ngocf_collections
New Member
Link tải miễn phí Luận văn: So sánh đặc điểm phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao : Luận văn ThS. Ngôn ngữ: 60 22 01
Nhà xuất bản: ĐHKHXH&NV
Ngày: 2013
Chủ đề: Ngôn ngữ học
Phong cách ngôn ngữ
Văn học
Miêu tả: 164 tr. + CD-ROM + tóm tắt
Luận văn ThS. Ngôn ngữ học -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013
Trình bày một số luận điểm cơ bản về phong cách nghệ thuật, ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, cách sử dụng một số kiểu câu (câu đặc biệt, câu tỉnh lược, câu tách biệt). Phân tích đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật (người trần thuật và điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ trần thuật), giọng điệu trần thuật và cách sử dụng một số kiểu câu (câu đặc biệt, câu tỉnh lược và câu tách biệt) trong một số truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao. Rút ra những kết luận về đặc điểm phong cách ngôn ngữ tác giả của hai nhà văn này
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
NỘI DUNG..................................................................................................... 11
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN .................................................................. 11
1.1. Vài nét tóm tắt về nhà văn Nguyễn Công Hoan và Nam Cao ........ 11
1.1.1. Hoàn cảnh xuất thân của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao .......... 11
1.1.2. Các tác phẩm trƣớc cách mạng ...................................................... 12
1.1.2.1. Các tác phẩm trƣớc cách mạng của Nguyễn Công Hoan............ 12
1.1.2.2. Các tác phẩm trƣớc cách mạng của Nam Cao ............................ 13
1.2. Khái niệm về phong cách và phong cách nghệ thuật...................... 14
1.2.1. Khái niệm về phong cách và phong cách học................................ 14
1.2.2. Phong cách chức năng ngôn ngữ và phong cách nghệ thuật............. 15
1.2.2.1. Cơ sở phân chia phong cách chức năng..................................... 15
1.2.2.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật............................................... 17
1.3. Khái niệm ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật ..................... 22
1.3.1. Khái niệm về ngƣời trần thuật và ngôi trần thuật........................... 22
1.3.2. Điểm nhìn trần thuật....................................................................... 25
1.4. Ngôn ngữ trần thuật và giọng điệu trần thuật................................. 30
1.4.1. Ngôn ngữ trần thuật........................................................................ 30
1.4.2. Giọng điệu trần thuật...................................................................... 35
1.5. Các kiểu câu giàu sắc thái.................................................................. 37
1.5.1. Câu đặc biệt.................................................................................... 37
1.5.2. Câu tỉnh lƣợc .................................................................................. 40
1.5.3. Câu dƣới bậc................................................................................... 42
Chƣơng 2: So Sánh đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật của Nguyễn
Công Hoan và Nam Cao ............................................................................... 49
2.1. Ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật ....................................... 49
2.1.1. Ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan................................................................................................ 492
2.1.1.1. Ngƣời trần thuật ngôi thứ 3 với điểm nhìn bên ngoài ............. 49
2.1.1.2. Ngƣời trần thuật ngôi thứ 3 với điểm nhìn bên trong.............. 51
2.1.1.3. Ngƣời trần thuật ngôi thứ nhất................................................. 52
2.1.2. Ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao...... 53
2.1.2.1. Ngƣời trần thuật ngôi thứ 3 với điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn
bên trong và phức hợp nhiều điểm nhìn................................................... 53
2.1.2.2. Truyện ngắn Nam Cao với chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất ... 61
2.1.3. So sánh đặc điểm ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Nam cao.......................................... 63
2.2. Ngôn ngữ trần thuật ........................................................................... 66
2.2.1. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan......... 66
2.2.2. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao.......................... 73
2.2.3. So sánh đặc điểm ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan và Nam cao ........................................................................... 77
Chƣơng 3: So Sánh đặc điểm sử dụng giọng điệu trần thuật và cách sử
dụng một số kiểu câu giàu sắc thái của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao...... 80
3.1. Giọng điệu trần thuật ......................................................................... 80
3.1.1. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan ....... 80
3.1.1.1. Giọng khách quan, lạnh lùng................................................... 80
3.1.1.2. Giọng châm biếm, đả kích sâu cay .......................................... 83
3.1.1.3. Giọng bông lơn, suồng sã pha chút hóm hỉnh ......................... 86
3.1.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao........................ 89
3.1.2.1. Truyện ngắn Nam Cao với giọng văn tự sự triết lý, suy ngẫm,
phẩm bình................................................................................................. 89
3.1.2.2. Truyện ngắn Nam Cao với giọng văn tự sự lạnh lùng, dửng dƣng... 91
3.1.2.3. Truyện ngắn Nam Cao với giọng văn giễu nhại, châm biếm, hài hƣớc..... 93
3.1.3. So sánh giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan và Nam Cao .................................................................................... 97
3.2. Đặc điểm sử dụng một số kiểu câu (câu đặc biệt, câu tỉnh lƣợc, câu tách biệt)... 100
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
3.2.1. Đặc điểm sử dụng một số kiểu câu của Nguyễn Công Hoan....... 100
3.2.1.1. Đặc điểm sử dụng câu đặc biệt .............................................. 100
3.2.1.2. Đặc điểm sử dụng câu tỉnh lƣợc ............................................ 102
3.2.1.3. Đặc điểm sử dụng câu tách biệt (câu dƣới bậc)..................... 105
3.2.2. Đặc điểm sử dụng một số kiểu câu của Nam Cao ...................... 107
3.2.2.1. Đặc điểm sử dụng câu đặc biệt .............................................. 107
3.2.2.2. Đặc điểm sử dụng kiểu câu tỉnh lƣợc .................................... 108
3.2.2.3. Đặc điểm sử dụng kiểu câu tách biệt (câu dƣới bậc)............. 111
3.2.3. Nhận xét đặc điểm sử dụng một số kiểu câu của Nguyễn Công
Hoan và Nam Cao .................................................................................. 112
KẾT LUẬN .................................................................................................. 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 117
PHỤ LỤC..................................................................................................... 1244
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong dòng văn học Hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945, Nam Cao và Nguyễn Công Hoan là hai gƣơng mặt tiêu biểu, hai đại
diện ƣu tú. Giữa lúc làng thơ văn Việt Nam đang đua nhau chạy theo thị hiếu
tầm thƣờng của độc giả, đắm chìm trong những câu chuyện tình lãng mạn thì
Nguyễn Công Hoan và Nam Cao cũng nhƣ một số cây bút khác đã chọn cho
mình một hƣớng đi riêng, đem đến cho văn chƣơng đƣơng thời một tiếng nói
mới mẻ, mạnh mẽ về hiện thực đời thƣờng nhƣ nó vốn có mà không hề tô vẽ.
Có thể nói, Nguyễn Công Hoan là một trong những gƣơng mặt mở đầu
và cũng là nhà văn ƣu tú của trào lƣu văn học Hiện thực phê phán. Nói đến
Nguyễn Công Hoan là nói đến một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai,
một tài năng xuất chúng. Hơn nửa thế kỉ cầm bút, ông đã để lại một khối
lƣợng tác phẩm đồ sộ, đa dạng về thể loại, độc đáo về nội dung tƣ tƣởng trong
đó truyện ngắn đƣợc coi là lĩnh vực nổi bật nhất, đặc biệt là truyện ngắn trào
phúng. Có thể so sánh Nguyễn Công Hoan với những nhà văn viết truyện
ngắn trào phúng bậc thầy nhƣ Guy-dơ Môpatxăng và A.Sêkhôp. Những
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có sức hấp dẫn đặc biệt với nhiều thế hệ
và nó vẫn là những “vỉa vàng” đang đƣợc tiếp tục khai phá.
Trong trào lƣu văn học Hiện thực phê phán, Nam Cao là ngƣời đến khá
muộn khi mà Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... đã tạo
dựng đƣợc vị trí, chỗ đứng vững chắc với những tác phẩm xuất sắc. Tuy
nhiên, Nam Cao không bị mờ nhạt bởi những bóng dáng lớn mà ông vẫn
khẳng định đƣợc vị trí của mình, góp phần đƣa trào lƣu văn học Hiện thực
phê phán phát triển tới đỉnh cao. Với 15 năm cầm bút, Nam Cao đã để lại một
số lƣợng tác phẩm lớn mà đặc sắc là truyện ngắn. Truyện ngắn của Nam Cao
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi5
giàu có về tƣ tƣởng, sâu sắc về nghệ thuật và đƣợc độc giả bao đời yêu mến.
Đƣơng thời, ngƣời ta không chú ý nhiều đến tác phẩm của ông nhƣng từ sau
khi Nam Cao hi sinh, những giá trị tác phẩm của ông mới đƣợc quan tâm,
nghiên cứu một cách sâu sắc.
1.2. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao đã đƣợc đƣa vào
chƣơng trình giảng dạy trong nhà trƣờng từ bậc phổ thông đến đại học. Khảo
sát ở bậc học phổ thông, cụ thể là THCS và THPT, chúng tui thấy có các tác
phẩm nhƣ sau: truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan gồm Tinh thần thể dục –
Ngữ văn 11; truyện ngắn của Nam Cao gồm Lão Hạc – Ngữ văn 8; Chí Phèo
– Ngữ văn 11. Khi giảng dạy văn bản văn học cho học sinh, việc làm rõ đặc
điểm về phong cách ngôn ngữ tác giả là một yêu cầu rất cần đƣợc chú ý vì nó
liên quan đến việc phân tích giá trị nghệ thuật của tác phẩm và sự đóng góp
của nhà văn đối với việc hiện đại hóa văn học.
1.3. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan và
Nam Cao ở các phƣơng diện khác nhau song vẫn chƣa có công trình nghiên
cứu toàn diện, hệ thống về cả hai nhà văn trong cái nhìn tƣơng quan so sánh
về đặc điểm phong cách ngôn ngữ. Đây cũng là ý nghĩa mới mẻ mà đề tài của
chúng tui mong muốn thực hiện.
Là một giáo viên THPT giảng dạy bộ môn Ngữ văn, chúng tui muốn
thực hiện đề tài “So sánh đặc điểm phong cách ngôn ngữ của nhà văn
Nguyễn Công Hoan và Nam Cao” nhằm phục vụ trực tiếp cho công tác
giảng dạy tác giả và tác phẩm văn học trong nhà trƣờng.
2. Lịch sử vấn đề
Có thể nói, Nguyễn Công Hoan và Nam Cao là những nhà văn của thế
kỉ XX đƣợc nhiều ngƣời nghiên cứu nhất.6
2.1. Vấn đề nghiên cứu Nguyễn Công Hoan
Ngay sau khi những truyện ngắn đầu tiên ra đời, Nguyễn Công Hoan đã
đƣợc giới nghiên cứu phê bình chú ý. Có rất nhiều bài nhận xét, đánh giá về
văn chƣơng của Nguyễn Công Hoan. Có thể kể đến những tác giả sau:
Các công trình nghiên cứu đầu tiên về Nguyễn Công Hoan phải kể đến
Trúc Hà với bài Một ngòi bút mới: ông Nguyễn Công Hoan đăng trên báo
Nam Phong năm 1932. Trúc Hà đã tỏ ra khá tinh tế khi nhận ra giọng văn mới
mẻ pha chất hài hƣớc của Nguyễn Công Hoan.
Ngay sau đó, Hải Triều đã sắc sảo phát hiện ra ý nghĩa và tác dụng xã
hội của tiếng cƣời trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cũng cho rằng Nguyễn Công
Hoan sở trƣờng về truyện ngắn hơn truyện dài. Còn Nguyễn Đăng Mạnh đã ra
nhận định chính xác và sâu sắc về tiếng cƣời Nguyễn Công Hoan trong truyện
ngắn trào phúng.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung trong lời giới thiệu truyện ngắn
Việt Nam 1930 - 1945, tập 1, NXB Giáo dục, H., 1990 khẳng định: Nguyễn
Công Hoan là một bậc thầy trong truyện ngắn trƣớc hết là truyện ngắn trào
phúng.
Nói về phong cách ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, có thể kể
đến Lê Trí Dũng – Trần Đình Hựu trong Văn học Việt Nam giai đoạn giao
thời 1900 – 1930; Lê Minh – con gái của nhà văn – với bài “Sức trẻ một cây
bút”.
Nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan nhiều nhất phải kể đến Lê Thị Đức
Hạnh. Bà có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết sâu sắc về Nguyễn Công
Hoan với những khám phá ở khía cạnh nghệ thuật cũng nhƣ phong cách ngôn
ngữ truyện ngắn.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
2.2. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao
Nam Cao là một tài năng lớn của văn học Việt Nam hiện đại, vì thế, số
lƣợng tài liệu nghiên cứu về Nam Cao là rất lớn (theo thống kê của các nhà
nghiên cứu thì có khoảng hơn 200 tài liệu khác nhau).
Trƣớc cách mạng tháng 8 – 1945, Nam Cao chƣa đƣợc chú ý trong giới
nghiên cứu phê bình. Nhƣng sau cách mạng, Nam Cao trở thành một hiện
tƣợng của giới phê bình văn học. Ngƣời đầu tiên chú ý đến sự sắc sảo trong
văn phong của Nam Cao là Nguyễn Đình Thi trong bài Nam Cao viết vào
những năm 50.
Bƣớc sang những năm 60, nhiều công trình có giá trị về Nam Cao ra đời.
Có thể kể đến Đọc truyện ngắn Nam Cao, soi lại bước đường đi lên của một
nhà văn hiện thực; Con người và cuộc sống trong tác phẩm của Nam Cao
của Huệ Chi – Phong Lê; Phan Cự Đệ trong Văn học Việt Nam 1936 – 1945
Sau đó là Hà Minh Đức trong Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc.
Bƣớc sang những năm 70, nhiều công trình về Nam Cao ra đời nhƣ giáo
trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945 của Nguyễn Hoành Khung,
trong đó có một chƣơng viết về Nam Cao; Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của
Phan Cự Đệ. Những cuốn nổi bật có thể kể Nam Cao đời văn và tác phẩm
(Hà Minh Đức, 1977); Nam Cao, phác thảo sự nghiệp và dáng (Phong
Lê, 1997); Nam Cao, người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực
(Phong Lê, 2001)...
Những năm gần đây, có khá nhiều công trình nghiên cứu, luận án tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ nghiên cứu về Nam Cao. Bên cạnh đó hàng loạt các hội thảo
về Nam Cao đƣợc tổ chức. Có thể kể những cuộc hội thảo khoa học tiêu biểu
nhân 40 năm ngày mất của Nam Cao 1951 – 1991 (tháng 11/ 1991) và nhân8
80 năm ngày sinh của Nam Cao 1917 – 1997 (tháng 10/ 1997)…Những buổi
hội thảo khoa học tôn vinh nhà văn Nam Cao càng chứng tỏ vị trí và vai trò
của ông trong làng văn học Việt Nam hiện đại và trong lòng tất cả những
ngƣời yêu mến tác phẩm của ông.
2.3. Cho đến ngày nay, số lƣợng các công trình, các bài nghiên cứu về
tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao quả là không nhỏ. Tuy nhiên,
các công trình, bài nghiên cứu thƣờng tập trung vào vấn đề phê bình tác phẩm
văn học. Chƣa có nhiều bài viết về đặc điểm phong cách của hai tác giả và
đặc biệt là chƣa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ đặc điểm phong cách
ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao trong tƣơng quan đối chiếu.
Vì vậy, chúng tui thực hiện đề tài này nhằm tìm hiểu một cách đầy đủ về
những điểm tƣơng đồng và khác biệt trong đặc điểm phong cách ngôn ngữ
của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, ngƣời viết nhằm:
- Làm rõ những đặc điểm nổi bật về phong cách ngôn ngữ của Nguyễn
Công Hoan và Nam Cao trên các phƣơng diện: ngƣời trần thuật và điểm nhìn
trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, cách sử dụng một số
kiểu câu giàu phong cách. Đây là các phƣơng diện có liên quan trực tiếp đến
phong cách ngôn ngữ của nhà văn.
- So sánh để rút ra những đặc điểm giống và khác nhau về phong cách
ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao cũng nhƣ làm rõ những đóng
góp của hai nhà văn đối với sự hiện đại hóa nền văn học.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu nhƣ trên, ngƣời viết xác định nhiệm
vụ cho luận văn nhƣ sau:
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
- Trình bày một số luận điểm cơ bản về phong cách nghệ thuật, ngôn
ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, cách sử dụng một số kiểu câu (câu đặc
biệt, câu tỉnh lƣợc, câu tách biệt).
- Phân tích đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật (ngƣời trần thuật và
điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ trần thuật), giọng điệu trần thuật và cách sử
dụng một số kiểu câu (câu đặc biệt, câu tỉnh lƣợc và câu tách biệt) trong một
số truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao.
- Rút ra những kết luận về đặc điểm phong cách ngôn ngữ tác giả của
hai nhà văn này.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan và Nam Cao trƣớc cách mạng tháng 8 – 1945. Trong đó, chúng tui tập
trung làm rõ những đặc điểm thể hiện phong cách ngôn ngữ của hai tác giả.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn gồm các truyện ngắn in trong Tuyển
tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (NXB thời đại, 2010), tuyển tập truyện
ngắn Nam Cao ( Nxb Văn học, năm 2000)
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, ngƣời viết sử dụng các phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp miêu tả
- Phƣơng pháp phân tích phong cách học
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp cải biến10
7. Ý nghĩa khoa học của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận: Đề tài này thực hiện thành công sẽ góp phần tích
cực vào lí luận nghiên cứu phong cách nhà văn Hiện thực phê phán nói chung
và phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao nói riêng dƣới
cách nhìn của ngôn ngữ học.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ trực tiếp góp
phần nâng cao chất lƣợng giảng dạy về hai tác giả Nguyễn Công Hoan và
Nam Cao đồng thời góp phẩn đổi mới phƣơng pháp giảng dạy môn văn học
trong nhà trƣờng phổ thông.
8. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm ba phần:
+ Phần mở đầu.
+ Phần nội dung.
+ Phần kết luận.
Trong đó phần nội dung chia thành 03 chƣơng.
+ Chƣơng 1: Cơ sở lí luận .
+ Chƣơng 2: So sánh đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật của
Nguyễn Công Hoan và Nam Cao.
+ Chƣơng 3: So sánh đặc điểm sử dụng giọng điệu trần thuật và một số
kiểu câu của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Vài nét tóm tắt về nhà văn Nguyễn Công Hoan và Nam Cao
1.1.1. Hoàn cảnh xuất thân của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao
Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 tại làng Xuân Cầu,
huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc tỉnh Hƣng Yên) trong một gia
đình quan lại sa sút và bất mãn với chế độ thực dân. Gia đình Nguyễn Công
Hoan có nhiều đời học hành, đỗ đạt và làm quan. Nhƣng đến thời cụ thân sinh
của ông, mặc dù thi đỗ nhƣng chỉ đƣợc làm chức quan nhỏ do không biết
tiếng Pháp, không có những mánh khóe giao thiệp kiểu mới. Đó là bi kịch của
những quan “nhà nho” lỗi thời với nhiều bi kịch và tâm sự khó nói.
Sinh ra và lớn lên ở nhà quan nên ngay từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã
nghe và thấy đủ mọi chuyện của chốn quan trƣờng. Đó là những chuyện ăn
hối lộ của quan lại, thủ đoạn nịnh nọt, bỉ ổi để tiến thân... Tất cả những điều
đó sau này Nguyễn Công Hoan đã phản ánh sinh động trong các truyện ngắn
của mình.
Tốt nghiệp trƣờng Sƣ phạm, Nguyễn Công Hoan đi dạy học và viết
văn. Ông bị chuyển hết nơi này đến nơi khác nhƣ Hải Dƣơng, Lào Cai, Nam
Định... Chính vì đi nhiều nên Nguyễn Công Hoan có điều kiện thực tế nghe
đƣợc nhiều chuyện đời, chuyện ngƣời. Điều này cũng rất hữu ích đối với nghề
viết văn của ông.
Khác với Nguyễn Công Hoan, Nam Cao (tên thật là Trần Hữu Tri),
sinh ngày 29 – 10 – 1915 trong một gia đình trung nông đông anh em tại làng
Đại Hoàng thuộc tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam
(nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Bút danh Nam Cao là do
ghép hai chữ đầu tên huyện và tổng mà thành. Làng Đại Hoàng của Nam Cao12
vốn là nơi có nhiều vấn đề mâu thuẫn, tranh chức tranh quyền của bọn cƣờng
hào địa chủ ác bá, nhiều ngƣời dân không thể sống đƣợc đã phải bỏ đi tha
phƣơng cầu thực. Điều này đã đƣợc Nam Cao phản ánh chân thực trong một
số tác phẩm đặc biệt là trong Chí Phèo.
Nhƣ vậy, Nguyễn Công Hoan và Nam Cao sinh trƣởng trong hai gia
đình có hoàn cảnh khác nhau. Nếu Nguyễn Công Hoan xuất thân trong gia
đình có truyền thống quan lại, từ nhỏ đã hiểu chuyện quan trƣờng thì Nam
Cao lại xuất thân từ một gia đình nông dân cùng kiệt với cuộc sống thuần túy ở
nông thôn. Tuy nhiên, cả hai nhà văn lớn đều sinh ra trong hoàn cảnh xã hội
giao thời Tây – Tàu nhố nhăng, nhiều vấn đề phức tạp. Với cái nhìn sâu sắc
và cảm quan nhạy bén, cả hai đã dùng văn chƣơng để phanh phui hiện thực xã
hội đƣơng thời.
1.1.2. Các tác phẩm trƣớc cách mạng
1.1.2.1. Các tác phẩm trƣớc cách mạng của Nguyễn Công Hoan
Có thể nói, Nguyễn Công Hoan là một trong những ngƣời đi tiên phong
đặt nền móng cho văn học Hiện thực phê phán. Nguyễn Công Hoan bắt đầu
viết truyện ngắn từ rất sớm khi mà văn xuôi quốc ngữ còn chập chững ở cái
buổi bình minh. Ông bắt đầu viết vào năm 1923 với tập truyện Kiếp hồng
nhan có tính chất thử bút. Đến năm 1929, Nguyễn Công Hoan thực sự viết,
ông có nhiều truyện ngắn đăng trên An Nam tạp chí do Tản Đà chủ biên. Cho
đến năm 1935, ông đã cho ra mắt bạn đọc khoảng 80 truyện ngắn và đặc biệt,
tập truyện Kép Tư Bền xuất bản đã gây đƣợc tiếng vang lớn, đƣa tên tuổi
Nguyễn Công Hoan vang khắp Bắc, Trung, Nam. Nguyễn Công Hoan đã nhìn
thẳng vào hiện thực và bằng tiếng cƣời trào phúng phơi ra mặt trái của xã hội
với đầy bất công thối nát. Với Kép Tư Bền, Nguyễn Công Hoan vừa là một
trong những ngƣời mở màn vừa là ngƣời cầm ngọn cờ chiến thắng cho
khuynh hƣớng văn học hiện thực phê phán Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi13
Nguyễn Công Hoan xứng đáng là một nhà văn lớn, nhà văn tiêu biểu
của nền văn học Hiện thực phê phán Việt Nam. Cho đến nay, gần một thế kỉ
trôi qua nhƣng những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan vẫn giữ đƣợc vị trí
quan trọng trong nền văn học dân tộc, đƣợc bạn đọc bao thế hệ yêu thích.
Không những thế, tác phẩm của ông còn đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng nƣớc
ngoài nhƣ Liên Xô, Bungari, Hunggari, Anbani, Cộng hòa dân chủ Đức,
Cuba, Ba Lan, Ấn Độ...
1.1.2.2. Các tác phẩm trƣớc cách mạng của Nam Cao
Từ năm 1936, Nam Cao bắt đầu sáng tác. Ông viết văn, làm thơ, viết
kịch với các bút danh Thúy Rƣ, Xuân Du, Nhiêu Khê. Năm 1938, Nam Cao
bị ốm nặng, ông ra Bắc tự học và thi đỗ Thành chung. Sau đó ông dạy học tƣ
và viết nhiều truyện ngắn đặc sắc nhƣ: Đôi lứa xứng đôi (Chí Phèo), Dì Hảo,
Nửa đêm, Cái mặt không chơi được, Trẻ con không được ăn thịt chó,
Trăng sáng...
Cách mạng tháng 8, Nam Cao tham gia cƣớp chính quyền rồi tham gia
đoàn quân Nam tiến với tƣ cách là phóng viên. Sau đó, Nam Cao trở ra Bắc
tiếp tục hoạt động cách mạng và sáng tác nhiều tác phẩm ở các thể loại khác
nhau. Ngày 30 – 11- 1951, trên đƣờng vào công tác vùng địch hậu Liên khu
Ba, Nam Cao đã anh dũng hi sinh ở Ninh Bình do bị địch phục kích.
Nam Cao bƣớc chân vào con đƣờng văn chƣơng khi trên văn đàn đặc
biệt là trong dòng văn học Hiện thực phê phán đã xuất hiện nhiều cây đại thụ
nhƣ Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng... Thế
nhƣng trên mảnh đất đã đƣợc cày xới kỹ càng đó, Nam Cao không bị chìm lấp
trong những lối mòn mà ông vẫn tìm đƣợc cho mình một hƣớng đi riêng
không lẫn với bất cứ ai. Những tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh chân thật
cuộc sống ngột ngạt, đen tối của xã hội Việt Nam những năm trƣớc cách
mạng và dựng lên cuộc sống đau khổ, bế tắc của những ngƣời nông dân, trí14
thức nghèo. Trong truyện ngắn Nam Cao, nổi lên hai đề tài chính là đề tài
ngƣời nông dân và ngƣời trí thức nghèo. Nam Cao hƣớng ngòi bút của mình
vào miêu tả cuộc sống khốn khổ, bi kịch không chỉ đói cùng kiệt mà còn bị tha
hóa về lƣơng tâm của ngƣời nông dân đồng thời dựng lên những bi kịch về
đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản.
Nhƣ vậy, nếu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan tập trung xây dựng
những bức dáng biếm họa về tầng lớp quan lại, địa chủ, cƣờng hào xấu
xa, độc ác... thì Nam Cao lại hƣớng ngòi bút của mình để tìm hiểu bi kịch bị
tha hóa cả thể xác và tâm hồn của ngƣời nông dân cũng nhƣ ngƣời trí thức
nghèo.
Nam Cao là một trong những nhà văn góp phần hiện đại hóa văn xuôi
quốc ngữ trên tiến trình văn học. Và cũng giống nhƣ Shêkhôp (Nga), Nam
Cao là thay mặt cuối cùng, ngƣời khép lại dòng văn học Hiện thực phê phán
Việt Nam và là ngƣời mở đƣờng mới cho sự phát triển của nó. Cũng nhƣ
Nguyễn Công Hoan, các sáng tác của Nam Cao không chỉ có giá trị ở trong
nƣớc mà còn vƣợt qua biên giới lãnh thổ để đến với bạn đọc quốc tế.
1.2. Khái niệm về phong cách và phong cách nghệ thuật
1.2.1. Khái niệm về phong cách và phong cách học
Thuật ngữ phong cách bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, lúc đầu có tên là
“stylos” – chỉ cái que có một đầu vót nhọn và một đầu tù dùng để viết, vẽ lên
tấm bảng. Về sau, nó đƣợc dùng để chỉ cách sử dụng ngôn ngữ và ngày nay,
thuật ngữ phong cách đƣợc sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu nhiều ngành
khác nhau.
Phong cách không hoàn toàn là thuật ngữ của phong cách học. Trong
đời sống hàng ngày, phong cách là cách nói, cách sinh hoạt, làm việc, ứng
xử... tạo nên cái riêng của mỗi ngƣời hay mỗi loại ngƣời nhƣ phong cách ăn
mặc, phong cách nói, phong cách viết... Trong lí luận văn học, thuật ngữ
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi15
phong cách đƣợc dùng để chỉ đặc điểm sáng tác riêng biệt, nổi trội của mỗi
nhà văn hay tác phẩm... Trong văn hóa, phong cách đƣợc dùng để chỉ những
đặc điểm văn hóa mang tính dân tộc, thời đại nhƣ phong cách truyền thống,
phong cách dân tộc...
Nhƣ vậy, thuật ngữ phong cách học “thực chất là phong cách học ngôn
ngữ. Đó là bộ môn khoa học nghiên cứu những đặc điểm và phong cách sử
dụng ngôn ngữ trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.” [16, tr.33].
Trong những nét chung nhất, “phong cách học được hiểu là khoa học
nghiên cứu sự vận dụng ngôn ngữ, nói khác đi đó là khoa học về các quy luật
nói và viết có hiệu lực cao.” [16, tr.7]. Phong cách học quan tâm đến giá trị
biểu đạt, biểu cảm – cảm xúc, cái giá trị phong cách của các phƣơng tiện ngôn
ngữ trong những hoàn cảnh giao tiếp tiêu biểu với những điều kiện giao tiếp
nhất định.
1.2.2. Phong cách chức năng ngôn ngữ và phong cách nghệ thuật
1.2.2.1. Cơ sở phân chia phong cách chức năng
Phong cách ngôn ngữ đƣợc hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử.
Phong cách ứng với mỗi chức năng xã hội của ngôn ngữ gọi là phong cách
chức năng. Mỗi cá nhân khi nói, khi viết đều theo một phong cách chức năng
nhất định. Có nhiều khuynh hƣớng bàn về cách phân chia phong cách chức năng
song chủ yếu dựa vào các cơ sở chung nhƣ sau:
a. Dựa trên chức năng giao tiếp
Một số tác giả nƣớc ngoài và trong nƣớc đã dựa vào chức năng giao tiếp của
ngôn ngữ để phân chia các phong cách chức năng:
- Phong cách khẩu ngữ tự do: thông báo những nội dung thông thƣờng thuộc
phạm vi sinh hoạt hàng ngày.16
- Phong cách nghệ thuật: thông báo về sự vật, hiện tƣợng dƣới dạng hình
tƣợng nghệ thuật.
b. Dựa trên hình thức thể hiện
Dựa trên hình thức thể hiện khác nhau để diễn đạt nội dung tƣ tƣởng, tình
cảm (hình thức nói hay viết), các nhà nghiên cứu phân chia phong cách chức
năng thành hai loại là phong cách khẩu ngữ và phong cách gọt giũa.
c. Dựa vào phạm vi giao tiếp
Dựa vào phạm vi giao tiếp khác nhau, một số tác giả chia tách thành phạm vi
giao tiếp gia đình và phạm vi giao tiếp mang tính chất xã hội.
Nhƣ vậy, có điểm chung trong các cách phân chia trên đó là phân chia theo
bậc, từ bậc lớn lại tách thành các bậc nhỏ hơn.
Có thể phân loại các phong cách chức năng trong tiếng Việt thành 2 loại lớn:
phong cách ngôn ngữ nói và phong cách ngôn ngữ viết. Trong đó:
- Phong cách ngôn ngữ nói bao gồm: phong cách khẩu ngữ tự nhiên, phong
cách hội thảo, phong cách diễn xuất sân khấu, điện ảnh.
- Phong cách ngôn ngữ viết bao gồm: Phong cách hành chính – công vụ,
phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong cách báo chí, phong cách
văn học nghệ thuật.
Nhắc tới khái niệm phong cách là nhắc tới những nét đặc trƣng, riêng biệt,
tiêu biểu nhất. Phong cách ngôn ngữ là “một phong cách chức năng cụ thể trong
đó cách sử dụng ngôn ngữ đã được định hình về mặt thời gian và mặt xã hội.
Thực chất nó đã trải qua một quá trình tự điều chỉnh của bản thân hệ thống và
có sự can thiệp ở một mức độ nhất định của những thiết chế xã hội.” [16, tr.41].
Có thể coi phong cách ngôn ngữ là sự lặp đi lặp lại một số kiểu lời nói để
tạo thành các khuôn mẫu nhất định trong từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi17
1.2.2.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Trong các phong cách chức năng của ngôn ngữ thì đây là phong cách có
nhiều tên gọi nhất: phong cách ngôn ngữ văn chƣơng, phong cách ngôn ngữ văn
học, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách văn học nghệ thuật. Đối với
một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ thì phong cách ngôn ngữ nghệ thuật không
đƣợc xếp vào hệ thống các phong cách chức năng.
Tuy nhiên, theo Hữu Đạt: “các tác phẩm văn học nghệ thuật là hình thức
bảo lưu tương đối đầy đủ nhất diện mạo ngôn ngữ ở mỗi thời đại. Không ai có
thể phủ nhận đó là hình thức tồn tại có thực của hoạt động giao tiếp. Vậy đương
nhiên, nó phải tồn tại với tư cách là một kiểu phong cách riêng hay thuộc vào
loại phong cách chức năng nhất định” [16, tr.276]. Nhƣ vậy, có thể khẳng định
phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là một loại phong cách chức năng của ngôn
ngữ và đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “Phong cách nghệ thuật là một phong cách
chức năng được dùng để sáng tạo hình tượng nghệ thuật và tác phẩm nghệ thuật
nhằm phục vụ cho nhu cầu về đời sống tinh thần của con người” [16, tr.276].
So với các phong cách chức năng khác, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
có những đặc trƣng riêng biệt. Trƣớc hết, các đơn vị ngôn ngữ trong phong cách
ngôn ngữ nghệ thuật có chức năng tác động hình tƣợng tức là có khả năng đem
lại cho ngƣời đọc những tình cảm, những rung động về cảm xúc nhƣ vui – buồn
, yêu thƣơng – căm ghét, hạnh phúc – đau khổ... Với các phong cách khác nhƣ
phong cách báo chí hay phong cách chính luận, chức năng tác động đến tình cảm
ngƣời đọc chỉ là hệ quả thứ hai của quá trình còn trong phong cách nghệ thuật,
chức năng này giữ vai trò đầu tiên.
Ví dụ: Trong Chinh Phụ ngâm khúc nguyên tác Đặng Trần Côn – bản
dịch của Đoàn Thị Điểm – câu thơ:
“Cảnh buồn ngƣời thiết tha lòng
Cành cây sƣơng đƣợm tiếng trùng mƣa phun”18
gợi cho ngƣời đọc nỗi buồn về tình cảnh cô đơn, lẻ loi của ngƣời chinh phụ có
chồng đi chinh chiến đồng thời cũng gợi lên trong lòng độc giả sự oán ghét chiến
tranh phong kiến phi nghĩa – nguyên nhân dẫn đến sự chia lìa của đôi vợ chồng
trẻ.
Hay khi đọc những câu thơ Nguyễn Du tả cảnh thiên nhiên mùa xuân tƣơi
đẹp trong Truyện Kiều:
“Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”
ngƣời đọc lại rung lên tình yêu đối với vẻ đẹp của đất trời, thấy trong lòng rộn
ràng, náo nức nhƣ đƣợc sống trong không khí của ngày xuân.
Chính nhờ khả năng tác động mạnh mẽ tới tình cảm của độc giả mà
phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có sắc thái riêng, độc đáo so với các phong
cách chức năng khác.
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật còn khác các phong cách chức năng
khác ở chỗ nó có khả năng tác động đến ngƣời đọc qua hệ thống các đơn vị
mang tính hình tƣợng. Những đơn vị ngôn ngữ khi sử dụng trong phong cách
ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ có chức năng thông tin thuần túy mà nó còn có
khả năng gợi những liên tƣởng sâu xa trong lòng ngƣời đọc. Đó là điểm gặp gỡ
giữa nhà văn và độc giả.
Trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ tác động đến ngƣời đọc
qua một hệ thống các đơn vị ngôn ngữ mang tính hình tƣợng. Theo Hữu Đạt
“khi các đơn vị ngôn ngữ tham gia với tư cách là các tham tố tạo nên hình tượng
nghệ thuật, tự nó đã làm mờ nhạt đi tính bản thể của tín hiệu ngôn ngữ để tạo
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi19
nên một loại nghĩa mới ngoài bản thể hay là “siêu tín hiệu”” [16, tr.285]. Từ đó,
ngƣời đọc tìm hiểu văn bản nghệ thuật phải bằng cách lí giải các tín hiệu ngôn
ngữ thông qua thao tác tƣ duy trừu tƣợng. Một từ trong ngôn ngữ nghệ thuật
khác với từ trong các phong cách chức năng khác, nó không chỉ đƣợc hiểu theo
nghĩa 1/1 (cái biểu đạt/cái đƣợc biểu đạt) mà một tín hiệu ngôn ngữ có thể đƣợc
hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Ví dụ, trong bài thơ Bánh trôi nước, Hồ Xuân Hƣơng đã mƣợn hình
tƣợng chiếc bánh trôi nƣớc để nói về ngƣời phụ nữ:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nƣớc non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ lặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
nên giọng điệu khách quan, lạnh lùng ở ngƣời kể chuyện. Trong truyện ngắn
Nam Cao, xuất hiện nhiều kiểu chết của nhân vật. Trong đó, cái chết no của
bà cụ là một cái chết thảm thƣơng. Chứng kiến bà lão “chết no”, chủ thể trần
thuật kể lại: “Rồi bà chết. Bà phó Thụ nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà
dùng ngay cái chết ấy làm bài học dạy lũ con gái, con nuôi”. Ngƣời kể đã
đứng về phía điểm nhìn của bà phó Thụ để trần thuật, đứng về phía điểm nhìn
của một con ngƣời tàn nhẫn và vô tâm là bà phó Thụ, ngƣời kể chuyện cố tỏ
vẻ dửng dƣng, vô cảm. Nhƣng chính sự tạo đồng tình “giả” này, chủ thể trần
thuật đã bộc lộ đƣợc một tiếng nói phê phán gay gắt về sự thờ ơ của con
ngƣời trƣớc đồng loại. Ngƣời ta có thể vì bản thân mà quên đi đồng loại của
mình đang quằn quại chết dần đi.
Sự lạnh lùng trong lời văn của ngƣời kể chuyện còn bộc lộ ở cách đặt
danh xƣng cho nhân vật. Những cách gọi nhƣ: y, thị, hắn, bọn, thằng, chúng
nó…xuất hiện rất thƣờng xuyên trong truyện ngắn của Nam Cao. Gọi nhân
vật bằng các đại từ chỉ thị ngôi thứ ba số ít, Nam Cao đã thể hiện một cái
nhìn, một giọng điệu rất khách quan. Chẳng hạn: “thằng này rất ngạc nhiên.
Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt…” (Chí Phèo); “Y gầm lên.
Y xốc váy lên trên đầu gối. Y giậm chân bồ bồ. Rồi y lại buông váy xuống…”
(Những chuyện không muốn viết); “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một
cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua” (Chí Phèo)…
Trong truyện ngắn Nam Cao, ta còn bắt gặp giọng văn lạnh lùng ở
giọng của chính nhân vật. Giọng văn lạnh lùng trong lời của nhân vật có khi
thể hiện đúng vẻ lạnh lùng, tàn nhẫn, độc ác từ trong bản chất nhƣ lời của bà
Huyên: “- Đi vắng! Đi vắng mãi! Mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai không
trả tiền tao thì tao đào mả lên đấy. Cái giống chỉ biết ăn không” (Nghèo), có
khi lại bắt gặp ở kiểu lời văn bề ngoài tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn nhƣng ẩn chứa
bên trong là biết bao sự đau đớn, thƣơng yêu. Trong lời mắng chửi khá lạnh
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Nhà xuất bản: ĐHKHXH&NV
Ngày: 2013
Chủ đề: Ngôn ngữ học
Phong cách ngôn ngữ
Văn học
Miêu tả: 164 tr. + CD-ROM + tóm tắt
Luận văn ThS. Ngôn ngữ học -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013
Trình bày một số luận điểm cơ bản về phong cách nghệ thuật, ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, cách sử dụng một số kiểu câu (câu đặc biệt, câu tỉnh lược, câu tách biệt). Phân tích đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật (người trần thuật và điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ trần thuật), giọng điệu trần thuật và cách sử dụng một số kiểu câu (câu đặc biệt, câu tỉnh lược và câu tách biệt) trong một số truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao. Rút ra những kết luận về đặc điểm phong cách ngôn ngữ tác giả của hai nhà văn này
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
NỘI DUNG..................................................................................................... 11
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN .................................................................. 11
1.1. Vài nét tóm tắt về nhà văn Nguyễn Công Hoan và Nam Cao ........ 11
1.1.1. Hoàn cảnh xuất thân của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao .......... 11
1.1.2. Các tác phẩm trƣớc cách mạng ...................................................... 12
1.1.2.1. Các tác phẩm trƣớc cách mạng của Nguyễn Công Hoan............ 12
1.1.2.2. Các tác phẩm trƣớc cách mạng của Nam Cao ............................ 13
1.2. Khái niệm về phong cách và phong cách nghệ thuật...................... 14
1.2.1. Khái niệm về phong cách và phong cách học................................ 14
1.2.2. Phong cách chức năng ngôn ngữ và phong cách nghệ thuật............. 15
1.2.2.1. Cơ sở phân chia phong cách chức năng..................................... 15
1.2.2.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật............................................... 17
1.3. Khái niệm ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật ..................... 22
1.3.1. Khái niệm về ngƣời trần thuật và ngôi trần thuật........................... 22
1.3.2. Điểm nhìn trần thuật....................................................................... 25
1.4. Ngôn ngữ trần thuật và giọng điệu trần thuật................................. 30
1.4.1. Ngôn ngữ trần thuật........................................................................ 30
1.4.2. Giọng điệu trần thuật...................................................................... 35
1.5. Các kiểu câu giàu sắc thái.................................................................. 37
1.5.1. Câu đặc biệt.................................................................................... 37
1.5.2. Câu tỉnh lƣợc .................................................................................. 40
1.5.3. Câu dƣới bậc................................................................................... 42
Chƣơng 2: So Sánh đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật của Nguyễn
Công Hoan và Nam Cao ............................................................................... 49
2.1. Ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật ....................................... 49
2.1.1. Ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan................................................................................................ 492
2.1.1.1. Ngƣời trần thuật ngôi thứ 3 với điểm nhìn bên ngoài ............. 49
2.1.1.2. Ngƣời trần thuật ngôi thứ 3 với điểm nhìn bên trong.............. 51
2.1.1.3. Ngƣời trần thuật ngôi thứ nhất................................................. 52
2.1.2. Ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao...... 53
2.1.2.1. Ngƣời trần thuật ngôi thứ 3 với điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn
bên trong và phức hợp nhiều điểm nhìn................................................... 53
2.1.2.2. Truyện ngắn Nam Cao với chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất ... 61
2.1.3. So sánh đặc điểm ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Nam cao.......................................... 63
2.2. Ngôn ngữ trần thuật ........................................................................... 66
2.2.1. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan......... 66
2.2.2. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao.......................... 73
2.2.3. So sánh đặc điểm ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan và Nam cao ........................................................................... 77
Chƣơng 3: So Sánh đặc điểm sử dụng giọng điệu trần thuật và cách sử
dụng một số kiểu câu giàu sắc thái của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao...... 80
3.1. Giọng điệu trần thuật ......................................................................... 80
3.1.1. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan ....... 80
3.1.1.1. Giọng khách quan, lạnh lùng................................................... 80
3.1.1.2. Giọng châm biếm, đả kích sâu cay .......................................... 83
3.1.1.3. Giọng bông lơn, suồng sã pha chút hóm hỉnh ......................... 86
3.1.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao........................ 89
3.1.2.1. Truyện ngắn Nam Cao với giọng văn tự sự triết lý, suy ngẫm,
phẩm bình................................................................................................. 89
3.1.2.2. Truyện ngắn Nam Cao với giọng văn tự sự lạnh lùng, dửng dƣng... 91
3.1.2.3. Truyện ngắn Nam Cao với giọng văn giễu nhại, châm biếm, hài hƣớc..... 93
3.1.3. So sánh giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan và Nam Cao .................................................................................... 97
3.2. Đặc điểm sử dụng một số kiểu câu (câu đặc biệt, câu tỉnh lƣợc, câu tách biệt)... 100
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
3.2.1. Đặc điểm sử dụng một số kiểu câu của Nguyễn Công Hoan....... 100
3.2.1.1. Đặc điểm sử dụng câu đặc biệt .............................................. 100
3.2.1.2. Đặc điểm sử dụng câu tỉnh lƣợc ............................................ 102
3.2.1.3. Đặc điểm sử dụng câu tách biệt (câu dƣới bậc)..................... 105
3.2.2. Đặc điểm sử dụng một số kiểu câu của Nam Cao ...................... 107
3.2.2.1. Đặc điểm sử dụng câu đặc biệt .............................................. 107
3.2.2.2. Đặc điểm sử dụng kiểu câu tỉnh lƣợc .................................... 108
3.2.2.3. Đặc điểm sử dụng kiểu câu tách biệt (câu dƣới bậc)............. 111
3.2.3. Nhận xét đặc điểm sử dụng một số kiểu câu của Nguyễn Công
Hoan và Nam Cao .................................................................................. 112
KẾT LUẬN .................................................................................................. 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 117
PHỤ LỤC..................................................................................................... 1244
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong dòng văn học Hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945, Nam Cao và Nguyễn Công Hoan là hai gƣơng mặt tiêu biểu, hai đại
diện ƣu tú. Giữa lúc làng thơ văn Việt Nam đang đua nhau chạy theo thị hiếu
tầm thƣờng của độc giả, đắm chìm trong những câu chuyện tình lãng mạn thì
Nguyễn Công Hoan và Nam Cao cũng nhƣ một số cây bút khác đã chọn cho
mình một hƣớng đi riêng, đem đến cho văn chƣơng đƣơng thời một tiếng nói
mới mẻ, mạnh mẽ về hiện thực đời thƣờng nhƣ nó vốn có mà không hề tô vẽ.
Có thể nói, Nguyễn Công Hoan là một trong những gƣơng mặt mở đầu
và cũng là nhà văn ƣu tú của trào lƣu văn học Hiện thực phê phán. Nói đến
Nguyễn Công Hoan là nói đến một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai,
một tài năng xuất chúng. Hơn nửa thế kỉ cầm bút, ông đã để lại một khối
lƣợng tác phẩm đồ sộ, đa dạng về thể loại, độc đáo về nội dung tƣ tƣởng trong
đó truyện ngắn đƣợc coi là lĩnh vực nổi bật nhất, đặc biệt là truyện ngắn trào
phúng. Có thể so sánh Nguyễn Công Hoan với những nhà văn viết truyện
ngắn trào phúng bậc thầy nhƣ Guy-dơ Môpatxăng và A.Sêkhôp. Những
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có sức hấp dẫn đặc biệt với nhiều thế hệ
và nó vẫn là những “vỉa vàng” đang đƣợc tiếp tục khai phá.
Trong trào lƣu văn học Hiện thực phê phán, Nam Cao là ngƣời đến khá
muộn khi mà Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... đã tạo
dựng đƣợc vị trí, chỗ đứng vững chắc với những tác phẩm xuất sắc. Tuy
nhiên, Nam Cao không bị mờ nhạt bởi những bóng dáng lớn mà ông vẫn
khẳng định đƣợc vị trí của mình, góp phần đƣa trào lƣu văn học Hiện thực
phê phán phát triển tới đỉnh cao. Với 15 năm cầm bút, Nam Cao đã để lại một
số lƣợng tác phẩm lớn mà đặc sắc là truyện ngắn. Truyện ngắn của Nam Cao
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi5
giàu có về tƣ tƣởng, sâu sắc về nghệ thuật và đƣợc độc giả bao đời yêu mến.
Đƣơng thời, ngƣời ta không chú ý nhiều đến tác phẩm của ông nhƣng từ sau
khi Nam Cao hi sinh, những giá trị tác phẩm của ông mới đƣợc quan tâm,
nghiên cứu một cách sâu sắc.
1.2. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao đã đƣợc đƣa vào
chƣơng trình giảng dạy trong nhà trƣờng từ bậc phổ thông đến đại học. Khảo
sát ở bậc học phổ thông, cụ thể là THCS và THPT, chúng tui thấy có các tác
phẩm nhƣ sau: truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan gồm Tinh thần thể dục –
Ngữ văn 11; truyện ngắn của Nam Cao gồm Lão Hạc – Ngữ văn 8; Chí Phèo
– Ngữ văn 11. Khi giảng dạy văn bản văn học cho học sinh, việc làm rõ đặc
điểm về phong cách ngôn ngữ tác giả là một yêu cầu rất cần đƣợc chú ý vì nó
liên quan đến việc phân tích giá trị nghệ thuật của tác phẩm và sự đóng góp
của nhà văn đối với việc hiện đại hóa văn học.
1.3. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan và
Nam Cao ở các phƣơng diện khác nhau song vẫn chƣa có công trình nghiên
cứu toàn diện, hệ thống về cả hai nhà văn trong cái nhìn tƣơng quan so sánh
về đặc điểm phong cách ngôn ngữ. Đây cũng là ý nghĩa mới mẻ mà đề tài của
chúng tui mong muốn thực hiện.
Là một giáo viên THPT giảng dạy bộ môn Ngữ văn, chúng tui muốn
thực hiện đề tài “So sánh đặc điểm phong cách ngôn ngữ của nhà văn
Nguyễn Công Hoan và Nam Cao” nhằm phục vụ trực tiếp cho công tác
giảng dạy tác giả và tác phẩm văn học trong nhà trƣờng.
2. Lịch sử vấn đề
Có thể nói, Nguyễn Công Hoan và Nam Cao là những nhà văn của thế
kỉ XX đƣợc nhiều ngƣời nghiên cứu nhất.6
2.1. Vấn đề nghiên cứu Nguyễn Công Hoan
Ngay sau khi những truyện ngắn đầu tiên ra đời, Nguyễn Công Hoan đã
đƣợc giới nghiên cứu phê bình chú ý. Có rất nhiều bài nhận xét, đánh giá về
văn chƣơng của Nguyễn Công Hoan. Có thể kể đến những tác giả sau:
Các công trình nghiên cứu đầu tiên về Nguyễn Công Hoan phải kể đến
Trúc Hà với bài Một ngòi bút mới: ông Nguyễn Công Hoan đăng trên báo
Nam Phong năm 1932. Trúc Hà đã tỏ ra khá tinh tế khi nhận ra giọng văn mới
mẻ pha chất hài hƣớc của Nguyễn Công Hoan.
Ngay sau đó, Hải Triều đã sắc sảo phát hiện ra ý nghĩa và tác dụng xã
hội của tiếng cƣời trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cũng cho rằng Nguyễn Công
Hoan sở trƣờng về truyện ngắn hơn truyện dài. Còn Nguyễn Đăng Mạnh đã ra
nhận định chính xác và sâu sắc về tiếng cƣời Nguyễn Công Hoan trong truyện
ngắn trào phúng.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung trong lời giới thiệu truyện ngắn
Việt Nam 1930 - 1945, tập 1, NXB Giáo dục, H., 1990 khẳng định: Nguyễn
Công Hoan là một bậc thầy trong truyện ngắn trƣớc hết là truyện ngắn trào
phúng.
Nói về phong cách ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, có thể kể
đến Lê Trí Dũng – Trần Đình Hựu trong Văn học Việt Nam giai đoạn giao
thời 1900 – 1930; Lê Minh – con gái của nhà văn – với bài “Sức trẻ một cây
bút”.
Nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan nhiều nhất phải kể đến Lê Thị Đức
Hạnh. Bà có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết sâu sắc về Nguyễn Công
Hoan với những khám phá ở khía cạnh nghệ thuật cũng nhƣ phong cách ngôn
ngữ truyện ngắn.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
2.2. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao
Nam Cao là một tài năng lớn của văn học Việt Nam hiện đại, vì thế, số
lƣợng tài liệu nghiên cứu về Nam Cao là rất lớn (theo thống kê của các nhà
nghiên cứu thì có khoảng hơn 200 tài liệu khác nhau).
Trƣớc cách mạng tháng 8 – 1945, Nam Cao chƣa đƣợc chú ý trong giới
nghiên cứu phê bình. Nhƣng sau cách mạng, Nam Cao trở thành một hiện
tƣợng của giới phê bình văn học. Ngƣời đầu tiên chú ý đến sự sắc sảo trong
văn phong của Nam Cao là Nguyễn Đình Thi trong bài Nam Cao viết vào
những năm 50.
Bƣớc sang những năm 60, nhiều công trình có giá trị về Nam Cao ra đời.
Có thể kể đến Đọc truyện ngắn Nam Cao, soi lại bước đường đi lên của một
nhà văn hiện thực; Con người và cuộc sống trong tác phẩm của Nam Cao
của Huệ Chi – Phong Lê; Phan Cự Đệ trong Văn học Việt Nam 1936 – 1945
Sau đó là Hà Minh Đức trong Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc.
Bƣớc sang những năm 70, nhiều công trình về Nam Cao ra đời nhƣ giáo
trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945 của Nguyễn Hoành Khung,
trong đó có một chƣơng viết về Nam Cao; Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của
Phan Cự Đệ. Những cuốn nổi bật có thể kể Nam Cao đời văn và tác phẩm
(Hà Minh Đức, 1977); Nam Cao, phác thảo sự nghiệp và dáng (Phong
Lê, 1997); Nam Cao, người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực
(Phong Lê, 2001)...
Những năm gần đây, có khá nhiều công trình nghiên cứu, luận án tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ nghiên cứu về Nam Cao. Bên cạnh đó hàng loạt các hội thảo
về Nam Cao đƣợc tổ chức. Có thể kể những cuộc hội thảo khoa học tiêu biểu
nhân 40 năm ngày mất của Nam Cao 1951 – 1991 (tháng 11/ 1991) và nhân8
80 năm ngày sinh của Nam Cao 1917 – 1997 (tháng 10/ 1997)…Những buổi
hội thảo khoa học tôn vinh nhà văn Nam Cao càng chứng tỏ vị trí và vai trò
của ông trong làng văn học Việt Nam hiện đại và trong lòng tất cả những
ngƣời yêu mến tác phẩm của ông.
2.3. Cho đến ngày nay, số lƣợng các công trình, các bài nghiên cứu về
tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao quả là không nhỏ. Tuy nhiên,
các công trình, bài nghiên cứu thƣờng tập trung vào vấn đề phê bình tác phẩm
văn học. Chƣa có nhiều bài viết về đặc điểm phong cách của hai tác giả và
đặc biệt là chƣa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ đặc điểm phong cách
ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao trong tƣơng quan đối chiếu.
Vì vậy, chúng tui thực hiện đề tài này nhằm tìm hiểu một cách đầy đủ về
những điểm tƣơng đồng và khác biệt trong đặc điểm phong cách ngôn ngữ
của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, ngƣời viết nhằm:
- Làm rõ những đặc điểm nổi bật về phong cách ngôn ngữ của Nguyễn
Công Hoan và Nam Cao trên các phƣơng diện: ngƣời trần thuật và điểm nhìn
trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, cách sử dụng một số
kiểu câu giàu phong cách. Đây là các phƣơng diện có liên quan trực tiếp đến
phong cách ngôn ngữ của nhà văn.
- So sánh để rút ra những đặc điểm giống và khác nhau về phong cách
ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao cũng nhƣ làm rõ những đóng
góp của hai nhà văn đối với sự hiện đại hóa nền văn học.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu nhƣ trên, ngƣời viết xác định nhiệm
vụ cho luận văn nhƣ sau:
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
- Trình bày một số luận điểm cơ bản về phong cách nghệ thuật, ngôn
ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, cách sử dụng một số kiểu câu (câu đặc
biệt, câu tỉnh lƣợc, câu tách biệt).
- Phân tích đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật (ngƣời trần thuật và
điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ trần thuật), giọng điệu trần thuật và cách sử
dụng một số kiểu câu (câu đặc biệt, câu tỉnh lƣợc và câu tách biệt) trong một
số truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao.
- Rút ra những kết luận về đặc điểm phong cách ngôn ngữ tác giả của
hai nhà văn này.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan và Nam Cao trƣớc cách mạng tháng 8 – 1945. Trong đó, chúng tui tập
trung làm rõ những đặc điểm thể hiện phong cách ngôn ngữ của hai tác giả.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn gồm các truyện ngắn in trong Tuyển
tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (NXB thời đại, 2010), tuyển tập truyện
ngắn Nam Cao ( Nxb Văn học, năm 2000)
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, ngƣời viết sử dụng các phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp miêu tả
- Phƣơng pháp phân tích phong cách học
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp cải biến10
7. Ý nghĩa khoa học của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận: Đề tài này thực hiện thành công sẽ góp phần tích
cực vào lí luận nghiên cứu phong cách nhà văn Hiện thực phê phán nói chung
và phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao nói riêng dƣới
cách nhìn của ngôn ngữ học.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ trực tiếp góp
phần nâng cao chất lƣợng giảng dạy về hai tác giả Nguyễn Công Hoan và
Nam Cao đồng thời góp phẩn đổi mới phƣơng pháp giảng dạy môn văn học
trong nhà trƣờng phổ thông.
8. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm ba phần:
+ Phần mở đầu.
+ Phần nội dung.
+ Phần kết luận.
Trong đó phần nội dung chia thành 03 chƣơng.
+ Chƣơng 1: Cơ sở lí luận .
+ Chƣơng 2: So sánh đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật của
Nguyễn Công Hoan và Nam Cao.
+ Chƣơng 3: So sánh đặc điểm sử dụng giọng điệu trần thuật và một số
kiểu câu của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Vài nét tóm tắt về nhà văn Nguyễn Công Hoan và Nam Cao
1.1.1. Hoàn cảnh xuất thân của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao
Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 tại làng Xuân Cầu,
huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc tỉnh Hƣng Yên) trong một gia
đình quan lại sa sút và bất mãn với chế độ thực dân. Gia đình Nguyễn Công
Hoan có nhiều đời học hành, đỗ đạt và làm quan. Nhƣng đến thời cụ thân sinh
của ông, mặc dù thi đỗ nhƣng chỉ đƣợc làm chức quan nhỏ do không biết
tiếng Pháp, không có những mánh khóe giao thiệp kiểu mới. Đó là bi kịch của
những quan “nhà nho” lỗi thời với nhiều bi kịch và tâm sự khó nói.
Sinh ra và lớn lên ở nhà quan nên ngay từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã
nghe và thấy đủ mọi chuyện của chốn quan trƣờng. Đó là những chuyện ăn
hối lộ của quan lại, thủ đoạn nịnh nọt, bỉ ổi để tiến thân... Tất cả những điều
đó sau này Nguyễn Công Hoan đã phản ánh sinh động trong các truyện ngắn
của mình.
Tốt nghiệp trƣờng Sƣ phạm, Nguyễn Công Hoan đi dạy học và viết
văn. Ông bị chuyển hết nơi này đến nơi khác nhƣ Hải Dƣơng, Lào Cai, Nam
Định... Chính vì đi nhiều nên Nguyễn Công Hoan có điều kiện thực tế nghe
đƣợc nhiều chuyện đời, chuyện ngƣời. Điều này cũng rất hữu ích đối với nghề
viết văn của ông.
Khác với Nguyễn Công Hoan, Nam Cao (tên thật là Trần Hữu Tri),
sinh ngày 29 – 10 – 1915 trong một gia đình trung nông đông anh em tại làng
Đại Hoàng thuộc tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam
(nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Bút danh Nam Cao là do
ghép hai chữ đầu tên huyện và tổng mà thành. Làng Đại Hoàng của Nam Cao12
vốn là nơi có nhiều vấn đề mâu thuẫn, tranh chức tranh quyền của bọn cƣờng
hào địa chủ ác bá, nhiều ngƣời dân không thể sống đƣợc đã phải bỏ đi tha
phƣơng cầu thực. Điều này đã đƣợc Nam Cao phản ánh chân thực trong một
số tác phẩm đặc biệt là trong Chí Phèo.
Nhƣ vậy, Nguyễn Công Hoan và Nam Cao sinh trƣởng trong hai gia
đình có hoàn cảnh khác nhau. Nếu Nguyễn Công Hoan xuất thân trong gia
đình có truyền thống quan lại, từ nhỏ đã hiểu chuyện quan trƣờng thì Nam
Cao lại xuất thân từ một gia đình nông dân cùng kiệt với cuộc sống thuần túy ở
nông thôn. Tuy nhiên, cả hai nhà văn lớn đều sinh ra trong hoàn cảnh xã hội
giao thời Tây – Tàu nhố nhăng, nhiều vấn đề phức tạp. Với cái nhìn sâu sắc
và cảm quan nhạy bén, cả hai đã dùng văn chƣơng để phanh phui hiện thực xã
hội đƣơng thời.
1.1.2. Các tác phẩm trƣớc cách mạng
1.1.2.1. Các tác phẩm trƣớc cách mạng của Nguyễn Công Hoan
Có thể nói, Nguyễn Công Hoan là một trong những ngƣời đi tiên phong
đặt nền móng cho văn học Hiện thực phê phán. Nguyễn Công Hoan bắt đầu
viết truyện ngắn từ rất sớm khi mà văn xuôi quốc ngữ còn chập chững ở cái
buổi bình minh. Ông bắt đầu viết vào năm 1923 với tập truyện Kiếp hồng
nhan có tính chất thử bút. Đến năm 1929, Nguyễn Công Hoan thực sự viết,
ông có nhiều truyện ngắn đăng trên An Nam tạp chí do Tản Đà chủ biên. Cho
đến năm 1935, ông đã cho ra mắt bạn đọc khoảng 80 truyện ngắn và đặc biệt,
tập truyện Kép Tư Bền xuất bản đã gây đƣợc tiếng vang lớn, đƣa tên tuổi
Nguyễn Công Hoan vang khắp Bắc, Trung, Nam. Nguyễn Công Hoan đã nhìn
thẳng vào hiện thực và bằng tiếng cƣời trào phúng phơi ra mặt trái của xã hội
với đầy bất công thối nát. Với Kép Tư Bền, Nguyễn Công Hoan vừa là một
trong những ngƣời mở màn vừa là ngƣời cầm ngọn cờ chiến thắng cho
khuynh hƣớng văn học hiện thực phê phán Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi13
Nguyễn Công Hoan xứng đáng là một nhà văn lớn, nhà văn tiêu biểu
của nền văn học Hiện thực phê phán Việt Nam. Cho đến nay, gần một thế kỉ
trôi qua nhƣng những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan vẫn giữ đƣợc vị trí
quan trọng trong nền văn học dân tộc, đƣợc bạn đọc bao thế hệ yêu thích.
Không những thế, tác phẩm của ông còn đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng nƣớc
ngoài nhƣ Liên Xô, Bungari, Hunggari, Anbani, Cộng hòa dân chủ Đức,
Cuba, Ba Lan, Ấn Độ...
1.1.2.2. Các tác phẩm trƣớc cách mạng của Nam Cao
Từ năm 1936, Nam Cao bắt đầu sáng tác. Ông viết văn, làm thơ, viết
kịch với các bút danh Thúy Rƣ, Xuân Du, Nhiêu Khê. Năm 1938, Nam Cao
bị ốm nặng, ông ra Bắc tự học và thi đỗ Thành chung. Sau đó ông dạy học tƣ
và viết nhiều truyện ngắn đặc sắc nhƣ: Đôi lứa xứng đôi (Chí Phèo), Dì Hảo,
Nửa đêm, Cái mặt không chơi được, Trẻ con không được ăn thịt chó,
Trăng sáng...
Cách mạng tháng 8, Nam Cao tham gia cƣớp chính quyền rồi tham gia
đoàn quân Nam tiến với tƣ cách là phóng viên. Sau đó, Nam Cao trở ra Bắc
tiếp tục hoạt động cách mạng và sáng tác nhiều tác phẩm ở các thể loại khác
nhau. Ngày 30 – 11- 1951, trên đƣờng vào công tác vùng địch hậu Liên khu
Ba, Nam Cao đã anh dũng hi sinh ở Ninh Bình do bị địch phục kích.
Nam Cao bƣớc chân vào con đƣờng văn chƣơng khi trên văn đàn đặc
biệt là trong dòng văn học Hiện thực phê phán đã xuất hiện nhiều cây đại thụ
nhƣ Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng... Thế
nhƣng trên mảnh đất đã đƣợc cày xới kỹ càng đó, Nam Cao không bị chìm lấp
trong những lối mòn mà ông vẫn tìm đƣợc cho mình một hƣớng đi riêng
không lẫn với bất cứ ai. Những tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh chân thật
cuộc sống ngột ngạt, đen tối của xã hội Việt Nam những năm trƣớc cách
mạng và dựng lên cuộc sống đau khổ, bế tắc của những ngƣời nông dân, trí14
thức nghèo. Trong truyện ngắn Nam Cao, nổi lên hai đề tài chính là đề tài
ngƣời nông dân và ngƣời trí thức nghèo. Nam Cao hƣớng ngòi bút của mình
vào miêu tả cuộc sống khốn khổ, bi kịch không chỉ đói cùng kiệt mà còn bị tha
hóa về lƣơng tâm của ngƣời nông dân đồng thời dựng lên những bi kịch về
đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản.
Nhƣ vậy, nếu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan tập trung xây dựng
những bức dáng biếm họa về tầng lớp quan lại, địa chủ, cƣờng hào xấu
xa, độc ác... thì Nam Cao lại hƣớng ngòi bút của mình để tìm hiểu bi kịch bị
tha hóa cả thể xác và tâm hồn của ngƣời nông dân cũng nhƣ ngƣời trí thức
nghèo.
Nam Cao là một trong những nhà văn góp phần hiện đại hóa văn xuôi
quốc ngữ trên tiến trình văn học. Và cũng giống nhƣ Shêkhôp (Nga), Nam
Cao là thay mặt cuối cùng, ngƣời khép lại dòng văn học Hiện thực phê phán
Việt Nam và là ngƣời mở đƣờng mới cho sự phát triển của nó. Cũng nhƣ
Nguyễn Công Hoan, các sáng tác của Nam Cao không chỉ có giá trị ở trong
nƣớc mà còn vƣợt qua biên giới lãnh thổ để đến với bạn đọc quốc tế.
1.2. Khái niệm về phong cách và phong cách nghệ thuật
1.2.1. Khái niệm về phong cách và phong cách học
Thuật ngữ phong cách bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, lúc đầu có tên là
“stylos” – chỉ cái que có một đầu vót nhọn và một đầu tù dùng để viết, vẽ lên
tấm bảng. Về sau, nó đƣợc dùng để chỉ cách sử dụng ngôn ngữ và ngày nay,
thuật ngữ phong cách đƣợc sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu nhiều ngành
khác nhau.
Phong cách không hoàn toàn là thuật ngữ của phong cách học. Trong
đời sống hàng ngày, phong cách là cách nói, cách sinh hoạt, làm việc, ứng
xử... tạo nên cái riêng của mỗi ngƣời hay mỗi loại ngƣời nhƣ phong cách ăn
mặc, phong cách nói, phong cách viết... Trong lí luận văn học, thuật ngữ
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi15
phong cách đƣợc dùng để chỉ đặc điểm sáng tác riêng biệt, nổi trội của mỗi
nhà văn hay tác phẩm... Trong văn hóa, phong cách đƣợc dùng để chỉ những
đặc điểm văn hóa mang tính dân tộc, thời đại nhƣ phong cách truyền thống,
phong cách dân tộc...
Nhƣ vậy, thuật ngữ phong cách học “thực chất là phong cách học ngôn
ngữ. Đó là bộ môn khoa học nghiên cứu những đặc điểm và phong cách sử
dụng ngôn ngữ trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.” [16, tr.33].
Trong những nét chung nhất, “phong cách học được hiểu là khoa học
nghiên cứu sự vận dụng ngôn ngữ, nói khác đi đó là khoa học về các quy luật
nói và viết có hiệu lực cao.” [16, tr.7]. Phong cách học quan tâm đến giá trị
biểu đạt, biểu cảm – cảm xúc, cái giá trị phong cách của các phƣơng tiện ngôn
ngữ trong những hoàn cảnh giao tiếp tiêu biểu với những điều kiện giao tiếp
nhất định.
1.2.2. Phong cách chức năng ngôn ngữ và phong cách nghệ thuật
1.2.2.1. Cơ sở phân chia phong cách chức năng
Phong cách ngôn ngữ đƣợc hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử.
Phong cách ứng với mỗi chức năng xã hội của ngôn ngữ gọi là phong cách
chức năng. Mỗi cá nhân khi nói, khi viết đều theo một phong cách chức năng
nhất định. Có nhiều khuynh hƣớng bàn về cách phân chia phong cách chức năng
song chủ yếu dựa vào các cơ sở chung nhƣ sau:
a. Dựa trên chức năng giao tiếp
Một số tác giả nƣớc ngoài và trong nƣớc đã dựa vào chức năng giao tiếp của
ngôn ngữ để phân chia các phong cách chức năng:
- Phong cách khẩu ngữ tự do: thông báo những nội dung thông thƣờng thuộc
phạm vi sinh hoạt hàng ngày.16
- Phong cách nghệ thuật: thông báo về sự vật, hiện tƣợng dƣới dạng hình
tƣợng nghệ thuật.
b. Dựa trên hình thức thể hiện
Dựa trên hình thức thể hiện khác nhau để diễn đạt nội dung tƣ tƣởng, tình
cảm (hình thức nói hay viết), các nhà nghiên cứu phân chia phong cách chức
năng thành hai loại là phong cách khẩu ngữ và phong cách gọt giũa.
c. Dựa vào phạm vi giao tiếp
Dựa vào phạm vi giao tiếp khác nhau, một số tác giả chia tách thành phạm vi
giao tiếp gia đình và phạm vi giao tiếp mang tính chất xã hội.
Nhƣ vậy, có điểm chung trong các cách phân chia trên đó là phân chia theo
bậc, từ bậc lớn lại tách thành các bậc nhỏ hơn.
Có thể phân loại các phong cách chức năng trong tiếng Việt thành 2 loại lớn:
phong cách ngôn ngữ nói và phong cách ngôn ngữ viết. Trong đó:
- Phong cách ngôn ngữ nói bao gồm: phong cách khẩu ngữ tự nhiên, phong
cách hội thảo, phong cách diễn xuất sân khấu, điện ảnh.
- Phong cách ngôn ngữ viết bao gồm: Phong cách hành chính – công vụ,
phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong cách báo chí, phong cách
văn học nghệ thuật.
Nhắc tới khái niệm phong cách là nhắc tới những nét đặc trƣng, riêng biệt,
tiêu biểu nhất. Phong cách ngôn ngữ là “một phong cách chức năng cụ thể trong
đó cách sử dụng ngôn ngữ đã được định hình về mặt thời gian và mặt xã hội.
Thực chất nó đã trải qua một quá trình tự điều chỉnh của bản thân hệ thống và
có sự can thiệp ở một mức độ nhất định của những thiết chế xã hội.” [16, tr.41].
Có thể coi phong cách ngôn ngữ là sự lặp đi lặp lại một số kiểu lời nói để
tạo thành các khuôn mẫu nhất định trong từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi17
1.2.2.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Trong các phong cách chức năng của ngôn ngữ thì đây là phong cách có
nhiều tên gọi nhất: phong cách ngôn ngữ văn chƣơng, phong cách ngôn ngữ văn
học, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách văn học nghệ thuật. Đối với
một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ thì phong cách ngôn ngữ nghệ thuật không
đƣợc xếp vào hệ thống các phong cách chức năng.
Tuy nhiên, theo Hữu Đạt: “các tác phẩm văn học nghệ thuật là hình thức
bảo lưu tương đối đầy đủ nhất diện mạo ngôn ngữ ở mỗi thời đại. Không ai có
thể phủ nhận đó là hình thức tồn tại có thực của hoạt động giao tiếp. Vậy đương
nhiên, nó phải tồn tại với tư cách là một kiểu phong cách riêng hay thuộc vào
loại phong cách chức năng nhất định” [16, tr.276]. Nhƣ vậy, có thể khẳng định
phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là một loại phong cách chức năng của ngôn
ngữ và đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “Phong cách nghệ thuật là một phong cách
chức năng được dùng để sáng tạo hình tượng nghệ thuật và tác phẩm nghệ thuật
nhằm phục vụ cho nhu cầu về đời sống tinh thần của con người” [16, tr.276].
So với các phong cách chức năng khác, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
có những đặc trƣng riêng biệt. Trƣớc hết, các đơn vị ngôn ngữ trong phong cách
ngôn ngữ nghệ thuật có chức năng tác động hình tƣợng tức là có khả năng đem
lại cho ngƣời đọc những tình cảm, những rung động về cảm xúc nhƣ vui – buồn
, yêu thƣơng – căm ghét, hạnh phúc – đau khổ... Với các phong cách khác nhƣ
phong cách báo chí hay phong cách chính luận, chức năng tác động đến tình cảm
ngƣời đọc chỉ là hệ quả thứ hai của quá trình còn trong phong cách nghệ thuật,
chức năng này giữ vai trò đầu tiên.
Ví dụ: Trong Chinh Phụ ngâm khúc nguyên tác Đặng Trần Côn – bản
dịch của Đoàn Thị Điểm – câu thơ:
“Cảnh buồn ngƣời thiết tha lòng
Cành cây sƣơng đƣợm tiếng trùng mƣa phun”18
gợi cho ngƣời đọc nỗi buồn về tình cảnh cô đơn, lẻ loi của ngƣời chinh phụ có
chồng đi chinh chiến đồng thời cũng gợi lên trong lòng độc giả sự oán ghét chiến
tranh phong kiến phi nghĩa – nguyên nhân dẫn đến sự chia lìa của đôi vợ chồng
trẻ.
Hay khi đọc những câu thơ Nguyễn Du tả cảnh thiên nhiên mùa xuân tƣơi
đẹp trong Truyện Kiều:
“Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”
ngƣời đọc lại rung lên tình yêu đối với vẻ đẹp của đất trời, thấy trong lòng rộn
ràng, náo nức nhƣ đƣợc sống trong không khí của ngày xuân.
Chính nhờ khả năng tác động mạnh mẽ tới tình cảm của độc giả mà
phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có sắc thái riêng, độc đáo so với các phong
cách chức năng khác.
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật còn khác các phong cách chức năng
khác ở chỗ nó có khả năng tác động đến ngƣời đọc qua hệ thống các đơn vị
mang tính hình tƣợng. Những đơn vị ngôn ngữ khi sử dụng trong phong cách
ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ có chức năng thông tin thuần túy mà nó còn có
khả năng gợi những liên tƣởng sâu xa trong lòng ngƣời đọc. Đó là điểm gặp gỡ
giữa nhà văn và độc giả.
Trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ tác động đến ngƣời đọc
qua một hệ thống các đơn vị ngôn ngữ mang tính hình tƣợng. Theo Hữu Đạt
“khi các đơn vị ngôn ngữ tham gia với tư cách là các tham tố tạo nên hình tượng
nghệ thuật, tự nó đã làm mờ nhạt đi tính bản thể của tín hiệu ngôn ngữ để tạo
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi19
nên một loại nghĩa mới ngoài bản thể hay là “siêu tín hiệu”” [16, tr.285]. Từ đó,
ngƣời đọc tìm hiểu văn bản nghệ thuật phải bằng cách lí giải các tín hiệu ngôn
ngữ thông qua thao tác tƣ duy trừu tƣợng. Một từ trong ngôn ngữ nghệ thuật
khác với từ trong các phong cách chức năng khác, nó không chỉ đƣợc hiểu theo
nghĩa 1/1 (cái biểu đạt/cái đƣợc biểu đạt) mà một tín hiệu ngôn ngữ có thể đƣợc
hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Ví dụ, trong bài thơ Bánh trôi nước, Hồ Xuân Hƣơng đã mƣợn hình
tƣợng chiếc bánh trôi nƣớc để nói về ngƣời phụ nữ:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nƣớc non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ lặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
nên giọng điệu khách quan, lạnh lùng ở ngƣời kể chuyện. Trong truyện ngắn
Nam Cao, xuất hiện nhiều kiểu chết của nhân vật. Trong đó, cái chết no của
bà cụ là một cái chết thảm thƣơng. Chứng kiến bà lão “chết no”, chủ thể trần
thuật kể lại: “Rồi bà chết. Bà phó Thụ nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà
dùng ngay cái chết ấy làm bài học dạy lũ con gái, con nuôi”. Ngƣời kể đã
đứng về phía điểm nhìn của bà phó Thụ để trần thuật, đứng về phía điểm nhìn
của một con ngƣời tàn nhẫn và vô tâm là bà phó Thụ, ngƣời kể chuyện cố tỏ
vẻ dửng dƣng, vô cảm. Nhƣng chính sự tạo đồng tình “giả” này, chủ thể trần
thuật đã bộc lộ đƣợc một tiếng nói phê phán gay gắt về sự thờ ơ của con
ngƣời trƣớc đồng loại. Ngƣời ta có thể vì bản thân mà quên đi đồng loại của
mình đang quằn quại chết dần đi.
Sự lạnh lùng trong lời văn của ngƣời kể chuyện còn bộc lộ ở cách đặt
danh xƣng cho nhân vật. Những cách gọi nhƣ: y, thị, hắn, bọn, thằng, chúng
nó…xuất hiện rất thƣờng xuyên trong truyện ngắn của Nam Cao. Gọi nhân
vật bằng các đại từ chỉ thị ngôi thứ ba số ít, Nam Cao đã thể hiện một cái
nhìn, một giọng điệu rất khách quan. Chẳng hạn: “thằng này rất ngạc nhiên.
Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt…” (Chí Phèo); “Y gầm lên.
Y xốc váy lên trên đầu gối. Y giậm chân bồ bồ. Rồi y lại buông váy xuống…”
(Những chuyện không muốn viết); “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một
cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua” (Chí Phèo)…
Trong truyện ngắn Nam Cao, ta còn bắt gặp giọng văn lạnh lùng ở
giọng của chính nhân vật. Giọng văn lạnh lùng trong lời của nhân vật có khi
thể hiện đúng vẻ lạnh lùng, tàn nhẫn, độc ác từ trong bản chất nhƣ lời của bà
Huyên: “- Đi vắng! Đi vắng mãi! Mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai không
trả tiền tao thì tao đào mả lên đấy. Cái giống chỉ biết ăn không” (Nghèo), có
khi lại bắt gặp ở kiểu lời văn bề ngoài tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn nhƣng ẩn chứa
bên trong là biết bao sự đau đớn, thƣơng yêu. Trong lời mắng chửi khá lạnh
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: Tóm tắt Người thứ ba Nguyễn Công Hoan, nghệ thuật ngôn ngữ Nam Cao, so sánh nguyễn công hoan với vũ trọng phụng, chứng minh ngôn ngữ báo chí bị ảnh hưởng bởi các phong cách ngôn ngữ khác, nhận xét của các tác giả khác về nguyễn công hoan, những đánh giá về phong cách nghệ thuật nam cao, phong cách nghệ thuật TÁC GIẢ nguyễn công hoan, tài liệu về nghèo nam cao, vẻ đẹp về ngôn ngữ truyện ngắn nam cao, ngôn ngữ và giọng điệu trong tác phẩm nam cao, phong cách trào phúng của nguyễn công hoan và vũ trong phụng, phong cách ngôn ngữ của Nam Cao, đặc điểm của khẩu ngữ trong văn nam cao, phân tích điểm nhìn trần thuật trong truyện ngẵn vũ trọng phụng, ngôn ngữ trong sáng tác của nam cao, phân tích đặc điểm của phong cách khẩu ngữ, phân tích phong cách khẩu ngữ, luận văn trình bày, nhận xét, phân tích, đánh giá và so sánh đặc trưng, đặc điểm của thể loại báo chí chính luận nghệ thuật, Gi ọng văn khách quan lạnh lùng của Nam cAO, so sánh sáng tác của nguyễn công hoan và vũ trọng phụng, DOI SANH NGON NGU TRAO PHUNG TRONG TRUYEN NGUYEN CONG HOAN VA VU TRONG PHUNG, so sanh quan diem nghe thuat cua nguyen cong hoan va vu trong phung
Last edited by a moderator: