Download miễn phí Tiểu luận Vận dụng hình thái kinh tế xã hội trong công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam
Để có thể phát triển bỏ qua hay rút ngắn lên CNXH, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng đối với các nước tiền tư bản chủ nghĩa phải có tấm gương của một cuộc cách mạng vô snả đã thắng lợi và đối với Việt nam cho đến nay những bài học về thành công cũng như thất bại của các cuộc cách mạng vô sản đều hết sức bổ ích.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng cần có sự giúp đỡ tích cực của các nước tiên tiến đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì các nước tiền TBCN mới có thể rút ngắn được con đường đi tới CNXH, thì Việt Nam cũng có điều kiện này.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-01-18-tieu_luan_van_dung_hinh_thai_kinh_te_xa_hoi_trong.F4KGXeN7lw.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-55335/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
hĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc động lực của sự vật. Trong triết học phương Đông thì người ta đã nói đến yếu tố biện chứng khi nói đến sự chuyển biến hoá của hai cực đối lập âm dương, đực và cái, trời và đất, sáng và tối, nóng và lạnh... Thuật ngữ phép biện chứng chỉ được hình thành thực sự khi mà Hêraclit đưa ra khi mà ông coi sự vận động phát triển của thế giới cũng giống như một dòng sông luôn luôn chảy.Pháp biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến, cũng là khoa học về sự phát triển và phép biện chứng chẳng qua cũng chỉ là môn khoa học về những qui luật phổ biến của sự vật và sự phát triển của tự nhiên của xã hội loài người, của tư duy. Phép biện chứng duy vật với tư cách là phương pháp luận của nhận thức khoa học nên nó đòi hỏi phải xem xét các sự vận hiện tượng trong sự tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau giữa chúng trong sự vận động phát triển.
Mác đã nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế - xã hội dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết quá trình lịch sử. Mác đã nêu ra quan điểm duy vật về lịch sử và hình thành học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội với những quan điểm sau:
1. Quan điểm thừa nhận sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.
Sự sản xuất xã hội là hoạt động có đặc trưng riêng của con người và xã hội loài người, đó là cái để phân biệt: sự khác nhau cơ bản giữa xã hội loài người với loài súc vật. Sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Trong hiện thực thì các quá trình của sản xuất, không tách biệt nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò nền tảng, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội xét cho cùng thì sản xuất vật chất quy định về quyết định đến toàn bộ đời sống xã hội
2. Quam điểm về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Mác viết: Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới mà loài người thay đổi cách sản xuất của mình và do thay đổi cách sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người đã thay đổi tất cả các quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp.
Như vậy theo Mác lượng sản xuất đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi cách sản xuất dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội.
3. Quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, mặc dù kiến trúc thượng tầng có khả năng tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Mác viết: "Không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái Nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người, để giải thích quan hệ hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất... Nếu ta không thể nhận định được về một con người mà chỉ căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân thì ta cũng không thể nhận định được về một thời đại đảo lộn như thế mà chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại phải giải thích ý thích ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội".
Từ những quan điểm cơ bản trên, Mác đã đi đến một kết luận hết sức khái quát là: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu không tuỳ từng trường hợp vào ý muốn của họ tức là những quan hệ sản xuất này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy phù hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó".
Từ đó có thể đi tới định nghĩa hình thái kinh tế xã hội là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng lên trên những quan hệ sản xuất đó.
Mác đã xây dựng tư tưởng vô sản đó bằng cách là trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi bật riêng lĩnh vực kinh tế, nghĩa là trong tất cả mọi quan hệ xã hội ông đã làm nổi bật riêng những quan hệ sản xuất coi đó là những quan hệ cơ bản đầu tiên và quyết định đến mọi quan hệ khác khi giải phẫu xã hội tư bản chủ nghĩa. Mác đã phát hiện ra những mối quan hệ bản chất, những quan hệ có tính lặp lại trong một xã hội, từ đó tìm ra tính qui luật trong sự vận động phát triển của xã hội.
Những yếu tố cơ bản của hình thái kinh tế xã hội là: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Mỗi một hình thái kinh tế xã hội có một cách sản xuất riêng. Các cuộc cách mạng xã hội đều gắn với sự thay thế cách sản xuất này bằng cách sản xuất tiến bộ hơn. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các cách sản xuất vật chất; công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Hai mặt thống nhất của cách sản xuất là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ của con người vưói tự nhiên. Trình độ lực lượng sản xuất còn thể hiện ở trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Lực lượng sản xuất trước hết là kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất. Người lao động là nhân tố quyết định hàng đầu của lực lượng sản xuất vì con người dùng sức lao động, kinh nghiệm, thói quen tri thức khoa học kỹ thuật của mình để sử dụng tư liệu lao động. Ngày nay khoa học đã phát triển con người điều khiển các quá trình lao động công nghệ tạo ra những ngành sản xuất mới hiện đại áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa bao giờ tri thức khoa học được vật hoá, kết tinh thâm nhập vào yếu tố của lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất nhanh như ngày nay.
Lực lượng sản xuất là mặt cơ bản nhất của bất cứ một xã hội nào, là yếu tố quyết định đối với phát triển của sản xuất vật chất. Sự hình thành của mỗi hình thái kinh tế - xã hội xét đến cùng là do một lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các hình thái kinh tế xã hội nối tiếp nhau từ thấp lên cao thể hiện tính liên tục trong sự phát triển của xã hội loài người.Như vậy...