Download miễn phí Triết học và tính công dân
Trong thời đại toàn cầu hoá của chủ nghĩa tự do mới, cái dự án “triết
học mang tính nhân văn” này không còn đủ khả năng đảm nhận chức
năng mà nó đã bảo đảm trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, với tư
cách mẫu hình đối lập với phiên bản thần học –chính trị truyền
thống hay với những dự án cải tạo xã hội và chính trị sinh ra từ
những phong trào công nhân của thế kỷ XIX(7). Bối cảnh khủng
hoảng hiện tại, mà một trong những vấn đề chủ yếu của nó là sự cấu
thành một tính công dân mới, cũng đặtra sự thách thức trong việc tái
kiến thiết mối quan hệ giữa triết học và tính công dân. Đây không chỉ
là vấn đề về giảng dạy triết học, mà còn là vấn đề sự thực hành triết
học nói chung: vấn đề về ý nghĩa, tính mục đích, nội dung, phương
pháp, ngôn ngữ vàquan hệ của nó với xã hội. Trong cách nhìn ấy,
chúng tôi muốn đề xuất một cách ngắn gọn vài hướng nghiên cứu,
được định hướng bởi quan điểm về một sự tái kiến thiết triết học với
tư cách triết học công dân (philosophie citoyenne). Chỉ có trên nền
tảng mộtsự tái kiến thiết như vậy thì mới có thể xác định lại nội dung
và hình thức của một nền giáo dục triết học mới
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-01-18-triet_hoc_va_tinh_cong_dan.14TYIKhaeS.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-55874/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
TRIẾT HỌC VÀ TÍNH CÔNG DÂN(*)ALFREDO GOMEZ-MULLER (**)
Trên cơ sở phân tích hiện trạng giảng dạy triết học ở Cộng hoà
Pháp, tác giả đề xuất một số hướng nghiên cứu xuất phát từ quan
điểm tái kiến thiết triết học với tư cách triết học công dân. Theo tác
giả, trong bối cảnh hiện đại, để tham gia đối thoại một cách sáng
tạo, nhà triết học phải biết lắng nghe và hiểu về người khác; coi sự
tái sáng tạo đạo đức của triết học là biểu hiện sự tái sáng tạo đạo
đức của nền văn hoá. Do vậy, ngôn ngữ triết học phải gần gũi với
tất cả mọi người, triết học phải gắn với xã hội và cuộc sống của con
người.
1. Triết học và nền cộng hoà ở Pháp
Đầu năm 1999, sinh viên Khoa Triết học, Trường Đại học Paris – X
Nanterre ra truyền đơn tuyên bố: “Không có công dân thì không có
nền cộng hoà, không có tinh thần tự do thì không có công dân. Vai
trò của nhà trường cộng hoà trước hết là ở việc tạo dựng tinh thần tự
do ấy. Phần lớn hoạt động giảng dạy triết học mang tính chất của đòi
hỏi cơ bản này: nó tạo điều kiện cho một cái nhìn phê phán về xã hội
và những nhu cầu cơ bản của xã hội”(1). Được công bố trong thời
gian mà chính quyền của Thủ tướng Lionel Jospin (tồn tại từ ngày
2/6/1997 đến ngày 6/5/2002), một người xã hội chủ nghĩa, theo đuổi
một chính sách cắt giảm hà khắc đối với những vị trí giảng dạy triết
học trong hệ thống giáo dục công(2), văn bản này của sinh viên nhận
được sự ủng hộ của giáo viên triết học trường Đại học Nanterre,
những người cũng nhấn mạnh mối quan hệ giữa triết học và tính
công dân và cho rằng, các chính sách công về giáo dục, như họ đề
cập trong văn bản trên, đã không biết đến “… cái kết nối một cách
chặt chẽ sự phê phán mang tính triết học và cuộc đấu tranh cho các
quyền con người và quyền công dân đã tồn tại ở Pháp nhiều thế kỷ
qua”(3). Bằng việc tố cáo “chủ nghĩa thực dụng tầm thấp” và những
xu thế “kỹ trị” đang giật dây chính sách giáo dục quốc gia, các nhà
giáo đã nhắc nhở rằng, nền cộng hoà đã thiết lập việc giảng dạy triết
học với mục đích “hình thành sự đánh giá từ phía công dân đối với
những mâu thuẫn của lịch sử”.
Truyền thống cộng hoà mà hai văn bản trên dựa vào có thể tìm thấy
ở ba nguyên tắc nền tảng của tính hiện đại trong chính trị, được phái
Khai sáng Pháp và Cách mạng 1789 sử dụng lại và nhấn mạnh: tự do
(được hiểu như quyền tự trị của chủ thể), tính phổ quát (được hiểu
như tính phổ quát của “quốc gia” chính trị và của quyền con người)
và bình đẳng (được hiểu một cách rõ ràng như là sự bình đẳng về
quyền lợi). Sự tương ứng giữa ba nguyên tắc này vốn là nền tảng tạo
nên tư tưởng của một nền cộng hoà “thống nhất và không thể phân
chia”, với sự giáo dục triết học, được coi như sự rèn luyện giản đơn
về quyền tự do phê phán và như là sự truyền bá một chuẩn tắc của
những tác phẩm kinh điển, đã từng bước được thiết lập từ thế kỷ
XIX, mà thay mặt tiêu biểu đầu tiên là Victor Cousin (1792 – 1867) -
bộ trưởng Bộ Giáo dưỡng công cộng từ năm 1840, dưới thời Vương
quyền phục hưng. Có thể thấy quá trình này đã đạt được một kết quả
trong Thông tư của bộ trưởng Anatole de Monzie (năm 1925), trong
đó phần viết về “tinh thần của sự giáo dục triết học” nhấn mạnh
rằng, sự giáo dục triết học phải truyền đạt cho học sinh “… những
nguyên tắc chung nhất của đời sống trí thức và đạo đức, cái sẽ dẫn dắt
họ trong cuộc sinh tồn mới, cái khiến họ trở thành những người thạo
nghề nhưng biết nhìn xa hơn nghề nghiệp của mình, những người công
dân có khả năng thực hiện những đánh giá rõ ràng và độc lập mà xã hội
dân chủ của chúng ta cần đến”.
Từ trước đến nay, giáo dục triết học ở trường phổ thông, vốn là lĩnh
vực giúp cho việc hình thành một tư tưởng nhất định về tính công
dân, được xây dựng trên nền một chương trình gồm những khái niệm
và những tác giả: ở “hướng chính”(4) của hệ thống giáo dục, những
phạm trù bao hàm 5 lĩnh vực (lý tính và thực tại, đối tượng, văn hoá,
chính trị và đạo đức); danh sách các tác giả, phân bố thành 3 thời kỳ
lịch sử, bao gồm 15 tác giả của thời Hy – La Cổ đại, Trung cổ và 42
tác giả, tất cả là người châu Âu, của thời Cận đại và Hiện đại. Dành
cho năm cuối của bậc trung học, chương trình này được triển khai
theo một khối lượng giờ học tuỳ từng trường hợp vào các hướng và các chuyên
ban: trong hướng chính, 8 giờ hàng tuần đối với chuyên ban Văn
chương; 4 giờ đối với chuyên ban Kinh tế và Xã hội, 3 giờ đối với
chuyên ban Khoa học. Kết thúc chương trình học trên, những tú tài
muốn tiếp tục có thể theo học chương trình triết học ở bậc cao hơn:
trong khuôn khổ chương trình giáo dục triết học ở bậc đại học, hay
trong khuôn khổ những lớp dự bị để thi vào các trường đại học sư
phạm, hay trong khuôn khổ một số lĩnh vực giáo dục bậc cao, như
các ngành y học, khoa học chính trị, luật học, đào tạo kỹ sư hay
nghiên cứu thương mại.
Sự khủng hoảng của kế hoạch “triết học mang tính nhân văn” này
của nền cộng hoà tự do, mà những cuộc vận động năm 1999 cùng
với nhiều sự việc khác đã chứng thực, ngày nay lại càng trầm trọng
hơn. Mười năm sau những cuộc vận động ấy, và kể cả những khởi
xướng phản đối khác, số lượng các vị trí giáo viên triết học tiếp tục
sụt giảm nhanh chóng, cả ở bậc trung học lẫn ở bậc giáo dục cao
hơn. Trong kỳ thi CAPES(5) dành cho sinh viên, sự sụt giảm là 88%
trong 10 năm, từ 240 vị trí giáo viên năm 1996 xuống còn 48 vị trí
năm 2005. Từ năm 2005 đến năm 2006, sự sụt giảm là 29% (chỉ còn
30 vị trí trong năm 2006), và hệ quả cùng với nó là sự đóng cửa của
một số khoa triết học trong các trường đại học dễ bị tác động nhất.
Có nhiều nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng này: một số là
nguyên nhân chủ quan trong nội tại ngành giáo dục (khủng hoảng
nói chung của trường học, những vấn đề đặt ra về mục đích giáo
dục, cấu trúc giáo dục, phương pháp sư phạm, những chương trình
giảng dạy) và những nguyên nhân khách quan, như những chính
sách tự do mới phá huỷ khu vực công, sự bành trướng, ở Pháp cũng
như ở các nước khác, của một hình thức vị lợi của lý tính, sự thất
nghiệp mang tính cơ cấu(6), sự gia tăng của đói cùng kiệt và người
cùng kiệt bị đẩy ra ngoài lề xã hội, sự khủng hoảng mô hình cộng hoà
của sự sáp nhập [giữa những người dân nhập cư với dân bản địa],
khủng hoảng của nhà nước – dân tộc, khủng hoảng của sự thay mặt
chính trị và của tư cách công dân.
Trong thời đại toàn cầu hoá của chủ nghĩa tự do mới, cái dự án “triết
học mang tính nhân văn” này không còn đủ khả năng đảm nhận chức
năng mà nó đã bảo đảm trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, với tư
cách mẫu hình đối lập với phiên bản thần học – chính trị truyền
thống hay với những dự án cải...