hoang_du_88
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Đề tài : Triết học Mác Lê Nin , thế giới quan , phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và thực tiễn .
A. Đặt vấn đề
a.Lí do chọn đề tài
Khi bắt đầu làm quen với môn Triết học các bạn sinh viên năm thứ nhất thường rất lúng túng và cảm giác môn Triết học thực sự rất khó hiểu . Với 1 số lựơng kiến thức lớn với hơn 500 trang của giáo trình thì đó là 1 thử thách nếu chúng ta không hiểu ngay từ đầu ý nghĩa của việc học môn Triết học nói chung và Triết hoc Mác nói riêng
Đề tài này có nội dung tương đối tổng quát về cả 1 hệ thống Triết hoc Mác, bắt đầu từ sự ra đời của triết học và quá trình xuất hiện những tư tưởng thời đại làm sản sinh ra triết học chủ nghĩa Mac Le Nin . Sau đó tư duy biện chứng cộng với thế giới quan duy vật làm cho triết học Mac trở thành một khoa học giải thích về thế giới đặc biệt là trong xã hội và tư duy logic . Điều đó giúp cho chúng ta có thể nắm bắt được hình thức nội dung muốn trình bày của giáo trình ngay từ những bước đầu tiên .
b.Mục đích và yêu cầu của đề tài
Vì đề tài mang tính chất dẫn phương hướng học môn Triết học tui nghĩ cần nêu rõ ràng các khái niệm tiêu biểu và tác dụng của từng phần được nói đến trong đề tài .
Đề tài gồm 3 phần
- Triết học nói chung và Triết học Mác nói riêng
- Nguồn gốc và vai trò mang tính lịch sử của Triết học Mác
- Thế giới quan và phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và thực tiễn .
B. Nội dung
I.Triết học nói chung và Triết học Mác nói riêng
Triết học là gì ? Triết học là khoa học về các quy luật chung nhất mà cả tồn tai (giới tự nhiên và xã hội)lẫn tư duy của con người , quá trình nhận thức đều phải phục tùng . Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội , xét cho cùng bị quy định bởi các quan hệ kinh tế của xã hội . Thuật ngữ “triết học“ bắt gặp làn dầu tiên ở Pi-Ta-Go và Platon là người đầu tiên đã tách nó ra thành một khoa học riêng . Triết học đã ra đời trong xã hội chiếm hưu nô lệ với tính cách 1 khoa học hợp nhất toàn thể tri thức của con người về thế giới khách quan và về bản thân mình. Trong tiến trình phát triển của thực tiễn sản xuất xã hội và của sự tích luỹ các tri thức khoa học , đã diễn ra quá trình tách ra của các khoa học riêng biệt khỏi triết học và đồng thời quá trình tách triết học thành 1 khoa học độc lập . Triết học với tính cách khoa học nảy sinh do sự cần thiết phải xây dựng 1 quan điểm chung về thế giới , phải nghiên cứu các nguyên lý chung và các quy luật của thế giới , do nhu cầu phải có phương pháp tư duy hợp lý và có căn cứ đối với hiện thực , do nhu cầu phải có lozic và lí luận nhận thức .
Vấn đề cơ bản của triết học với tính cách một khoa học đặc biệt – đó là vấn đề quan hệ của tư duy đối với tồn tại , của ý thức đối với vật chất . Mọi hệ thống triết học đều là giải quyết 1 cách cặn kẽ , cụ thể vấn đề này ngay dù cho “vấn đề cơ bản“ ở đây không được nêu lên trực tiếp . Cả sự phân cực của triết thành hai khuynh hướng đối lập nhau , thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,cũng gắn liền với điều đó ; nhị nguyên luận giữ vị trí trung gian giữa 2 khuynh hướng nói trên . Cuộc đấu tranh giữa chủ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xuyên qua toàn bộ lịch sử triết học như là sợi chỉ chủ yếu , nó làm thành trong những động lực chính của triết học . Cuộc đấu tranh này gắn chặt với sự phát triển của xã hội , với các quyền lợi kinh tế , chính trị và tư tưởng của các giai cấp .Việc giải thích rõ thêm các vấn đề riêng biệt của khoa học triết học , sự tách ra trong bản thân nó những mặt khác nhau với tính cách những bộ phận tương đối độc lập và đôi khi rất khác nhau . Các bộ phận đó là : bản thể luận , nhận thức luận , logic học , đạo đức học , mỹ học , tâm lý học , xã hội học và lịch sử triết học. Đồng thời do còn nhiều những tri thức cụ thể nên triết học tìm cách thay thế các mối liên hệ và các tính quy luật còn chưa biết hết của thế giới bằng những điều tưởng tượng ; do đó nó biến thành một khoa học đặc biệt đứng trên tất cả các ngành khoa học khác , trở thành “ khoa học của các khoa học” . Đối với giới tự nhiên , triết học này đóng vai triết học tự nhiên ; đối với lịch sử nó đóng vai trò triết học của lịch sử . Triết học của HêGhen là một hệ thống cuối cùng thuộc loại này . Song , cùng với sự phát triển và sự phân hoá của các tri thức , mọi cơ sở của sự tồn tại của triết học với tư cách khoa học của các khoa học đã biến mất . Sự hiểu biết sáng rõ về cái nhu cầu khoa học đã làm nảy sinh triết học với tư cách là một tư cách đặc biệt , sự hiểu biết về địa vị và vai trò của triết học trong thành phần của nền văn hoá tinh thần , và do đó , cả phạm vi các vấn đề của triết học (đối tượng của triết học) đã đạt được lần đầu tiên trong chủ nghĩa Mác Lê nin . Không thể có nhận thức lý luận về các hiện tượng của thế giới chung quanh nếu không có 1 tư duy phát triển về mặt logic . Nhưng các phạm trù và quy luật logic , do kết quả của sự phân công lao động đã hình thành trong lịch sử giữa các khoa học , lại được chính triết học nghiên cứu . Triết học mác xít lê nin nít đã phát triển và đã thực hiện triệt để nguyên lý duy vật trong việc quan niệm thế giới khách quan và tư duy , đã làm cho nó phong phú thêm bằng quan niệm biện chứng ,đã xây dựng logic biện chứng. Khi xem xét các hình thức và các tính quy luật logic với tính cách là những hình thức và tính quy luật phát triển của các quá trình tự nhiên và lịch sử xã hội đã được toàn bộ thực tiễn của loài người nhận thức và khảo nghiệm , triết học mác xít đã thủ tiêu sự phân biệt giữa bản thể luận , logic học và lý luận nhận thức . Sự thống nhất giữa phép biện chứng , logic học và lý luận nhận thức là nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Do đó lý luận triết học của chủ nghĩa Mác là cách giải quyết duy vật biên chứng cặn kẽ cụ thể của vấn đề cơ bản của triết học . Ở đây , các hình thức và các quy luật logic là những hình thức và các quy luật phổ biến được phản ánh trong ý thức con người , của sự diễn biến bất kì quá trình tự nhiên và lịch sử xã hội nào , là những trình độ tái hiện về mặt lý luận các đối tượng phù hợp với sự phát triển hiện thực của chúng . Phát triển trên cơ sở một quan niệm như vậy về vai trò đối tượng và những nhiệm vụ hiện thực trong sự phát triển của văn hoá loài người , triết học đóng vai 1 công cụ hùng mạnh của nhận thức và hoạt động của con người , đóng vai 1 nhân tố tích cực của của sự phát triển hơn nữa của nhận thức . Với quan niệm như vậy về triết học , các bộ phận của nó – tâm lý học , luân lý học , mỹ học- ngày càng biến thành các khoa học độc lập , chỉ được coi là triết học chẳng qua vì truyền thống . Thực ra cái truyền thống này cũng có căn cứ , bởi vì các khoa học vừa được nói đến đếu gắn liền nhiều nhất với các vấn đề triết học đặc thù , cụ thể là với vấn đề quan hệ qua lại chủ thể và khách thể . Triết học góp phần vào sự phát triển tự ý thức của con người , vào việc hiểu địa vị và vai trò của các phát minh khoa học trong hệ thống phát triển chung của văn hoá nhân loại , do đó cung cấp 1 thước tỷ lệ để đánh giá chúng và cho mối liên hệ giữa các khâu riêng lẻ của tri thức trong tính thống nhất của thế giới quan . Những xu hướng phản triết học là cái vốn có trong các lý luận tư sản hiện đại. Nó tuyên bố các vấn đề triết học là các vấn đề giả hiệu , tìm cách thay thế sự phân tích triết học đối với sự phát triển của tri thức hiện đại và của thực tiễn bằng sự phân tích ngôn ngữ của khoa học , tức là bằng sự phân tích ngôn ngữ học - ngữ nghĩa học các hình thức bên ngoài của tư duy – ngôn ngữ các hệ thống kí hiệu để biểu diễn tư tưởng v..v Do đó về thực chất triết học với tư cách là 1 khoa học đã bị thủ tiêu . Vì vậy cho nên con đường duy nhất để phát triển triết học với tính cách 1 khoa học riêng bệt vẫn là con đường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, con đường tiếp tục những truyền thống ưu tú của triết học thế giới .
II.Nguồn gốc và vai trò mang tính lịch sử của Triết học Mác
Ở trên chúng ta cũng đã hiểu triết học là gì và trong lịch sử triết học , ở mỗi giai đoạn lịch sử lại xuất hiện 1 dòng triết học mang tư tưởng của thời đại đó . Triết học với khái niệm là 1 hình thái ý thức xã hội là môn khoa học nghiên cứu về các nguyên lý chung nhất của sự vận động trong tư duy , xã hội và tự nhiên , như vậy thì ở mỗi 1 giai đoạn , những phát hiện của con người cùng với nó là phê phán cái cũ những cái không phù hợp với trình độ nhận thức của con người đồng thời phát triển cái mới đã dẫn đến sự thay thế những quan niệm trong thế giới quan của các trường phái triết học trong lịch sử .
Sở dĩ chúng ta ca ngợi và đề cập nhiều đến triết học Mác vì sự hoàn bị của nó đem lại cho chúng ta 1 công cụ để giải thích thế giới , 1 phương pháp luận khoa học . Còn với chúng ta , sinh viên của 1 trường đại học thuộc 1 quốc gia xa hội chủ nghĩa vận dụng triết học Mác để vạch ra đường lối và phát triển đất nước lên CNXH , việc học tập nghiên cứu Triết học là điều bắt buộc hiển nhiên
Có lẽ khi bắt đầu nghiên cứu 1 vấn đề nào đó ta luôn đặt câu hỏi vậy bản chất của vấn đề đó là gì , bản chất của 1 vấn đề nằm ở nguồn gốc của nó và sự tồn tại của nó trong thực tiễn .
1.Những tiền đề ra đời của triết học Mác Lê Nin
a) Tiền đề kinh tế và xã hội
Xã hội tư sản hiện đại, với những QHSX và trao đổi tư sản của nó , với chế độ sở hưu tư sản đã từng tạo ra những TLSX hết sức mạnh mẽ như thế ,giờ đây giống như 1 tay phù thuỷ đã không còn đủ sức trị những âm binh mà y đã triệu lên … LLSX , mà xã hội sẵn có không giúp cho QHSX tư bản phát triển nữa ; trái lại nó đã thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu ấy , quan hệ sở hữu ấy lúc đó trở ngại cho sự phát triển của LLSX ấy ; và mỗi khi LLSX xã hội bắt đầu khắc phục những trở lực ấy thì nó lại đẩy toàn thể xã hội tư sản rơi vào tình trạng rối loạn và đe doạ sự tồn tại của sở hưu tư sản . Những quan hệ tư sản đã trở thành quá chật hẹp , không đủ để chứa những của cải được tạo ra trong lòng nó nữa. Giai cấp tư sản khắc phục nhưng cuộc khủng hoảng ấy như thế nào? Một mặt bằng việc huỷ diệt 1 cách bắt buộc một số lớn LLSX ; mặt khác , bằng việc chiếm những thị trường mới và bóc lột triệt để hơn nữa những thị trường cũ . Như thế thì đi dến đâu ? Đi đến chỗ sửa soạn cho những cuộc khủng hoảng phổ biến hơn và ghê gớm hơn và giả bớt những thủ đoạn ngăn ngừa những cuộc khủng hoảng ấy .
Những vú khí mà giai cấp tư sản đã dung để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào ngay giai cấp tư sản . Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn vũ khí sẽ giết mình ; nó còn sinh ra những người sử dụng vũ khí ấy , những công nhân hiện đại , những người vô sản
Triết học Mác- Lênin, thế giới quan, phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và thực tiễn
Cùng với sự phát triển của giai cấp tư sản , thì giai cấp vô sản , giai cấp công nhân hiện đại cũng phát triển , học chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm , và chỉ kiếm được việc làm nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản. Những công nhân ấy buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một , họ là 1 món hàng hoá , tứ là 1 món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác ; vì thế họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh , mọi sự lên xuống của thị trường ……
Giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn tiến triển khác nhau . Cuộc đấu tranh của họ chống giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời.
Nhưng sự phát triển của công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản , mà còn tập hợp họ lại thành những khối quần chúng lớn hơn; lực lượng của những người vô sản tăng thêm và họ giác ngộ về lực lượng của mình hơn . Máy móc càng xoá bỏ mọi sự khác nhau trong lao động và càng rút tiền công hầu khắp mọi nơi xuống một mức thấp ngang nhau , thì lợ ích , điều kiện sinh hoạt của những người vô sản càng dần dần bằng nhau . Vì bọn tư sản ngày càng cạnh tranh với nhau hơn , và vì khủng hoảng thương mại do sự cạnh tranh ấy sinh ra , cho nên tiền công ngày càng trở nên bấp bênh: việc cải tiến máy móc không ngừng và ngày càng nhanh chóng hơn làm cho tình cảnh của người công nhân ngày càng bấp bênh , những xung đột cá nhân giữa công nhân và tư sản ngày càng có thêm tính chất xung đột giữa hai giai cấp . Công nhân bắt đầu liên hợp lại chống bọn tư sản để bảo vệ tiền công của mình . Thậm chí họ đi tới chỗ lập thành những đoàn thể thường xuyên để chuẩn bị trước cho những cuộc xung đột bất thần xảy ra. Đây đó , đấu tranh nổ thành bạo động . ………………
tự tách rời khỏi bản thân nó , bay lên mây mù thành một vương quốc độc lập , điều đó chỉ có thể giải thích bằng sự tự phân biệt và tự mâu thuẫn của cơ sở thế gian ấy . Vậy trước hết phải hiểu bản thân cơ sở thế gian trong mâu thuẫn của nó để rồi cách mạng hoá nó một cách thực tiễn bằng cách bài trừ mâu thuẫn đó . Do đó , chẳng hạn một khi người ta tìm thấy rằng gia đình ở trần thế là cái bí mật của cái gia đình thần thánh thì từ nay bản thân gia đình ở trần thế là cái mà chúng ta phải phê phán về mặt lý luận và phải cải tạo trong thực tiễn bằng cách mạng
Đời sống xã hội về bản chất là có tính chất thực tiễn . Tất cả những sự thần bí đang đẩy lý luận vào con đường chủ nghĩa thần bí , đều được giải quyết một cách hợp lí trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết về thực tiễn đó
Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới
Mac và AngGhen nói rằng thực tiễn của con người chứng minh sự đúng đắn của lý luận duy vật về nhận thức , và gợi ý những ý định không dựa vào thực tiễn để giải quyết vấn đề cơ bản của lý luận về nhận thức là triết học kinh viện và là những lối đánh trống lảng trong triết học
Sức mạnh và sức sống của chủ nghĩa Mac Lê nin là ở chỗ , trong hoạt động thực tiễn nó dựa chính vào những nhu cầu của sự phát triển đời sống vật chất của xã hội , không bao giờ tách rời khỏi đời sống hiện thực của xã hội
Sức mạnh và sức sống của chủ nghĩa Mac Lê nin là ở chỗ nó dựa vào một lý luận tiền phong, phản ánh đúng những nhu cầu của sự phát triển sinh hoạt vật chất của xã hội , ở chỗ nó đề cao lý luận một cách thích đáng và cho mình có nghĩa vụ triệt để lợi dụng sức mạnh động viên, tổ chức và cải tạo lý luận ấy
Đó là cách chủ nghĩa duy vật lịch sử giải quyết vấn đề quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội , giữa những điều kiện phát triển của sinh hoạt vật chất và sự phát triển của sinh hoạt tinh thần xã hội
C.Kết luận
Với số lượng bấy nhiêu trang viết đó tui nghĩ thực vẫn chưa đủ để nói được hết những thành tựu của triết học Mac , 1 thành quả vô cùng quan trọng mà tui chưa nói kĩ được trong đề tài đó là “ triết học Mac Lê Nin là thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp vô sản “ . Vì thời gian có hạn , sự gián đoạn đó mong các bạn có thể tự tìm hiểu .
Tài liệu tham khảo :
1.Giáo trình triết học Mac Lê nin
2. Tập trích những tác phẩm kinh điển
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Đề tài : Triết học Mác Lê Nin , thế giới quan , phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và thực tiễn .
A. Đặt vấn đề
a.Lí do chọn đề tài
Khi bắt đầu làm quen với môn Triết học các bạn sinh viên năm thứ nhất thường rất lúng túng và cảm giác môn Triết học thực sự rất khó hiểu . Với 1 số lựơng kiến thức lớn với hơn 500 trang của giáo trình thì đó là 1 thử thách nếu chúng ta không hiểu ngay từ đầu ý nghĩa của việc học môn Triết học nói chung và Triết hoc Mác nói riêng
Đề tài này có nội dung tương đối tổng quát về cả 1 hệ thống Triết hoc Mác, bắt đầu từ sự ra đời của triết học và quá trình xuất hiện những tư tưởng thời đại làm sản sinh ra triết học chủ nghĩa Mac Le Nin . Sau đó tư duy biện chứng cộng với thế giới quan duy vật làm cho triết học Mac trở thành một khoa học giải thích về thế giới đặc biệt là trong xã hội và tư duy logic . Điều đó giúp cho chúng ta có thể nắm bắt được hình thức nội dung muốn trình bày của giáo trình ngay từ những bước đầu tiên .
b.Mục đích và yêu cầu của đề tài
Vì đề tài mang tính chất dẫn phương hướng học môn Triết học tui nghĩ cần nêu rõ ràng các khái niệm tiêu biểu và tác dụng của từng phần được nói đến trong đề tài .
Đề tài gồm 3 phần
- Triết học nói chung và Triết học Mác nói riêng
- Nguồn gốc và vai trò mang tính lịch sử của Triết học Mác
- Thế giới quan và phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và thực tiễn .
B. Nội dung
I.Triết học nói chung và Triết học Mác nói riêng
Triết học là gì ? Triết học là khoa học về các quy luật chung nhất mà cả tồn tai (giới tự nhiên và xã hội)lẫn tư duy của con người , quá trình nhận thức đều phải phục tùng . Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội , xét cho cùng bị quy định bởi các quan hệ kinh tế của xã hội . Thuật ngữ “triết học“ bắt gặp làn dầu tiên ở Pi-Ta-Go và Platon là người đầu tiên đã tách nó ra thành một khoa học riêng . Triết học đã ra đời trong xã hội chiếm hưu nô lệ với tính cách 1 khoa học hợp nhất toàn thể tri thức của con người về thế giới khách quan và về bản thân mình. Trong tiến trình phát triển của thực tiễn sản xuất xã hội và của sự tích luỹ các tri thức khoa học , đã diễn ra quá trình tách ra của các khoa học riêng biệt khỏi triết học và đồng thời quá trình tách triết học thành 1 khoa học độc lập . Triết học với tính cách khoa học nảy sinh do sự cần thiết phải xây dựng 1 quan điểm chung về thế giới , phải nghiên cứu các nguyên lý chung và các quy luật của thế giới , do nhu cầu phải có phương pháp tư duy hợp lý và có căn cứ đối với hiện thực , do nhu cầu phải có lozic và lí luận nhận thức .
Vấn đề cơ bản của triết học với tính cách một khoa học đặc biệt – đó là vấn đề quan hệ của tư duy đối với tồn tại , của ý thức đối với vật chất . Mọi hệ thống triết học đều là giải quyết 1 cách cặn kẽ , cụ thể vấn đề này ngay dù cho “vấn đề cơ bản“ ở đây không được nêu lên trực tiếp . Cả sự phân cực của triết thành hai khuynh hướng đối lập nhau , thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,cũng gắn liền với điều đó ; nhị nguyên luận giữ vị trí trung gian giữa 2 khuynh hướng nói trên . Cuộc đấu tranh giữa chủ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xuyên qua toàn bộ lịch sử triết học như là sợi chỉ chủ yếu , nó làm thành trong những động lực chính của triết học . Cuộc đấu tranh này gắn chặt với sự phát triển của xã hội , với các quyền lợi kinh tế , chính trị và tư tưởng của các giai cấp .Việc giải thích rõ thêm các vấn đề riêng biệt của khoa học triết học , sự tách ra trong bản thân nó những mặt khác nhau với tính cách những bộ phận tương đối độc lập và đôi khi rất khác nhau . Các bộ phận đó là : bản thể luận , nhận thức luận , logic học , đạo đức học , mỹ học , tâm lý học , xã hội học và lịch sử triết học. Đồng thời do còn nhiều những tri thức cụ thể nên triết học tìm cách thay thế các mối liên hệ và các tính quy luật còn chưa biết hết của thế giới bằng những điều tưởng tượng ; do đó nó biến thành một khoa học đặc biệt đứng trên tất cả các ngành khoa học khác , trở thành “ khoa học của các khoa học” . Đối với giới tự nhiên , triết học này đóng vai triết học tự nhiên ; đối với lịch sử nó đóng vai trò triết học của lịch sử . Triết học của HêGhen là một hệ thống cuối cùng thuộc loại này . Song , cùng với sự phát triển và sự phân hoá của các tri thức , mọi cơ sở của sự tồn tại của triết học với tư cách khoa học của các khoa học đã biến mất . Sự hiểu biết sáng rõ về cái nhu cầu khoa học đã làm nảy sinh triết học với tư cách là một tư cách đặc biệt , sự hiểu biết về địa vị và vai trò của triết học trong thành phần của nền văn hoá tinh thần , và do đó , cả phạm vi các vấn đề của triết học (đối tượng của triết học) đã đạt được lần đầu tiên trong chủ nghĩa Mác Lê nin . Không thể có nhận thức lý luận về các hiện tượng của thế giới chung quanh nếu không có 1 tư duy phát triển về mặt logic . Nhưng các phạm trù và quy luật logic , do kết quả của sự phân công lao động đã hình thành trong lịch sử giữa các khoa học , lại được chính triết học nghiên cứu . Triết học mác xít lê nin nít đã phát triển và đã thực hiện triệt để nguyên lý duy vật trong việc quan niệm thế giới khách quan và tư duy , đã làm cho nó phong phú thêm bằng quan niệm biện chứng ,đã xây dựng logic biện chứng. Khi xem xét các hình thức và các tính quy luật logic với tính cách là những hình thức và tính quy luật phát triển của các quá trình tự nhiên và lịch sử xã hội đã được toàn bộ thực tiễn của loài người nhận thức và khảo nghiệm , triết học mác xít đã thủ tiêu sự phân biệt giữa bản thể luận , logic học và lý luận nhận thức . Sự thống nhất giữa phép biện chứng , logic học và lý luận nhận thức là nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Do đó lý luận triết học của chủ nghĩa Mác là cách giải quyết duy vật biên chứng cặn kẽ cụ thể của vấn đề cơ bản của triết học . Ở đây , các hình thức và các quy luật logic là những hình thức và các quy luật phổ biến được phản ánh trong ý thức con người , của sự diễn biến bất kì quá trình tự nhiên và lịch sử xã hội nào , là những trình độ tái hiện về mặt lý luận các đối tượng phù hợp với sự phát triển hiện thực của chúng . Phát triển trên cơ sở một quan niệm như vậy về vai trò đối tượng và những nhiệm vụ hiện thực trong sự phát triển của văn hoá loài người , triết học đóng vai 1 công cụ hùng mạnh của nhận thức và hoạt động của con người , đóng vai 1 nhân tố tích cực của của sự phát triển hơn nữa của nhận thức . Với quan niệm như vậy về triết học , các bộ phận của nó – tâm lý học , luân lý học , mỹ học- ngày càng biến thành các khoa học độc lập , chỉ được coi là triết học chẳng qua vì truyền thống . Thực ra cái truyền thống này cũng có căn cứ , bởi vì các khoa học vừa được nói đến đếu gắn liền nhiều nhất với các vấn đề triết học đặc thù , cụ thể là với vấn đề quan hệ qua lại chủ thể và khách thể . Triết học góp phần vào sự phát triển tự ý thức của con người , vào việc hiểu địa vị và vai trò của các phát minh khoa học trong hệ thống phát triển chung của văn hoá nhân loại , do đó cung cấp 1 thước tỷ lệ để đánh giá chúng và cho mối liên hệ giữa các khâu riêng lẻ của tri thức trong tính thống nhất của thế giới quan . Những xu hướng phản triết học là cái vốn có trong các lý luận tư sản hiện đại. Nó tuyên bố các vấn đề triết học là các vấn đề giả hiệu , tìm cách thay thế sự phân tích triết học đối với sự phát triển của tri thức hiện đại và của thực tiễn bằng sự phân tích ngôn ngữ của khoa học , tức là bằng sự phân tích ngôn ngữ học - ngữ nghĩa học các hình thức bên ngoài của tư duy – ngôn ngữ các hệ thống kí hiệu để biểu diễn tư tưởng v..v Do đó về thực chất triết học với tư cách là 1 khoa học đã bị thủ tiêu . Vì vậy cho nên con đường duy nhất để phát triển triết học với tính cách 1 khoa học riêng bệt vẫn là con đường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, con đường tiếp tục những truyền thống ưu tú của triết học thế giới .
II.Nguồn gốc và vai trò mang tính lịch sử của Triết học Mác
Ở trên chúng ta cũng đã hiểu triết học là gì và trong lịch sử triết học , ở mỗi giai đoạn lịch sử lại xuất hiện 1 dòng triết học mang tư tưởng của thời đại đó . Triết học với khái niệm là 1 hình thái ý thức xã hội là môn khoa học nghiên cứu về các nguyên lý chung nhất của sự vận động trong tư duy , xã hội và tự nhiên , như vậy thì ở mỗi 1 giai đoạn , những phát hiện của con người cùng với nó là phê phán cái cũ những cái không phù hợp với trình độ nhận thức của con người đồng thời phát triển cái mới đã dẫn đến sự thay thế những quan niệm trong thế giới quan của các trường phái triết học trong lịch sử .
Sở dĩ chúng ta ca ngợi và đề cập nhiều đến triết học Mác vì sự hoàn bị của nó đem lại cho chúng ta 1 công cụ để giải thích thế giới , 1 phương pháp luận khoa học . Còn với chúng ta , sinh viên của 1 trường đại học thuộc 1 quốc gia xa hội chủ nghĩa vận dụng triết học Mác để vạch ra đường lối và phát triển đất nước lên CNXH , việc học tập nghiên cứu Triết học là điều bắt buộc hiển nhiên
Có lẽ khi bắt đầu nghiên cứu 1 vấn đề nào đó ta luôn đặt câu hỏi vậy bản chất của vấn đề đó là gì , bản chất của 1 vấn đề nằm ở nguồn gốc của nó và sự tồn tại của nó trong thực tiễn .
1.Những tiền đề ra đời của triết học Mác Lê Nin
a) Tiền đề kinh tế và xã hội
Xã hội tư sản hiện đại, với những QHSX và trao đổi tư sản của nó , với chế độ sở hưu tư sản đã từng tạo ra những TLSX hết sức mạnh mẽ như thế ,giờ đây giống như 1 tay phù thuỷ đã không còn đủ sức trị những âm binh mà y đã triệu lên … LLSX , mà xã hội sẵn có không giúp cho QHSX tư bản phát triển nữa ; trái lại nó đã thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu ấy , quan hệ sở hữu ấy lúc đó trở ngại cho sự phát triển của LLSX ấy ; và mỗi khi LLSX xã hội bắt đầu khắc phục những trở lực ấy thì nó lại đẩy toàn thể xã hội tư sản rơi vào tình trạng rối loạn và đe doạ sự tồn tại của sở hưu tư sản . Những quan hệ tư sản đã trở thành quá chật hẹp , không đủ để chứa những của cải được tạo ra trong lòng nó nữa. Giai cấp tư sản khắc phục nhưng cuộc khủng hoảng ấy như thế nào? Một mặt bằng việc huỷ diệt 1 cách bắt buộc một số lớn LLSX ; mặt khác , bằng việc chiếm những thị trường mới và bóc lột triệt để hơn nữa những thị trường cũ . Như thế thì đi dến đâu ? Đi đến chỗ sửa soạn cho những cuộc khủng hoảng phổ biến hơn và ghê gớm hơn và giả bớt những thủ đoạn ngăn ngừa những cuộc khủng hoảng ấy .
Những vú khí mà giai cấp tư sản đã dung để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào ngay giai cấp tư sản . Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn vũ khí sẽ giết mình ; nó còn sinh ra những người sử dụng vũ khí ấy , những công nhân hiện đại , những người vô sản
Triết học Mác- Lênin, thế giới quan, phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và thực tiễn
Cùng với sự phát triển của giai cấp tư sản , thì giai cấp vô sản , giai cấp công nhân hiện đại cũng phát triển , học chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm , và chỉ kiếm được việc làm nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản. Những công nhân ấy buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một , họ là 1 món hàng hoá , tứ là 1 món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác ; vì thế họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh , mọi sự lên xuống của thị trường ……
Giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn tiến triển khác nhau . Cuộc đấu tranh của họ chống giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời.
Nhưng sự phát triển của công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản , mà còn tập hợp họ lại thành những khối quần chúng lớn hơn; lực lượng của những người vô sản tăng thêm và họ giác ngộ về lực lượng của mình hơn . Máy móc càng xoá bỏ mọi sự khác nhau trong lao động và càng rút tiền công hầu khắp mọi nơi xuống một mức thấp ngang nhau , thì lợ ích , điều kiện sinh hoạt của những người vô sản càng dần dần bằng nhau . Vì bọn tư sản ngày càng cạnh tranh với nhau hơn , và vì khủng hoảng thương mại do sự cạnh tranh ấy sinh ra , cho nên tiền công ngày càng trở nên bấp bênh: việc cải tiến máy móc không ngừng và ngày càng nhanh chóng hơn làm cho tình cảnh của người công nhân ngày càng bấp bênh , những xung đột cá nhân giữa công nhân và tư sản ngày càng có thêm tính chất xung đột giữa hai giai cấp . Công nhân bắt đầu liên hợp lại chống bọn tư sản để bảo vệ tiền công của mình . Thậm chí họ đi tới chỗ lập thành những đoàn thể thường xuyên để chuẩn bị trước cho những cuộc xung đột bất thần xảy ra. Đây đó , đấu tranh nổ thành bạo động . ………………
tự tách rời khỏi bản thân nó , bay lên mây mù thành một vương quốc độc lập , điều đó chỉ có thể giải thích bằng sự tự phân biệt và tự mâu thuẫn của cơ sở thế gian ấy . Vậy trước hết phải hiểu bản thân cơ sở thế gian trong mâu thuẫn của nó để rồi cách mạng hoá nó một cách thực tiễn bằng cách bài trừ mâu thuẫn đó . Do đó , chẳng hạn một khi người ta tìm thấy rằng gia đình ở trần thế là cái bí mật của cái gia đình thần thánh thì từ nay bản thân gia đình ở trần thế là cái mà chúng ta phải phê phán về mặt lý luận và phải cải tạo trong thực tiễn bằng cách mạng
Đời sống xã hội về bản chất là có tính chất thực tiễn . Tất cả những sự thần bí đang đẩy lý luận vào con đường chủ nghĩa thần bí , đều được giải quyết một cách hợp lí trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết về thực tiễn đó
Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới
Mac và AngGhen nói rằng thực tiễn của con người chứng minh sự đúng đắn của lý luận duy vật về nhận thức , và gợi ý những ý định không dựa vào thực tiễn để giải quyết vấn đề cơ bản của lý luận về nhận thức là triết học kinh viện và là những lối đánh trống lảng trong triết học
Sức mạnh và sức sống của chủ nghĩa Mac Lê nin là ở chỗ , trong hoạt động thực tiễn nó dựa chính vào những nhu cầu của sự phát triển đời sống vật chất của xã hội , không bao giờ tách rời khỏi đời sống hiện thực của xã hội
Sức mạnh và sức sống của chủ nghĩa Mac Lê nin là ở chỗ nó dựa vào một lý luận tiền phong, phản ánh đúng những nhu cầu của sự phát triển sinh hoạt vật chất của xã hội , ở chỗ nó đề cao lý luận một cách thích đáng và cho mình có nghĩa vụ triệt để lợi dụng sức mạnh động viên, tổ chức và cải tạo lý luận ấy
Đó là cách chủ nghĩa duy vật lịch sử giải quyết vấn đề quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội , giữa những điều kiện phát triển của sinh hoạt vật chất và sự phát triển của sinh hoạt tinh thần xã hội
C.Kết luận
Với số lượng bấy nhiêu trang viết đó tui nghĩ thực vẫn chưa đủ để nói được hết những thành tựu của triết học Mac , 1 thành quả vô cùng quan trọng mà tui chưa nói kĩ được trong đề tài đó là “ triết học Mac Lê Nin là thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp vô sản “ . Vì thời gian có hạn , sự gián đoạn đó mong các bạn có thể tự tìm hiểu .
Tài liệu tham khảo :
1.Giáo trình triết học Mac Lê nin
2. Tập trích những tác phẩm kinh điển
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: VAI TRỊ THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC, vấn đề của triết học ngày nay diễn ra như thế nào sau đây, vận dung phương pháp luận vào việc xem xét nội dung và hình thức của các ca sĩ ngày nay, phương pháp luận khoa học mác lênin, một số câu hỏi về vai trò phương pháp luận của triết học mác lênin trong nhận thức, chứng minh vai trò phương pháp thảo luận của triết hoc Mác - lênin trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, Vai trò phương pháp luận của triết học đối với các khoa học chuyên ngành, đốt nhan trong phương pháp luận khoa học triết Mác Lenin:, Vai trò phương pháp luận của triết học đối với khoa học chuyên ngành, Các hình thức về thế giới quan và phương pháp luận trong lịch sử triết học, triết học là cơ sở thế giới quan phương pháp luận khoa học cách mạng, chứng minh Triết học Mác - Lê nin là một môn khoa học, Vận dụng thế giới quan, phương pháp luận khoa học của triết học Mác-Lenin trong cuộc sống như xem bói, thế giới quan và phương pháp luận của trết học mac lenin, vai trò phương pháp luận của triết học mác trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, triết học mác lê nin là cơ sở thế giới quan và là phương pháp luận khoa học và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ
Last edited by a moderator: