Download Tiểu luận Một số vấn đề về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự miễn phí





Theo quy định của Điều 190 BLTTHS, người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Trong trường hợp không thể có mặt tại phiên toà, người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Toà án. Nếu người bào chữa vắng mặt Toà án vẫn mở phiên toà. Trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà. Tại phiên toà, người bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng việc tham gia xét hỏi và tranh luận với Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng khác. Có thể nói tại phiên toà, vai trò của người bào chữa thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết. Bởi vậy, người bào chữa thường tận dụng tối đa cơ hội để được đặt câu hỏi với bị cáo và những người tham gia tố tụng khác và tham gia tranh luận nhằm làm sáng tỏ các tình tiết có lợi cho bị cáo.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ NCS. Nguyễn Ngọc Khanh Trường Đại học Luật Hà Nội 1. Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự là một nguyên tắc hiến định, được quy định tại Điều 132 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được ghi nhận tại Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hay nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”. Mục đích của quy định này nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can và bị cáo trong tố tụng hình sự. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa bằng việc đưa ra các chứng cứ và yêu cầu đối với các cơ quan tiến hành tố tụng hay nhờ người khác bào chữa cho mình. Theo quy định của Điều 56 BLTTHS, người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể là luật sư, người thay mặt hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bào chữa viên nhân dân. Không chỉ ghi nhận quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, Điều 11 BLTTHS còn quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng là phải bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình theo quy định của BLTTHS. Thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam những năm qua cho thấy, mặc dù quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận trong Hiến pháp và BLTTHS, song trên thực tế, trong nhiều vụ án hình sự, quyền cơ bản này của người bị buộc tội, đặc biệt là quyền được nhờ người khác bào chữa không được đảm bảo thực hiện. Theo bà Tạ Thị Minh Lý, Cục trưởng cục Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư pháp), hơn 70% phiên toà (bao gồm cả phiên toà hình sự, dân sự, kinh tế…) không có luật sư tham gia.[1] Riêng đối với các vụ án hình sự, theo báo cáo của Bộ Tư pháp, số vụ án có người bào chữa tham gia chiếm khoảng “hơn 10% so với tổng vụ án mà các Toà án đã xét xử”.[2] Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, theo bà Tạ Thị Minh Lý là do “số vụ án nhiều, trong khi đó số luật sư hành nghề thì ít, đối tượng phải ra toà thường cùng kiệt hay chưa tin cậy luật sư”.[3] Theo quan sát của chúng tôi, ngoài những nguyên nhân kể trên còn phải kể đến các nguyên nhân khác như: trình độ hiểu biết pháp luật của người dân nói chung còn thấp, trong nhiều vụ án hình sự, bị can, bị cáo không biết mình có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình; các quy định của pháp luật về vấn đề này còn có những bất cập; và ý thức của những người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa cao. Trong bài viết này chúng tui xin đề cập đến một số vấn đề về đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong các giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Cụ thể là đảm bảo sự tham gia tố tụng của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và việc đảm bảo thực hiện các quyền năng tố tụng của người bào chữa tại phiên toà. 1. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được xác định từ thời điểm Toà án thụ lý hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển sang. Giai đoạn này được chia thành hai bước: chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên toà. Tuy BLTTHS không có quy định cụ thể về việc thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nhưng theo tinh thần Khoản 2, Điều 58 BLTTHS, có thể hiểu người bào chữa đương nhiên có quyền tham gia tố tụng trong suốt giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Theo quy định tại điểm g, khoản 2 Điều luật này, kể từ thời điểm việc điều tra kết thúc, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa. Các cơ quan tiến hành tố tụng (bao gồm Viện kiểm sát – ở giai đoạn truy tố và Toà án – ở giai đoạn xét xử) có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện quyền năng này của mình. Tuy nhiên, thực tiễn những năm qua cho thấy, trong nhiều trường hợp cán bộ Toà án không tạo điều kiện cho người bào chữa tiếp xúc hồ sơ khi vụ án đang trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Lý do họ đưa ra có thể là người quản lý hồ sơ bận việc hay đi vắng hay chưa được sự đồng ý của lãnh đạo. Người bào chữa cũng có thể gặp rắc rối về thủ tục xin cấp giấy chứng nhận là người bào chữa trong vụ án hình sự. Theo tinh thần khoản 4 Điều 56 BLTTHS, muốn trở thành người bào chữa trong vụ án hình sự, người bào chữa phải gửi tới cơ quan tiến hành tố tụng “đề nghị kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa”. Đối với luật sư, “giấy tờ liên quan đến việc bào chữa” được hiểu là thẻ luật sư và quyết định của cơ sở hành nghề luật sư phân công luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Tuy nhiên, khi luật sư nộp cho Toà án các “văn bản liên quan” trên, trong nhiều trường hợp luật sư vẫn bị cán bộ Toà án gây khó dễ, đặc biệt là từ khi có “quyết định miệng” của Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao Đặng Quang Phương tại một Hội nghị tập huấn BLTTHS được tổ chức năm 2004. Trong bài phát biểu của mình, ông Đặng Quang Phương chỉ đạo: “Để được cấp giấy chứng nhận người bào chữa, ngoài việc có thẻ luật sư, văn bản phân công của văn phòng luật sư, các luật sư cần trình thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa luật sư với khách hàng”.[4] Chỉ đạo này ngay lập tức được nhiều toà án địa phương “quán triệt”, gây phiền toái cho luật sư khi họ muốn tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa trong vụ án hình sự bởi thông thường, hợp đồng dịch vụ pháp lý được ký kết giữa khách hàng và cơ sở hành nghề luật sư chứ không ký trực tiếp với luật sư. Cơ sở hành nghề luật sư sẽ căn cứ vào hợp đồng dịch vụ pháp lý đó và yêu cầu của khách hàng cũng như khả năng của luật sư thành viên để phân công luật sư tham gia tố tụng. Khi luật sư xin giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư chỉ cần nộp cho Toà án văn bản phân công của cơ sở hành nghề luật sư chứ họ không cần “trình” cho Toà án hợp đồng dịch vụ pháp lý ký kết với khách hàng nhân danh cơ sở hành nghề luật sư. Việc các toà án yêu cầu luật sư “trình” hợp đồng dịch vụ pháp lý khi xin chứng nhận người bào chữa gây bất bình trong giới luật sư. Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đã có văn bản kiến nghị số 63/ĐLS gửi Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ, Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội, các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát tối cao… cho rằng “các cơ quan tố tụng hiểu chưa rõ về hợp đồng dịch vụ pháp lý, bởi hợp đồng dịch vụ pháp lý chỉ là một hợp đồng dân sự được giao kết giữa khách hàng và văn phòng luật sư, nó kh...
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top