zill_n_zill
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Vận dụng quan điểm triết học Mác xít về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để phát triển những thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn từ đổi mới đến nay
Phần mở đầu
Từ khi xuất hiện con người trên hành tinh này đến ngày nay đã trải qua 5 cách sản xuất tồn tại trong 5 chế độ xã hội: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến tập quyền, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tư duy nhận thức của con người không dừng lại ở một chỗ mà ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Từ đó kéo theo sự thay đổi phát triển lực lượng sản xuất cũng như quan hệ sản xuất. Từ hái lượm săn bắt để duy trì cuộc sống đến trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu và đến ngày nay trình độ khoa học đã đạt tới mức tột đỉnh. Mà cốt lõi của nền sản xuất xã hội chính là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, như Mác và ăngen nói, đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Từ quan điểm này của chủ nghĩa Mác xít, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng vào quá trình phát triển kinh tế xã hội nước ta trong giai đoạn từ đổi mới đến nay.
Biện chứng quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho chúng ta có được nhận thức về sản xuất xã hội và kinh tế. Thấy được ý nghĩa đó, tui xin bày tỏ một vài ý kiến bản thân về vấn đề: "Vận dụng quan điểm triết học Mác xít về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để phát triển những thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn từ đổi mới đến nay"
Phần nội dung
I. Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, đồng thời thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm: người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất(trước hế là công cụ lao động) kết hợp với nhau thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất hàng đầu là người công nhân, người lao động. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người này càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chủ yếu.
Cùng với người lao động công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản trong lực lượng sản xuất đóng vài trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người tạo ra, nó "Nhân" sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức độ trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp". Những phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất, trở thành 1 yếu tố không thể thiếu được của sản xuất của sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành cuộc cách mạng khoa học và cách mạng hiện đại. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Nước ta từ trước tới nay nền kinh tế lấy nông nghiệp là chủ yếu, trình độ khoa học kỹ thuật kém phát triển. Công cụ sản xuất của ta vừa nhỏ, vừa lạc hậu so với trình độ phát triển chung trên thế giới. Thực tế trong nhiều ngành sản xuất thủ công vẫn là chủ yếu, lao động thủ công chiếm tỉ lệ cao, cơ giới hoá vẫn còn chưa phát triển. Mặt khác, trong 1 thời gian khá dài, lực lượng sản xuất bị kìm hãm trong lối suy nghĩ bảo thủ, trì trệ. Chính bởi vậy, Đại hội Đảng 6 đặt ra nhiệm vụ "Giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, sử dụng có hiệu quặ giúp đỡ của quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất". Chúng ta đang ở trong giai đoạn mà cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới phát triển một cách mạnh mẽ, nó đòi hỏi chúng ta tiếp thu cái mới một cách nhanh chóng để phát triển nguồn lực bên trong. Hiện nay nước ta đang tiến dần lên với tự động hoá, lực lượng lao động có trình độ, có khả năng vận hành máy móc, tay nghề thành thạo, được đào tạo căn bản đang dần tăng lên. Cùng với sự đầu tư máy móc thiết bị tiên tiến, Việt Nam hy vọng có thể thay đổi căn bản trình độ lực lượng sản xuất.
2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Do con người không thể tách khỏi cộng đồng nên trong quá trình sản xuất phải có những mối quan hệ với nhau. Vậy việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là một vấn đề có tính quy luật. Nhìn tổng thể, quan hệ sản xuất gồm 3 mặt.
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản xuất, nói cách khác là tư liệu sản xuất thuộc về ai?
- Quan hệ trong tổ chức quản ly sản xuất, tức là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như: phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động, quan hệ giữa người quản lý và công nhân…
- Quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra, tức là quan hệ chặt chẽ giữa sản xuất vsà sản phẩm với cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc theo ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, giữa 3 mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong 3 mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Nó quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quah hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ sản xuất khác (sự phát triển của nhân loại đã chứng kiến có 2 loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất; sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu tr
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kién và đến xã hội cộng sản là do sự tác dộng của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần hiểu và vận dụng tốt quy luật này để phát triển kinh tế. Trên thực tế không thể có sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Song phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù hợp. Sự vận dụng đúng đắn của Đảng và Nhà nước sẽ đem lại thành tựu vô cùng to lớn cho nền kinh tế - xã hội nước ta ta hoàn thành tốt mục tiêu CNH-HĐH đất nước. Tuy vậy, hạn chế, yếu kém còn rất nhiều, đòi hỏi cần có sự nỗ lực hết sức, phát huy mọi tiềm năng vốn có để khắc phục.
Chỉ tính từ đổi mới đến nay, đất nước ta đã có những bước chuyển mình lớn lao trong đời sống kinh tế xã hội. Đó là nhờ sự nhận thức và vận dụng kịp thời quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, mở ra con đường đầy hứa hẹn cho sự phát triển của đất nước. Trong tương lai, chúng ta sẽ là những người gánh vác nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước, vì vậy ngay từ lúc này cần nhận thức rõ ràng và đúng đắn mối quan hệ biện chứng của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, như quan điểm triết học Macxit thì đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin
NXB Chính trị Quốc gia
2. Giáo trình Lịch sử kinh tế
3. Văn kiện Đại hội Đảng
4. Một số bài báo, bài luận khác.
Mục lục
Phần mở đầu 1
Phần nội dung 2
I. Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 2
1. Lực lượng sản xuất 2
2. Quan hệ sản xuất 4
3. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 5
II. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nước ta từ đổi mới đến nay 7
1. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần 7
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất được vận dụng trong quá trình CNH- HĐH đất nước 9
III. Thành tựu và hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ đổi mới đến nay 9
1. Thành tựu đạt được 9
2. Hạn chế 13
Phần kết luận 14
Danh mục tài liệu tham khảo 15
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Vận dụng quan điểm triết học Mác xít về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để phát triển những thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn từ đổi mới đến nay
Phần mở đầu
Từ khi xuất hiện con người trên hành tinh này đến ngày nay đã trải qua 5 cách sản xuất tồn tại trong 5 chế độ xã hội: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến tập quyền, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tư duy nhận thức của con người không dừng lại ở một chỗ mà ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Từ đó kéo theo sự thay đổi phát triển lực lượng sản xuất cũng như quan hệ sản xuất. Từ hái lượm săn bắt để duy trì cuộc sống đến trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu và đến ngày nay trình độ khoa học đã đạt tới mức tột đỉnh. Mà cốt lõi của nền sản xuất xã hội chính là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, như Mác và ăngen nói, đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Từ quan điểm này của chủ nghĩa Mác xít, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng vào quá trình phát triển kinh tế xã hội nước ta trong giai đoạn từ đổi mới đến nay.
Biện chứng quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho chúng ta có được nhận thức về sản xuất xã hội và kinh tế. Thấy được ý nghĩa đó, tui xin bày tỏ một vài ý kiến bản thân về vấn đề: "Vận dụng quan điểm triết học Mác xít về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để phát triển những thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn từ đổi mới đến nay"
Phần nội dung
I. Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, đồng thời thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm: người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất(trước hế là công cụ lao động) kết hợp với nhau thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất hàng đầu là người công nhân, người lao động. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người này càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chủ yếu.
Cùng với người lao động công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản trong lực lượng sản xuất đóng vài trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người tạo ra, nó "Nhân" sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức độ trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp". Những phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất, trở thành 1 yếu tố không thể thiếu được của sản xuất của sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành cuộc cách mạng khoa học và cách mạng hiện đại. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Nước ta từ trước tới nay nền kinh tế lấy nông nghiệp là chủ yếu, trình độ khoa học kỹ thuật kém phát triển. Công cụ sản xuất của ta vừa nhỏ, vừa lạc hậu so với trình độ phát triển chung trên thế giới. Thực tế trong nhiều ngành sản xuất thủ công vẫn là chủ yếu, lao động thủ công chiếm tỉ lệ cao, cơ giới hoá vẫn còn chưa phát triển. Mặt khác, trong 1 thời gian khá dài, lực lượng sản xuất bị kìm hãm trong lối suy nghĩ bảo thủ, trì trệ. Chính bởi vậy, Đại hội Đảng 6 đặt ra nhiệm vụ "Giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, sử dụng có hiệu quặ giúp đỡ của quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất". Chúng ta đang ở trong giai đoạn mà cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới phát triển một cách mạnh mẽ, nó đòi hỏi chúng ta tiếp thu cái mới một cách nhanh chóng để phát triển nguồn lực bên trong. Hiện nay nước ta đang tiến dần lên với tự động hoá, lực lượng lao động có trình độ, có khả năng vận hành máy móc, tay nghề thành thạo, được đào tạo căn bản đang dần tăng lên. Cùng với sự đầu tư máy móc thiết bị tiên tiến, Việt Nam hy vọng có thể thay đổi căn bản trình độ lực lượng sản xuất.
2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Do con người không thể tách khỏi cộng đồng nên trong quá trình sản xuất phải có những mối quan hệ với nhau. Vậy việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là một vấn đề có tính quy luật. Nhìn tổng thể, quan hệ sản xuất gồm 3 mặt.
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản xuất, nói cách khác là tư liệu sản xuất thuộc về ai?
- Quan hệ trong tổ chức quản ly sản xuất, tức là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như: phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động, quan hệ giữa người quản lý và công nhân…
- Quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra, tức là quan hệ chặt chẽ giữa sản xuất vsà sản phẩm với cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc theo ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, giữa 3 mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong 3 mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Nó quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quah hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ sản xuất khác (sự phát triển của nhân loại đã chứng kiến có 2 loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất; sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu tr
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kién và đến xã hội cộng sản là do sự tác dộng của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần hiểu và vận dụng tốt quy luật này để phát triển kinh tế. Trên thực tế không thể có sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Song phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù hợp. Sự vận dụng đúng đắn của Đảng và Nhà nước sẽ đem lại thành tựu vô cùng to lớn cho nền kinh tế - xã hội nước ta ta hoàn thành tốt mục tiêu CNH-HĐH đất nước. Tuy vậy, hạn chế, yếu kém còn rất nhiều, đòi hỏi cần có sự nỗ lực hết sức, phát huy mọi tiềm năng vốn có để khắc phục.
Chỉ tính từ đổi mới đến nay, đất nước ta đã có những bước chuyển mình lớn lao trong đời sống kinh tế xã hội. Đó là nhờ sự nhận thức và vận dụng kịp thời quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, mở ra con đường đầy hứa hẹn cho sự phát triển của đất nước. Trong tương lai, chúng ta sẽ là những người gánh vác nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước, vì vậy ngay từ lúc này cần nhận thức rõ ràng và đúng đắn mối quan hệ biện chứng của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, như quan điểm triết học Macxit thì đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin
NXB Chính trị Quốc gia
2. Giáo trình Lịch sử kinh tế
3. Văn kiện Đại hội Đảng
4. Một số bài báo, bài luận khác.
Mục lục
Phần mở đầu 1
Phần nội dung 2
I. Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 2
1. Lực lượng sản xuất 2
2. Quan hệ sản xuất 4
3. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 5
II. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nước ta từ đổi mới đến nay 7
1. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần 7
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất được vận dụng trong quá trình CNH- HĐH đất nước 9
III. Thành tựu và hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ đổi mới đến nay 9
1. Thành tựu đạt được 9
2. Hạn chế 13
Phần kết luận 14
Danh mục tài liệu tham khảo 15
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: nhận thức luận mác xít vào sự phát triển nền kinh tế việt nam, quan điểm của đại hội 11 về phát triển lực lượng sản xuất gắn với quan hệ sản xuất, Quan điểm triết học Mác - Lênin và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản suất vào quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta từ đổi mới đến nay, kết luận nhà nước của Mác-xít, phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất theo quan điểm triết học Mác – lê nin. Liên hệ sự vận dụng của quy luật này trong đổi mới Đảng ta., lời mở đầu triết về quy luật sự phù hợp
Last edited by a moderator: