Hồ Viết Tiến (bài đăng trên
tạp chí Phát triển kinh tế số tháng 2/2008), ri êng năm 2000 so với ngày khai
trương.
Bảng 2.2 Cho thấy sự tăng trưởng chỉ số VN-index từ năm 2000 – 2007.
Lưu ý rằng trong năm 2007 ở vào thời điểm tháng ba chỉ số VN-index vượt quá
1.170 điểm, nhiều nhà đầu tư bước vào thị trường đến cuối năm 2007 th ì chỉ số sụt
giảm còn 927,02 điểm gây nên cảm giác thất bại và bi quan phổ biến trên khắp thị
trường.
Nhìn chung TTCK Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định sau hơn bảy
năm hoạt động tạo ra một kênh huy động vốn nhanh, hiệu quả, thúc đẩy cổ phần hoá
doanh nghiệp. Quy mô vốn hoá thị tr ường cổ phiếu và trái phiếu hiện đã chiếm
khoảng 36% GDP, gần bằng một nữa k ênh dẫn vốn của ngân hàng. Tuy vậy, bên
cạnh sự phát triển nhanh chóng đó của TTCK c òn chứa đựng những khó khăn và rủi
Luận Văn Thạc sĩ - 41 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
ro tiềm ẩn cần hết sức nỗ lực tháo gỡ v à khắc phục để ngày càng hoàn thiện
hơn.
2.1.2. Những rủi ro tiềm ẩn của thị trường chứng khoán Việt Nam :
Sự sụt giảm liên tục từng ngày của chỉ số VN-Index từ cuối 2007 kéo dài sang đầu
2008 phần nào thể hiện tính tất yếu phải xảy ra của TTCK Việt Nam v ì nó chứa
đựng những yếu tố rủi ro tiềm ẩn từ bên trong của nó. Bao gồm:
2.1.2.1. Tâm lý công chúng đầu tư hầu như theo kiểu bầy đàn, lướt sóng:
Các đợt sốt giá đầu năm 2001 cho thấy phần n ào tính hấp dẫn của một thị trường
non trẻ tạo ra các làn sóng đầu tư đón đầu vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Những nhà đầu tư tiên phong có công làm bật lên thị trường trong giai đoạn đầu hầu
như là giới thạo nghề gồm những người và tổ chức trong và ngoài nước có kinh
nghiệm, có tiềm lực tài chính và nhậy bén, có mục tiêu và chiến lược đầu tư rõ ràng
và chủ động, có ý đồ đầu tư dài hạn. Tuy nhiên, trong quá trình sưu tập danh mục cổ
phiếu cho mình họ mặc nhiên tạo ra tình trạng cạnh tranh mua làm cho thị trường
bắt đầu nóng lên…
Như là một quy luật, thị trường sôi động và giá tăng liên tục đã nhanh chóng cuốn
hút một làn sóng nhà đầu tư mới khác muốn thử thời vận trên thị trường tài chính có
mức sinh lợi hấp dẫn, tham gia dễ dàng. Nhóm đầu tư này không có kiến thức và
hiểu biết sâu sắc về TTCK, không chấp nhận thua lỗ trong ngắn hạn c ùng với việc
mua bán chỉ dựa vào cảm tính và theo xu hướng số đông (bầy đàn), mua nhanh chờ
giá lên và bán nhanh vì sợ giá sẽ giảm (lướt sóng). Ở nhóm nhà đầu tư này, khả
năng phân tích tình hình tài chính, đánh giá các chỉ số hoạt động của doanh nghiệp
rất hạn chế, đưa đến hệ quả là các lệnh giao dịch của họ vô t ình làm thị trường chao
đảo, tuy trong thời gian ngắn cũng phần nào làm mất phương hướng của nhà đầu tư
cũ và tạo tâm lý ngần ngại cho các nh à đầu tư mới muốn tham gia vào thị trường.
Luận Văn Thạc sĩ - 42 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
Việc nghiên cứu, đánh giá giá trị cổ phiếu đòi hỏi những kiến thức nhất định v à đầu
tư đúng mức. Với khả năng hạn chế của một số nh à đầu tư khi tham gia vào th ị
trường hàng hoá bậc cao này dẫn đến việc đầu tư ồ ạt theo xu hướng phong trào,
gánh lấy thất bại là một kết quả hoàn toàn tất yếu.
2.1.2.2. Thị trường thiếu thông tin:
Ngày 31/3/2006 và 03/04/2006, U ỷ ban chứng khoán đã có hai văn bản gửi các
trung tâm giao dịch chứng khoán và NHNN nhằm nhắc nhở và khuyến cáo các nhà
đầu tư thận trọng trước những rủi ro tiềm ẩn của thị tr ường. Thông thường các
thông tin trên thị trường chứng khoán hiện nay l à tư vấn của những tổ chức chuyên
môn. Tuy nhiên, họ rất dè dặt trong những tình huống nhậy cảm và không đưa ra
những khẳng định chắc chắn v ì mục tiêu giữ uy tín cho mình. Các công ty chứng
khoán không dám phân tích nh ững rủi ro hay lợi nhuận kém của các doanh nghiệp
có cổ phiếu niêm yết. Do vậy, người đầu tư phải tự tiên liệu, định hướng đầu tư và
coi như vai trò tư vấn của công ty chứng khoán bị triệt ti êu.
Theo luật, đối với những dữ liệu của các công ty ni êm yết, những thông tin này phải
được kiểm toán. Tuy nhiên, khi thị trường đang sốt thì ít nhà đầu tư để ý nhiều đến
những thông tin này, bên cạnh khả năng hiểu hết được những thông tin này không
phải ai cũng có. Mặt khác, giới đầu t ư cho rằng báo cáo hằng tháng theo y êu cầu
của Uỷ ban chứng khoán không có ý nghĩa do mức độ sai số của các chỉ tiêu tạm
tính, ngay cả bản cáo bạch hay báo cáo t ài chính của các công ty niêm yết c
Download Luận văn Triển khai quyền chọn cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam miễn phí
Các đợt sốt giá đầu năm 2001 cho thấy phần n ào tính hấp dẫn của một thị tr ường
non trẻ tạo ra các l àn sóng đầu tư đón đầu vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Những nhà đầu tư tiên phong có công làm b ật lên thị trường trong giai đoạn đầu hầu
như là giới thạo nghề gồm những ng ười và tổ chức trong v à ngoài nư ớc có kinh
nghiệm, có tiềm lực t ài chính và nh ậy bén, có mục ti êu và chiến lược đầu tư rõ ràng
và chủ động, có ý đồ đầu t ư dài hạn. Tuy nhi ên, trong quá trình s ưu tập danh mục cổ
phiếu cho mình họ mặc nhiên tạo ra tình trạng cạnh tranh mua l àm cho thị trường
bắt đầu nóng l ên
Như là một quy luật, thị tr ường sôi động v à giá tăng liên t ục đã nhanh chóng cu ốn
hút một làn sóng nhà đ ầu tư mới khác muốn thử thời vận tr ên thị trường tài chính có
mức sinh lợi hấp dẫn, tham gia dễ d àng. Nhóm đ ầu tư này không có ki ến thức v à
hiểu biết sâu sắc về TTCK, không chấp nhận thua lỗ trong ngắn hạn c ùng với việc
mua bán chỉ dựa vào cảm tính và theo xu hư ớng số đông (bầy đ àn), mua nhanh ch ờ
giá lên và bán nhanh vì s ợ giásẽ giảm (l ướt sóng). Ở nhóm nh à đầu tư này, khả
năng phân tích t ình hình tài chính, đánh giá các ch ỉ số hoạt động của doanh nghiệp
rất hạn chế, đ ưa đến hệ quả l à các lệnh giao dịch của họ vô t ình làm th ị trường chao
đảo, tuy trong thời gian ngắn cũng phần nào làm mất phương hướng của nhà đầu tư
cũ và tạo tâm lý ngần ngại cho các nh à đầu tư mới muốn tham gia v ào thị trường.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
T: 228điểm. Tháng 03/2007 chỉ số VN -index vượt quá 1.170 điểm và cuối năm 2007 chỉ
còn 927,02 điểm và còn tiếp tục giảm nữa sang những tháng đầu năm 2008 nói l ên
sự thăng trầm của thị trường chứng khoán Việt Nam sinh sau đẻ muộn v à rất còn
mới mẻ này. Đến ngày 08/04/2008 Phiên thứ hai áp dụng biên độ dao động mới, chỉ
số VN-index tăng vượt qua ngưỡng 500 điểm với mốc 548,56 điểm cuối ng ày giao
dịch và các nhà đầu tư ồ ạt xả hàng nhằm thực hiện hóa lợi nhuận sau 9 phiên thị
trường tăng điểm liên tiếp. Trong khi nhà đầu tư nội xả hàng thì nhà đầu tư ngoại
tăng mạnh việc mua vào.Đến ngày 09/04/2008 chỉ số VN-index tăng đến 552,05
điểm và như vậy thị trường chứng khoán đang có dấu hiệu phục hồi nhẹ (Hình 2.1).
Luận Văn Thạc sĩ - 38 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
Hình 2.1:
Bảng 2.1: Quy mô TTCK Việt Nam qua các năm từ 2000 – 2007
Năm Giá trị vốn hoá thị trường phiên cuối năm (Tỷ đồng) Tăng (*)
2000 1.046 136 %
2001 1.605 53 %
2002 2.537 58 %
2003 2.408 -5 %
2004 3.913 63 %
2005 7.765 98 %
2006 145.896 1779 %
2007 364.425 150 %
Nguồn: Từ các trang web của HoSE (http//www.vse.org.vn), các công ty chứng khoán SSI, BSC,
BVS…và (*) là tính toán của tác giả Hồ Viết Tiến (bài đăng trên tạp chí Phát triển kinh tế số tháng
2/2008), riêng năm 2000 so với ngày khai trương.
VN-Index vượt qua ngưỡng 550 điểm trong ngày 9/4/08 – (Nguồn: vse.org.vn)
Luận Văn Thạc sĩ - 39 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
Xét về góc độ quy mô thì thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé so với
khu vực và trên thế giới; tổng số vốn hoá thị tr ường hiện nay chỉ gần 23 tỷ USD
(cuối năm 2007), trong khi Thái Lan- 119 tỷ USD; Trung Quốc- 681tỷ USD; Nhật-
3040 tỷ USD; Mỹ- 14.266 tỷ USD. Bảng 2.1 cho thấy sự tăng trưởng giá trị vốn
hoá thị trường ở các phiên giao dịch cuối năm như trên.
Hình 2.2:
HÌNH 2.2b – HASTC
(Nguồn: Công ty chứng khoán Quốc gia)
Qua phân tích và với hai đồ thị trên hình 2.2a-2.2b chứng tỏ thị trường chứng
khoán Việt Nam còn rất non trẻ và đầy biến động.
HÌNH 2.2a - HOSE
Luận Văn Thạc sĩ - 40 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
Bảng 2.2: Chỉ số VN-Index từ 2000 – 2007
Năm Chỉ số VN-index phiên cuối năm Tăng (*)
2000 206,83 106,8 %
2001 235,40 13,8 %
2002 183,33 -22,1 %
2003 166,94 -8,9 %
2004 239,29 43,3 %
2005 307,50 28,5 %
2006 751,77 144,5 %
2007 927,02 23,3 %
Trung bình 35, 0 %
Nguồn: Từ các trang web của HoSE (http//www.vse.org.vn), các công ty chứng
khoán SSI, BSC, BVS…và (*) là tính toán của tác giả Hồ Viết Tiến (bài đăng trên
tạp chí Phát triển kinh tế số tháng 2/2008), ri êng năm 2000 so với ngày khai
trương.
Bảng 2.2 Cho thấy sự tăng trưởng chỉ số VN-index từ năm 2000 – 2007.
Lưu ý rằng trong năm 2007 ở vào thời điểm tháng ba chỉ số VN-index vượt quá
1.170 điểm, nhiều nhà đầu tư bước vào thị trường đến cuối năm 2007 th ì chỉ số sụt
giảm còn 927,02 điểm gây nên cảm giác thất bại và bi quan phổ biến trên khắp thị
trường.
Nhìn chung TTCK Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định sau hơn bảy
năm hoạt động tạo ra một kênh huy động vốn nhanh, hiệu quả, thúc đẩy cổ phần hoá
doanh nghiệp. Quy mô vốn hoá thị tr ường cổ phiếu và trái phiếu hiện đã chiếm
khoảng 36% GDP, gần bằng một nữa k ênh dẫn vốn của ngân hàng. Tuy vậy, bên
cạnh sự phát triển nhanh chóng đó của TTCK c òn chứa đựng những khó khăn và rủi
Luận Văn Thạc sĩ - 41 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
ro tiềm ẩn cần hết sức nỗ lực tháo gỡ v à khắc phục để ngày càng hoàn thiện
hơn.
2.1.2. Những rủi ro tiềm ẩn của thị trường chứng khoán Việt Nam :
Sự sụt giảm liên tục từng ngày của chỉ số VN-Index từ cuối 2007 kéo dài sang đầu
2008 phần nào thể hiện tính tất yếu phải xảy ra của TTCK Việt Nam v ì nó chứa
đựng những yếu tố rủi ro tiềm ẩn từ bên trong của nó. Bao gồm:
2.1.2.1. Tâm lý công chúng đầu tư hầu như theo kiểu bầy đàn, lướt sóng:
Các đợt sốt giá đầu năm 2001 cho thấy phần n ào tính hấp dẫn của một thị trường
non trẻ tạo ra các làn sóng đầu tư đón đầu vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Những nhà đầu tư tiên phong có công làm bật lên thị trường trong giai đoạn đầu hầu
như là giới thạo nghề gồm những người và tổ chức trong và ngoài nước có kinh
nghiệm, có tiềm lực tài chính và nhậy bén, có mục tiêu và chiến lược đầu tư rõ ràng
và chủ động, có ý đồ đầu tư dài hạn. Tuy nhiên, trong quá trình sưu tập danh mục cổ
phiếu cho mình họ mặc nhiên tạo ra tình trạng cạnh tranh mua làm cho thị trường
bắt đầu nóng lên…
Như là một quy luật, thị trường sôi động và giá tăng liên tục đã nhanh chóng cuốn
hút một làn sóng nhà đầu tư mới khác muốn thử thời vận trên thị trường tài chính có
mức sinh lợi hấp dẫn, tham gia dễ dàng. Nhóm đầu tư này không có kiến thức và
hiểu biết sâu sắc về TTCK, không chấp nhận thua lỗ trong ngắn hạn c ùng với việc
mua bán chỉ dựa vào cảm tính và theo xu hướng số đông (bầy đàn), mua nhanh chờ
giá lên và bán nhanh vì sợ giá sẽ giảm (lướt sóng). Ở nhóm nhà đầu tư này, khả
năng phân tích tình hình tài chính, đánh giá các chỉ số hoạt động của doanh nghiệp
rất hạn chế, đưa đến hệ quả là các lệnh giao dịch của họ vô t ình làm thị trường chao
đảo, tuy trong thời gian ngắn cũng phần nào làm mất phương hướng của nhà đầu tư
cũ và tạo tâm lý ngần ngại cho các nh à đầu tư mới muốn tham gia vào thị trường.
Luận Văn Thạc sĩ - 42 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
Việc nghiên cứu, đánh giá giá trị cổ phiếu đòi hỏi những kiến thức nhất định v à đầu
tư đúng mức. Với khả năng hạn chế của một số nh à đầu tư khi tham gia vào th ị
trường hàng hoá bậc cao này dẫn đến việc đầu tư ồ ạt theo xu hướng phong trào,
gánh lấy thất bại là một kết quả hoàn toàn tất yếu.
2.1.2.2. Thị trường thiếu thông tin:
Ngày 31/3/2006 và 03/04/2006, U ỷ ban chứng khoán đã có hai văn bản gửi các
trung tâm giao dịch chứng khoán và NHNN nhằm nhắc nhở và khuyến cáo các nhà
đầu tư thận trọng trước những rủi ro tiềm ẩn của thị tr ường. Thông thường các
thông tin trên thị trường chứng khoán hiện nay l à tư vấn của những tổ chức chuyên
môn. Tuy nhiên, họ rất dè dặt trong những tình huống nhậy cảm và không đưa ra
những khẳng định chắc chắn v ì mục tiêu giữ uy tín cho mình. Các công ty chứng
khoán không dám phân tích nh ững rủi ro hay lợi nhuận kém của các doanh nghiệp
có cổ phiếu niêm yết. Do vậy, người đầu tư phải tự tiên liệu, định hướng đầu tư và
coi như vai trò tư vấn của công ty chứng khoán bị triệt ti êu.
Theo luật, đối với những dữ liệu của các công ty ni êm yết, những thông tin này phải
được kiểm toán. Tuy nhiên, khi thị trường đang sốt thì ít nhà đầu tư để ý nhiều đến
những thông tin này, bên cạnh khả năng hiểu hết được những thông tin này không
phải ai cũng có. Mặt khác, giới đầu t ư cho rằng báo cáo hằng tháng theo y êu cầu
của Uỷ ban chứng khoán không có ý nghĩa do mức độ sai số của các chỉ tiêu tạm
tính, ngay cả bản cáo bạch hay báo cáo t ài chính của các công ty niêm yết c