mr_huych0u
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Mục lục
Lời nói đầu 2
I. Khái quát chung về thị trường bán lẻ tại Việt Nam.
1. Độ hấp dẫn của thị trường bán lẻ ở VN từ sau khi gia nhập WTO 3
2. Đánh giá về các yếu tố tạo điều kiện để phát triển hệ thống phân phối bán lẻ tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2.1. Các yếu tố thuận lợi 5
2.2. Khó khăn. 8
II. Xu hướng phát triển hệ thống phân phối bán lẻ tại thị trường Việt Nam.
1. Tiến hành hoạt động sát nhập giữa các doanh nghiệp 11
2. Bùng nổ thương mại điện tử. 13
3. Kết hợp chức năng vừa là bán lẻ vừa là bán buôn. 14
4. Tăng thêm các dịch vụ nhằm thỏa mãn khách hàng. 15
5. Hướng về thị trường nông thôn. 15
6. Sự phát triển về nhượng quyền thương mại. 16
III. Các kiến nghị cho các doanh nghiệp trong nước có thể cạnh tranh và phát triển trong hệ thống phân phối bán lẻ tại Việt Nam hiện nay.
1. Từ phía doanh nghiệp. 17
2. Từ phía nhà nước 20
IV. Kết luận 22
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam được biết đến là một quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế cao, chính trị ổn định, thu hút sự chú ý của không ít các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là một trong những thị trường đông dân, với kết cấu dân số trẻ và nhu cầu mua sắm ngày càng tăng thì lĩnh vực phân phối bán lẻ dường như trở thành một miếng bánh béo bở cho các nhà kinh doanh trong và ngoài nước.
Sau khi trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã tiến hành gỡ bỏ dần rào cản về thuế quan, đưa ra các chính sách đãi ngộ với các doanh nghiệp nước ngoài nhằm tiến hành xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng và thuận lợi theo đúng với những nguyên tắc đã cam kết khi gia nhập vào tổ chức này. Theo đó, từ tháng 1/2007, các nhà đầu tư nước ngoài đã được phép thành lập các công ty liên doanh phân phối hàng hóa, trong đó phía nước ngoài được phép chiếm giữ 49% số vốn. Đến tháng 1/2009, Việt Nam sẽ mở cửa hoàn toàn thị trường cho các công ty kinh doanh bán lẻ 100% vốn nước ngoài. Điều này đem lại lợi ích hay thách thức như thế nào? Ảnh hướng đến xu hướng phát triển của hệ thống phân phối bán lẻ ở Việt Nam ra sao? Ta sẽ tìm hiểu điều đó qua bài tiểu luận này.
I. Khái quát chung về thị trường bán lẻ tại Việt Nam.
1. Độ hấp dẫn của thị trường bán lẻ ở Việt Nam từ sau khi gia nhập WTO.
Ngay từ khi tiến hành đẩy mạnh các chính sách mở cửa thị trường trong quá trình xin gia nhập WTO, Việt Nam đã trở thành một trong những “điểm nóng” cho các nhà đầu tư nước ngoài mong đợi, đặc biệt là trong lĩnh vực phân phối bán lẻ. Thông thường, cơ hội tham gia vào mỗi thị trường của các doanh nghiệp sẽ diễn ra trong vòng từ 5 đến 10 năm, đây là khoảng thời gian mà các nhà đầu tư coi là “cơ hội vàng” của họ. Như trước đây thì Trung Quốc đã từng là nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn, sôi động, là nơi thu hút nhiều nhất các nhà đầu tư lớn, thế nhưng giai đoạn gần đây, thị trường bán lẻ Trung Quốc đã bão hòa, tiến dần đến thoái trào. Và các đại gia đã nhanh chóng bị thu hút bởi Việt Nam nổi lên là một thị trường mới đầy tiềm năng cho ngành phân phối bán lẻ, là được xem như một “ Little Indian” mới.
Với hơn 86 triệu dân, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập và đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, tiêu dùng cá nhân tăng ngay cả trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu…, các chuyên gia nhận định, thị trường phân phối bán lẻ của Việt Nam đang phát triển nhanh nhất trong khu vực châu Á.
Năm 2009, mặc dù phải chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, song tổng doanh số bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ở Việt Nam vẫn tăng 18,6% (không kể yếu tố tăng giá thì tăng 12%) so với năm trước. Qua 7 tháng đầu năm 2010, tổng doanh số bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng của Việt Nam ước tính đã đạt 877.500 tỷ đồng, tăng 26,4 % so với cùng kỳ năm 2009 (không kể yếu tố tăng giá thì tăng 16,3%).
Lĩnh vực phân phối, bán lẻ hiện đóng góp khoảng 14% GDP của Việt Nam (khoảng hơn 20 tỷ USD), sử dụng hơn 5 triệu lao động (cao nhất trong các ngành dịch vụ). Theo báo cáo khảo sát đánh giá xếp hạng toàn cầu về thị trường phân phối bán lẻ của một số tổ chức chuyên môn quốc tế, năm 2009 Việt Nam xếp thứ 48/211 nền kinh tế về sức hấp dẫn; đến tháng 6/2010, sức hấp dẫn của thị trường phân phối bán lẻ Việt Nam tiếp tục tăng thêm 2 bậc so với năm 2009.
Điều này đã giúp Việt Nam trở thành điểm đến của các nhà phân phối hàng đầu trên thế giới như Parkson (Malaysia), Big C ( Hà Lan) hay Diamond Plaza (Hàn Quốc)… Họ đã nhanh chóng tân dụng cơ hội để thâm nhập vào thị trường nội địa, thiết lập hệ thống phân phối của mình tại các thành phố lớn ( chủ yếu là Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng…), và chỉ trong 2 năm (từ 2007 đến 2009) hàng loạt các đại gia lớn đã có mặt trên thị trường bán lẻ Việt Nam, đe dọa đến sự tồn tại của các nhà phân phối bán lẻ Việt (Hapro, Saigon Coopmark, Thái Phú…). Đặc biệt, vào 01/01/2009 vừa qua, chính phủ đã mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ tại Việt Nam, cho phép sự tham gia của các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài. Điều này có tác động tích cực đến sự phát triển và hoàn thiện hơn nữa hệ thống phân phối bán lẻ ở Việt Nam, nhưng nó lại trở thành một bài toán khó cho các nhà phân phối bán lẻ trong nước.
2. Đánh giá về các yếu tố tạo điều kiện để phát triển hệ thống phân phối bán lẻ tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
2.1. Các yếu tố thuận lợi:
2.1.1. Kinh tế:
Thứ nhất, kinh tế Việt Nam được đánh giá là phát triển bền vững với tốc độ tăng trưởng cao qua các năm, GDP năm 2006 là 8,17% và tăng lên 8,48 % vào năm 2007. Cuối năm 2008, thế giới đã phải chứng kiến cơn bão suy thoái kéo theo sự sụt giảm về mức tăng trưởng kinh tế của toàn thế giới, tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng, tuy vậy, kinh tế Việt Nam đã nhanh chóng vượt qua khủng hoảng với con số khá ấn tượng doanh số bán lẻ dịch vụ đạt 1.200 nghìn tỷ VNĐ (2009) tương ứng với mức 11%. Nhờ đó các chuyên gia kinh tế đã đưa ra đánh giá lạc quan cho sự phát triển cho ngành phân phối bán lẻ vào năm 2010 với mức lưu chuyển hàng hóa dịch vụ dự kiến sẽ tăng lên 20% ứng với 1.440 nghìn tỷ đồng và hứa hẹn là thị trường tiềm năng mà các doanh nghiệp nước ngoài hướng đến.
Thứ hai, việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại WTO đồng nghĩa với việc các rào cản kinh tế bị gỡ bỏ, các doanh nghiệp đã có thể tự do tiếp cận và tiến hành khai thác thị trường. Các chính sách của nhà nước cũng đã thông thoáng hơn rất nhiều, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển hệ thống phân phối bán lẻ ở Việt Nam, điều này không chỉ đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp thuộc ngành mà quan trọng hơn là sẽ tạo cơ hội phân phối hàng Việt đến tận tay người tiêu dùng Việt tốt nhất.
Thứ ba, ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa của nước ta đã có rất nhiều tiến bộ như sự ra đời của các khu công nghiệp, các nhà máy có quy mô sản xuất lớn, hay tập đoàn lớn trong ngành Hòa phát, gạch Đồng Tâm, Duy Lợi, Việt Tiến hay các hàng thủ công mỹ nghệ, thực phẩm sạch, nước giải khát… Việc xuất hiện các sản phẩm mang thương hiệu nội đang dần lấy được niềm tin của người dân đã tạo ra nhu cầu đòi hỏi một kênh phân phối hàng hóa bán lẻ tiện dụng là rất lớn. Mà các nhà đầu tư vào lĩnh vực này cũng sẽ không phải e sợ về việc cung cấp hàng hóa đầu vào.
2.1.2. Xã hội:
Hiện nay Việt Nam có khoảng 84 triệu người, với 75% dân số Việt Nam sống ở nông thôn dẫn đến sự chuyển dịch dân cư vào các trung tâm đô thị lớn diễn ra khá mạnh mẽ. Đáng nói hơn, Việt Nam lại là nước có kết cấu dân số trẻ 65% người dân đang ở độ tuổi lao động với hơn ½ ở độ tuổi 30 – là độ tuổi có mức chi tiêu cho mua sắm nhiều nhất. Chính những điều này đã tác động không nhỏ đến thói quen tiêu dùng tại thị trường nước ta hiện nay, mức tiêu thụ hàng hóa đã tăng cao.
Bên cạnh đó, thu nhập của người dân đã cao hơn trước. Hiện có khoảng 1% dân số thuộc tầng lớp thu nhập rất cao gọi là “ vinavalet” sẽ là lực lượng kích thích sự gia tăng sử dụng hàng hóa xa xỉ (như xe hơi BMW, đồng hồ Swatch, Titan, hàng nội thất sang trọng…) Đây cũng chính là lượng người có mức tiêu thụ lớn nhất và qua đó cũng giúp đẩy mạnh mức tiêu thụ. Các chuyên gia cho rằng chỉ 5 đến 6 năm nữa thôi thì sự tồn tại của các “vinavalet” sẽ chiếm đến 10% dân số, chính điều này đã hứa hẹn một thị trường tiêu dùng Việt Nam đầy tiềm năng.
Lượng người tiến hành mua sắm qua kênh bán lẻ hiện đại ngày càng tăng, đặt biệt giới trẻ đang nghiêng về xu hướng thích mua sắm qua mạng internet, đặt hàng qua truyền hình hay shopping tại các trung tâm thương mại lớn. Từ năm 2007 có 66% người tiêu dùng thỉnh thoảng mua sắm tại siêu thị, thì cuối 2008 con số này đã lên tới 96%. Tần suất mua sắm tại cửa hàng tiện ích, siêu thị cũng ngày càng tăng, từ 2, 3 lần/tháng trong năm 2008, và nâng lên 4 – 5/tháng trong năm 2009
2.1.3. Cơ sở hạ tầng.
Trong những năm gần đây thì cơ sở hạ tầng ở Việt Nam đã có sự đầu tư rất lớn. Sự ra đời của các tòa nhà thương mại, các trung tâm mua sắm hay các chung cư cao cấp tạo thuận lợi cho hệ thống các siêu thị lớn nhanh chóng ra đời (ví dụ như Zen p laza, Sai gon Coorpmark, fivi mark…) với các trang bị nội thất hiện đại, thái độ phục vụ chuyên nghiệp và nhiệt tình của nhân viên, không những thế, các trung tâm này còn kết hợp cả việc mua sắm và vui chơi giải trí của người dân thành thị. Bên cạnh đó, hệ thống đường xá được cải tạo và xây mới đã tạo sự tiện lợi trong di chuyển và lưu thông hàng hóa bớt đi một vấn đề cho các nhà bán lẻ khi muốn vào thị trường Việt Nam.
2.2. Khó khăn.
2.2.1. Thói quen tiêu dùng của người Việt.
Bên cạnh thế mạnh về dân số, thì thị trường Việt Nam khiến các nhà phân phối lớn phải đau đầu. Với thói quen “ Ăn một bát cháo chạy ba quãng đường”, người tiêu dùng Việt Nam chấp nhận “ đi xa để mua được hàng hóa rẻ” hơn rất ít so với các trung tâm thương mại. Hơn thế nữa, phần đông người dân của chúng ta lại có mức thu nhập thấp đến trung bình nên họ quen thuộc với hình thức mua hàng tại các cửa hàng bách hóa nhỏ lẻ, hay các chợ trời, chỉ tính đến cuối năm 2008 đã có đến 9000 chợ tồn tại, chi có 13% lượng người chấp nhận mua sắm ở các kênh phân phối hiện đại.
Hơn thế nữa, thời gian vừa qua thế giới đã chứng kiến sự sụp đổ của hàng loạt thể chế kinh tế lớn. Chính điều này đã tạo nên tâm lý lo ngại, hành động thắt chặt chi tiêu của không chỉ người dân Việt Nam mà đó là xu hướng chung của người tiêu dùng trên toàn thế giới khiến cho thị trường bán lẻ đã và đang đối mặt với nhiều khó khăn để kích thích người dân tăng tiêu dùng.
2.2.2 Sức ép mở cửa.
Tại cuộc hội thảo “Tác động của mở cửa thị trường tới mạng lưới phân phối hàng hóa của Việt Nam hậu WTO” diễn ra đầu tháng 8/2010 ở TP. Đà Nẵng, với sự giúp đỡ của Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên (MUTRAP III, do EU tài trợ), các chuyên gia cho biết: “Sau hơn một năm (kể từ 1/1/2009) mở cửa thị trường bán lẻ cho các DN 100% vốn nước ngoài hoạt động, đến thời điểm này các tập đoàn bán lẻ quốc tế đã không ồ ạt xâm nhập Việt Nam như dự đoán”.
IV.Kết luận
Sau hơn một năm (kể từ ngày 01/01/2009) Việt Nam chính thức mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ thì hệ thống phân phối bán lẻ của Việt Nam đã thực sự có những bước tiến đáng kể. Giờ đây, thị trường Việt nam không còn là sân chơi của riêng các nhà phân phối trong nước, mà nó đã trở thành thị trường của toàn cầu, là nơi mà các doanh nghiệp nước nhà phải có những nổ lực thực sự mới có thể cạnh tranh và tồn tại được. Sự tồn tại song song giữa các nhà phân phối trong nước và nước ngoài tuy là một trở ngại rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể đứng vững được trong hệ thống phân phối bán lẻ hiện nay nhưng đó cũng là một tác nhân quan trọng góp phần thúc đầy, tạo môi trường giúp các nhà phân phối của chúng ta học hỏi và phát triển một cách toàn diện nhất. Chính vì vậy mà giờ đây, người dân Việt Nam đã khá quen thuộc với những tên tuổi mang thương hiệu Việt như Saigon coorp mark, Thái Phú, hay Vinatech… Những nhà phân phối của chúng ta không những đã dần khẳng định tên tuổi của doanh nghiệp mình trên thị trường nội địa mà còn giúp đưa sản phẩm Việt Nam được biết đến rộng rải hơn ở thị trường nước ngoài. Với những xu hướng phát triển của hệ thống phân phối bán lẻ hiện nay ở nước ta, phần lớn thị trường nước ta đã bị các nhà phân phối nước ngoài khai thác và nắm giữ, và họ nhanh chóng kéo theo các nhà sản xuất của mình vào để chiếm lĩnh thị trường nước ta, điều này có ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến riêng lĩnh vực phân phối bán lẻ mà còn là nền sản xuất nội địa.
Vì thế, với những xu hướng phát triển như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng nắm bắt để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, qua đó liên kết và nắm lại chuỗi phân phối bán lẻ tránh tình trạng để rơi vào tay các nhà đầu tư nước ngoài, gây tổn hại về lâu dài cho nền kinh tế nước nhà.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Mục lục
Lời nói đầu 2
I. Khái quát chung về thị trường bán lẻ tại Việt Nam.
1. Độ hấp dẫn của thị trường bán lẻ ở VN từ sau khi gia nhập WTO 3
2. Đánh giá về các yếu tố tạo điều kiện để phát triển hệ thống phân phối bán lẻ tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2.1. Các yếu tố thuận lợi 5
2.2. Khó khăn. 8
II. Xu hướng phát triển hệ thống phân phối bán lẻ tại thị trường Việt Nam.
1. Tiến hành hoạt động sát nhập giữa các doanh nghiệp 11
2. Bùng nổ thương mại điện tử. 13
3. Kết hợp chức năng vừa là bán lẻ vừa là bán buôn. 14
4. Tăng thêm các dịch vụ nhằm thỏa mãn khách hàng. 15
5. Hướng về thị trường nông thôn. 15
6. Sự phát triển về nhượng quyền thương mại. 16
III. Các kiến nghị cho các doanh nghiệp trong nước có thể cạnh tranh và phát triển trong hệ thống phân phối bán lẻ tại Việt Nam hiện nay.
1. Từ phía doanh nghiệp. 17
2. Từ phía nhà nước 20
IV. Kết luận 22
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam được biết đến là một quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế cao, chính trị ổn định, thu hút sự chú ý của không ít các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là một trong những thị trường đông dân, với kết cấu dân số trẻ và nhu cầu mua sắm ngày càng tăng thì lĩnh vực phân phối bán lẻ dường như trở thành một miếng bánh béo bở cho các nhà kinh doanh trong và ngoài nước.
Sau khi trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã tiến hành gỡ bỏ dần rào cản về thuế quan, đưa ra các chính sách đãi ngộ với các doanh nghiệp nước ngoài nhằm tiến hành xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng và thuận lợi theo đúng với những nguyên tắc đã cam kết khi gia nhập vào tổ chức này. Theo đó, từ tháng 1/2007, các nhà đầu tư nước ngoài đã được phép thành lập các công ty liên doanh phân phối hàng hóa, trong đó phía nước ngoài được phép chiếm giữ 49% số vốn. Đến tháng 1/2009, Việt Nam sẽ mở cửa hoàn toàn thị trường cho các công ty kinh doanh bán lẻ 100% vốn nước ngoài. Điều này đem lại lợi ích hay thách thức như thế nào? Ảnh hướng đến xu hướng phát triển của hệ thống phân phối bán lẻ ở Việt Nam ra sao? Ta sẽ tìm hiểu điều đó qua bài tiểu luận này.
I. Khái quát chung về thị trường bán lẻ tại Việt Nam.
1. Độ hấp dẫn của thị trường bán lẻ ở Việt Nam từ sau khi gia nhập WTO.
Ngay từ khi tiến hành đẩy mạnh các chính sách mở cửa thị trường trong quá trình xin gia nhập WTO, Việt Nam đã trở thành một trong những “điểm nóng” cho các nhà đầu tư nước ngoài mong đợi, đặc biệt là trong lĩnh vực phân phối bán lẻ. Thông thường, cơ hội tham gia vào mỗi thị trường của các doanh nghiệp sẽ diễn ra trong vòng từ 5 đến 10 năm, đây là khoảng thời gian mà các nhà đầu tư coi là “cơ hội vàng” của họ. Như trước đây thì Trung Quốc đã từng là nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn, sôi động, là nơi thu hút nhiều nhất các nhà đầu tư lớn, thế nhưng giai đoạn gần đây, thị trường bán lẻ Trung Quốc đã bão hòa, tiến dần đến thoái trào. Và các đại gia đã nhanh chóng bị thu hút bởi Việt Nam nổi lên là một thị trường mới đầy tiềm năng cho ngành phân phối bán lẻ, là được xem như một “ Little Indian” mới.
Với hơn 86 triệu dân, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập và đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, tiêu dùng cá nhân tăng ngay cả trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu…, các chuyên gia nhận định, thị trường phân phối bán lẻ của Việt Nam đang phát triển nhanh nhất trong khu vực châu Á.
Năm 2009, mặc dù phải chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, song tổng doanh số bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ở Việt Nam vẫn tăng 18,6% (không kể yếu tố tăng giá thì tăng 12%) so với năm trước. Qua 7 tháng đầu năm 2010, tổng doanh số bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng của Việt Nam ước tính đã đạt 877.500 tỷ đồng, tăng 26,4 % so với cùng kỳ năm 2009 (không kể yếu tố tăng giá thì tăng 16,3%).
Lĩnh vực phân phối, bán lẻ hiện đóng góp khoảng 14% GDP của Việt Nam (khoảng hơn 20 tỷ USD), sử dụng hơn 5 triệu lao động (cao nhất trong các ngành dịch vụ). Theo báo cáo khảo sát đánh giá xếp hạng toàn cầu về thị trường phân phối bán lẻ của một số tổ chức chuyên môn quốc tế, năm 2009 Việt Nam xếp thứ 48/211 nền kinh tế về sức hấp dẫn; đến tháng 6/2010, sức hấp dẫn của thị trường phân phối bán lẻ Việt Nam tiếp tục tăng thêm 2 bậc so với năm 2009.
Điều này đã giúp Việt Nam trở thành điểm đến của các nhà phân phối hàng đầu trên thế giới như Parkson (Malaysia), Big C ( Hà Lan) hay Diamond Plaza (Hàn Quốc)… Họ đã nhanh chóng tân dụng cơ hội để thâm nhập vào thị trường nội địa, thiết lập hệ thống phân phối của mình tại các thành phố lớn ( chủ yếu là Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng…), và chỉ trong 2 năm (từ 2007 đến 2009) hàng loạt các đại gia lớn đã có mặt trên thị trường bán lẻ Việt Nam, đe dọa đến sự tồn tại của các nhà phân phối bán lẻ Việt (Hapro, Saigon Coopmark, Thái Phú…). Đặc biệt, vào 01/01/2009 vừa qua, chính phủ đã mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ tại Việt Nam, cho phép sự tham gia của các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài. Điều này có tác động tích cực đến sự phát triển và hoàn thiện hơn nữa hệ thống phân phối bán lẻ ở Việt Nam, nhưng nó lại trở thành một bài toán khó cho các nhà phân phối bán lẻ trong nước.
2. Đánh giá về các yếu tố tạo điều kiện để phát triển hệ thống phân phối bán lẻ tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
2.1. Các yếu tố thuận lợi:
2.1.1. Kinh tế:
Thứ nhất, kinh tế Việt Nam được đánh giá là phát triển bền vững với tốc độ tăng trưởng cao qua các năm, GDP năm 2006 là 8,17% và tăng lên 8,48 % vào năm 2007. Cuối năm 2008, thế giới đã phải chứng kiến cơn bão suy thoái kéo theo sự sụt giảm về mức tăng trưởng kinh tế của toàn thế giới, tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng, tuy vậy, kinh tế Việt Nam đã nhanh chóng vượt qua khủng hoảng với con số khá ấn tượng doanh số bán lẻ dịch vụ đạt 1.200 nghìn tỷ VNĐ (2009) tương ứng với mức 11%. Nhờ đó các chuyên gia kinh tế đã đưa ra đánh giá lạc quan cho sự phát triển cho ngành phân phối bán lẻ vào năm 2010 với mức lưu chuyển hàng hóa dịch vụ dự kiến sẽ tăng lên 20% ứng với 1.440 nghìn tỷ đồng và hứa hẹn là thị trường tiềm năng mà các doanh nghiệp nước ngoài hướng đến.
Thứ hai, việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại WTO đồng nghĩa với việc các rào cản kinh tế bị gỡ bỏ, các doanh nghiệp đã có thể tự do tiếp cận và tiến hành khai thác thị trường. Các chính sách của nhà nước cũng đã thông thoáng hơn rất nhiều, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển hệ thống phân phối bán lẻ ở Việt Nam, điều này không chỉ đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp thuộc ngành mà quan trọng hơn là sẽ tạo cơ hội phân phối hàng Việt đến tận tay người tiêu dùng Việt tốt nhất.
Thứ ba, ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa của nước ta đã có rất nhiều tiến bộ như sự ra đời của các khu công nghiệp, các nhà máy có quy mô sản xuất lớn, hay tập đoàn lớn trong ngành Hòa phát, gạch Đồng Tâm, Duy Lợi, Việt Tiến hay các hàng thủ công mỹ nghệ, thực phẩm sạch, nước giải khát… Việc xuất hiện các sản phẩm mang thương hiệu nội đang dần lấy được niềm tin của người dân đã tạo ra nhu cầu đòi hỏi một kênh phân phối hàng hóa bán lẻ tiện dụng là rất lớn. Mà các nhà đầu tư vào lĩnh vực này cũng sẽ không phải e sợ về việc cung cấp hàng hóa đầu vào.
2.1.2. Xã hội:
Hiện nay Việt Nam có khoảng 84 triệu người, với 75% dân số Việt Nam sống ở nông thôn dẫn đến sự chuyển dịch dân cư vào các trung tâm đô thị lớn diễn ra khá mạnh mẽ. Đáng nói hơn, Việt Nam lại là nước có kết cấu dân số trẻ 65% người dân đang ở độ tuổi lao động với hơn ½ ở độ tuổi 30 – là độ tuổi có mức chi tiêu cho mua sắm nhiều nhất. Chính những điều này đã tác động không nhỏ đến thói quen tiêu dùng tại thị trường nước ta hiện nay, mức tiêu thụ hàng hóa đã tăng cao.
Bên cạnh đó, thu nhập của người dân đã cao hơn trước. Hiện có khoảng 1% dân số thuộc tầng lớp thu nhập rất cao gọi là “ vinavalet” sẽ là lực lượng kích thích sự gia tăng sử dụng hàng hóa xa xỉ (như xe hơi BMW, đồng hồ Swatch, Titan, hàng nội thất sang trọng…) Đây cũng chính là lượng người có mức tiêu thụ lớn nhất và qua đó cũng giúp đẩy mạnh mức tiêu thụ. Các chuyên gia cho rằng chỉ 5 đến 6 năm nữa thôi thì sự tồn tại của các “vinavalet” sẽ chiếm đến 10% dân số, chính điều này đã hứa hẹn một thị trường tiêu dùng Việt Nam đầy tiềm năng.
Lượng người tiến hành mua sắm qua kênh bán lẻ hiện đại ngày càng tăng, đặt biệt giới trẻ đang nghiêng về xu hướng thích mua sắm qua mạng internet, đặt hàng qua truyền hình hay shopping tại các trung tâm thương mại lớn. Từ năm 2007 có 66% người tiêu dùng thỉnh thoảng mua sắm tại siêu thị, thì cuối 2008 con số này đã lên tới 96%. Tần suất mua sắm tại cửa hàng tiện ích, siêu thị cũng ngày càng tăng, từ 2, 3 lần/tháng trong năm 2008, và nâng lên 4 – 5/tháng trong năm 2009
2.1.3. Cơ sở hạ tầng.
Trong những năm gần đây thì cơ sở hạ tầng ở Việt Nam đã có sự đầu tư rất lớn. Sự ra đời của các tòa nhà thương mại, các trung tâm mua sắm hay các chung cư cao cấp tạo thuận lợi cho hệ thống các siêu thị lớn nhanh chóng ra đời (ví dụ như Zen p laza, Sai gon Coorpmark, fivi mark…) với các trang bị nội thất hiện đại, thái độ phục vụ chuyên nghiệp và nhiệt tình của nhân viên, không những thế, các trung tâm này còn kết hợp cả việc mua sắm và vui chơi giải trí của người dân thành thị. Bên cạnh đó, hệ thống đường xá được cải tạo và xây mới đã tạo sự tiện lợi trong di chuyển và lưu thông hàng hóa bớt đi một vấn đề cho các nhà bán lẻ khi muốn vào thị trường Việt Nam.
2.2. Khó khăn.
2.2.1. Thói quen tiêu dùng của người Việt.
Bên cạnh thế mạnh về dân số, thì thị trường Việt Nam khiến các nhà phân phối lớn phải đau đầu. Với thói quen “ Ăn một bát cháo chạy ba quãng đường”, người tiêu dùng Việt Nam chấp nhận “ đi xa để mua được hàng hóa rẻ” hơn rất ít so với các trung tâm thương mại. Hơn thế nữa, phần đông người dân của chúng ta lại có mức thu nhập thấp đến trung bình nên họ quen thuộc với hình thức mua hàng tại các cửa hàng bách hóa nhỏ lẻ, hay các chợ trời, chỉ tính đến cuối năm 2008 đã có đến 9000 chợ tồn tại, chi có 13% lượng người chấp nhận mua sắm ở các kênh phân phối hiện đại.
Hơn thế nữa, thời gian vừa qua thế giới đã chứng kiến sự sụp đổ của hàng loạt thể chế kinh tế lớn. Chính điều này đã tạo nên tâm lý lo ngại, hành động thắt chặt chi tiêu của không chỉ người dân Việt Nam mà đó là xu hướng chung của người tiêu dùng trên toàn thế giới khiến cho thị trường bán lẻ đã và đang đối mặt với nhiều khó khăn để kích thích người dân tăng tiêu dùng.
2.2.2 Sức ép mở cửa.
Tại cuộc hội thảo “Tác động của mở cửa thị trường tới mạng lưới phân phối hàng hóa của Việt Nam hậu WTO” diễn ra đầu tháng 8/2010 ở TP. Đà Nẵng, với sự giúp đỡ của Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên (MUTRAP III, do EU tài trợ), các chuyên gia cho biết: “Sau hơn một năm (kể từ 1/1/2009) mở cửa thị trường bán lẻ cho các DN 100% vốn nước ngoài hoạt động, đến thời điểm này các tập đoàn bán lẻ quốc tế đã không ồ ạt xâm nhập Việt Nam như dự đoán”.
IV.Kết luận
Sau hơn một năm (kể từ ngày 01/01/2009) Việt Nam chính thức mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ thì hệ thống phân phối bán lẻ của Việt Nam đã thực sự có những bước tiến đáng kể. Giờ đây, thị trường Việt nam không còn là sân chơi của riêng các nhà phân phối trong nước, mà nó đã trở thành thị trường của toàn cầu, là nơi mà các doanh nghiệp nước nhà phải có những nổ lực thực sự mới có thể cạnh tranh và tồn tại được. Sự tồn tại song song giữa các nhà phân phối trong nước và nước ngoài tuy là một trở ngại rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể đứng vững được trong hệ thống phân phối bán lẻ hiện nay nhưng đó cũng là một tác nhân quan trọng góp phần thúc đầy, tạo môi trường giúp các nhà phân phối của chúng ta học hỏi và phát triển một cách toàn diện nhất. Chính vì vậy mà giờ đây, người dân Việt Nam đã khá quen thuộc với những tên tuổi mang thương hiệu Việt như Saigon coorp mark, Thái Phú, hay Vinatech… Những nhà phân phối của chúng ta không những đã dần khẳng định tên tuổi của doanh nghiệp mình trên thị trường nội địa mà còn giúp đưa sản phẩm Việt Nam được biết đến rộng rải hơn ở thị trường nước ngoài. Với những xu hướng phát triển của hệ thống phân phối bán lẻ hiện nay ở nước ta, phần lớn thị trường nước ta đã bị các nhà phân phối nước ngoài khai thác và nắm giữ, và họ nhanh chóng kéo theo các nhà sản xuất của mình vào để chiếm lĩnh thị trường nước ta, điều này có ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến riêng lĩnh vực phân phối bán lẻ mà còn là nền sản xuất nội địa.
Vì thế, với những xu hướng phát triển như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng nắm bắt để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, qua đó liên kết và nắm lại chuỗi phân phối bán lẻ tránh tình trạng để rơi vào tay các nhà đầu tư nước ngoài, gây tổn hại về lâu dài cho nền kinh tế nước nhà.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: