galaxy_angel
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
ĐỀ BÀI SỐ : 05
Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
A./LỜI MỞ ĐẦU
Hợp đồng, còn được gọi là “khế ước” chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử nhân loại. Bất kỳ ai nếu muốn sinh tồn trong xã hội hiện đại đều không thể không dùng hình thức hợp đồng để gây lòng tin hay đặt lòng tin với người khác và tiến hành giao dịch. Trong cuộc đời của những con người hiện đại không ngừng thành lập hợp đồng và thực hiện hợp đồng giống như một chu kỳ tuần hoàn không dứt. Bởi vậy nên, đã có người gọi xã hội nay là “xã hội khế ước” và gọi nền kinh tế hiện đại là “kinh tế khế ước”. Dưới điều kiện nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động giao dịch đều tiến hành thông qua giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng các chủ thể căn cứ vào nhu cầu của mình mà giao kết với người khác, chuyển nhượng hàng hóa hay dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của mình. Dưới góc độ sự phát triển kinh tế và xã hội, hợp đồng là cầu nối đã làm cho những tài nguyên xã hội được phân phối một cách tối ưu, đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội. Vô số các giao dịch đã cấu thành một thị trường hoàn chỉnh. Vì vậy, quan hệ hợp đồng là quan hệ pháp luật cơ bản của hợp đồng. Chế định hợp đồng cũng đã trở thành quy phạm pháp luật tối cơ bản mà điều chỉnh quan hệ kinh tế thị trường. Do đó, việc tìm hiểu các điều kiện để một hợp đồng dân sự có hiệu lực là vấn đề quan trọng và có ý nghĩa lớn trên thực tế.
B.NỘI DUNG
I./ Khái quát chung về hợp đồng dân sự
1./ Khái niệm
Điều 388 Bộ luật dân sự (BLDS) quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Qua khái niệm về hợp đồng dân sự, có thể thấy để hình thành hợp đồng dân sự phải có những yếu tố cơ bản sau đây:
- Hợp đồng dân sự phải có sự tham gia của các bên: Hợp đồng là sự thỏa thuận của các chủ thể liên quan đến xác lập các quyền, nghĩa vụ nhằm đem lại lợi ích cho mình hay đem lại lợi ích cho người khác. Nếu như hành vi pháp lý đơn phương chỉ là sự tuyên bố ý chí công khai của một phía chủ thể thì khi tham gia quan hệ hợp đồng, ít nhất phải có hai chủ thể đứng về hai phía của hợp đồng. Ngoài ra trong một số trường hợp, việc tham gia quan hệ hợp đồng có thể có sự xuất hiện của bên thứ ba (hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba).
- Hợp đồng dân sự được hình thành dựa trên cơ sở thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó. Thỏa thuận và thống nhất ý chí là yếu tố cốt lõi để hình thành quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể, thiếu sự thỏa thuận này thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực.
- Hậu quả pháp lý của sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng là nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.
- Sự thỏa thuận giữa các bên không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa.
Định nghĩa trên đây của BLDS 2005 được xem là hợp lý và thuyết phục nhất ở Việt Nam từ trước đến nay vì có nội dung ngắn gọn, chuẩn xác; vừa mang tính khái quát cao, phản ánh đúng bản chất của thuật ngữ ‘hợp đồng’, vừa thể hiện rõ vai trò của hợp đồng như là một căn cứ pháp lý (phổ biến) làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ (dân sự) của các bên.
2/.Bản chất của hợp đồng
Như đã thể hiện trong khái niệm hợp đồng, bản chất của hợp đồng được tạo nên bởi hai yếu tố pháp lý là sự thỏa thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các bên.
a./Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
Hợp đồng là một giao dịch có nhiều bên tham gia để tạo lập sự ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận. Bởi vậy, mặc dù trong luật thực định và trong lý luận có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp đồng, nhưng chung quy lại, tất cả các định nghĩa đó đều thể hiện một quan điểm nhất quán là luôn xem sự thỏa thuận giữa các bên là một trong các yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng. Yếu tố thỏa thuận vừa là nguồn gốc, vừa là cơ sở nền tảng tạo nên hợp đồng. Không có hợp đồng nào mà không do thỏa thuận và không có hợp đồng nào được tạo ra mà thiếu yếu tố thỏa thuận. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng :“yếu tố thỏa thuận giữa các chủ thể là tiền đề của hợp đồng và được xem là tuyệt đối”. Theo nghĩa thông thường, thỏa thuận là “nhất trí, đồng ý với nhau sau khi bàn bạc”.
Trên phương diện pháp lý, để có thể hình thành nên hợp đồng, pháp luật quy định các bên tham gia cùng thương lượng, trao đổi, bàn bạc để đi đến sự nhất trí chung, dựa trên sự đề nghị của một bên và sự chấp nhận hoàn toàn của bên kia. Nhưng sự thỏa thuận với tư cách là một yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng còn có ý nghĩa tích cực hơn so với các khái niệm thương lượng, bàn bạc, đồng ý. Nếu khái niệm “thương lượng” hay “bàn bạc” dùng để chỉ quá trình thương thuyết, giao dịch giữa các bên và khái niệm “đồng ý” dùng để chỉ kết quả của quá trình đó, thì khái niệm “thỏa thuận” ở đây được hiểu là toàn bộ quá trình, từ sự thương lượng đến sự thống nhất ý chí. Đó là quá trình dung hòa giữa ý chí các bên, đi từ sự đồng ý của từng bên đến sự gặp gỡ ý chí của hai hay nhiều bên khác nhau, nhằm đạt được sự nhất trí chung hay sự đồng thuận giữa hai hay nhiều bên đó.
Xét về nội dung, sự thỏa thuận không chỉ là sự nhất trí, đồng ý chung chung mà còn phải có nội dung cụ thể, mục đích rõ ràng, tức phải xác định được bản chất của quan hệ hợp đồng mà các bên muốn xác lập. Theo đó, các bên phải thống nhất về mục đích của hợp đồng là chuyển giao một vật hay làm một vật gì cụ thể. Nếu một bên thể hiện ý chí muốn bán một ngôi nhà mà bên kia chỉ muốn thuê ngôi nhà đó thì không thể có sự gặp gỡ ý chí. Hơn nữa, nếu các bên đồng ý cùng nhau mua bán một ngôi nhà, nhưng không nhất trí được với nhau về giá bán, thời điểm giao kết hợp đồng, thời hạn giao nhà, trả tiền thì hợp đồng chưa chắc được thiết lập.
Tóm lại, thông qua sự thỏa thuận các bên đã làm nên hợp đồng, tức làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. Vì vậy, thỏa thuận vừa là tiền đề làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản cho sự tồn tại hợp đồng.
b. Hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên
một sự thỏa thuận không phải là hợp đồng nếu không tạo nên hiệu lực ràng buộc giữa các bên. Bởi vậy, dấu hiệu thứ hai thể hiện bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên phải nhằm tạo ra một sự ràng buộc pháp lý, tức là sáng tạo ra các quyền và nghĩa vụ mới ngoài những quyền và nghĩa vụ luật định hay làm thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ ấy.
Một sự thỏa thuận mang tính chất xã giao hay một lời hứa danh dự, như lời hứa sẽ tặng quà nhân ngày sinh nhật, hay thỏa thuận sẽ đến dự tiệc ở nhà bạn, hay cùng đi ăn tối với người khác cũng không phải là hợp đồng, vì các thỏa thuận này không tạo ra sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Sự vi phạm lời hứa danh dự hay các cam kết mang tính chất xã giao như trên có thể làm cho người thất hứa bị mất uy tín, bị dư luận chê trách, nhưng không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý và không thể bị áp dụng chế tài dân sự như trường hợp vi phạm hợp đồng.
Tóm lại, mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng không phải sự thỏa thuận nào của các bên cũng là hợp đồng. Chỉ những thỏa thuận tạo ra một sự ràng buộc pháp lý mới được coi là hợp đồng. Bởi vậy, “sự thỏa thuận” và “sự tạo ra một ràng buộc pháp lý” là hai dấu hiệu cơ bản tạo nên bản chất của hợp đồng.
II. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nan hiện hành
1.Lý luận chung về hiệu lực hợp đồng dân sự
Nói về hiệu lực của hợp đồng, điều 1134 BLDS Pháp quy định rằng: “Hợp đồng được thiết lập hợp pháp có hiệu lực như pháp luật cho các bên giao kết ước”.
Hiệu lực hợp đồng, còn được gọi là hiệu lực pháp luật của hợp đồng, là để chỉ sự cưỡng chế của pháp luật đối với các bên đương sự tham gia hợp đồng và thậm chí cả bên thứ ba, theo quy định của pháp luật về vấn đề này có một số điểm cần lưu ý sau:
- Hiệu lực hợp đồng nhìn từ góc độ nguồn luật, là do pháp luật hợp đồng trao cho hợp đồng, đồng thời cũng là sự bảo đảm khả năng cưỡng chế của Nhà nước. Khi người vay nợ vi phạm hợp đồng, pháp luật căn cứ vào đơn yêu cầu của bên không vi phạm, cưỡng chế bên vi phạm hợp đồng thực hiện hợp đồng, hay phải chịu những hậu quả bất lợi khác. Như vậy có thể thấy rằng, hiệu lực hợp đồng không giống như sự ràng buộc của tình hữu nghị, hay ràng buộc của đạo đức.
- Hiệu lực hợp đồng nhìn từ góc độ thể hiện của ý chí, đó là biểu hiện của sự thừa nhận của pháp luật đối với sự thống nhất về ý chí của các bên đương sự. Đồng thời cũng là căn cứ và ủng hộ các bên đương sự nhằm thỏa mãn yêu cầu muốn “ tìm kiếm” pháp luật. Nó cũng là kết quả của việc đưa ý chí của bản thân phù hợp với ý chí Nhà nước. Khi ý chí của các bên đương sự thống nhất hữu cơ với ý chí của Nhà nước, thì sự thể hiện cao nhất đó chính là thể hiện của đương sự. VD: Cho phép đương sự căn cứ theo ý muốn của bản thân hạn chế phạm vi hiệu lực của hợp đồng, cho phép đương sự tự do lựa chọn cách giao hàng, cho phép đương sụ sửa đổi hợp đồng hay chuyển nhượng nghĩa vụ quyền lợi... Tất cả những điều này thể hiện rõ hiệu lực hợp đồng chỉ là sự cụ thể hóa hiệu lực pháp luật, chứ không phải bản thân hiệu lực pháp luật
-Hiệu lực hợp đồng với tư cách là biểu hiện của pháp luật, đánh giá sự nhất trí của các bên đương sự , là một vấn đề hết sức phức tạp: Khi pháp luật khẳng định sự đánh giá vừa ý đối với các bên đương sự thì sẽ phát sinh hiệu quả pháp luật như đương sự mong muốn, các bên đương sự sẽ được hưởng quyền lợi, quyền lợi mà điều khoản hợp đồng ràng buộc, còn khi pháp luật phủ định sự vừa ý đối với các bên đương sự thì sẽ nảy sinh hậu quả không có hiệu lực của hợp đồng.
-Hiệu lực hợp đồng, tức là khả năng cưỡng chế của pháp luật đối với các đương sự có sự ràng buộc, thậm chí là bên thứ ba trong hợp đồng. Có thể chia thành sự ràng buộc giữa các bên đương sự và sự ràng buộc đối với bên thứ ba.
Sự ràng buộc của hợp đồng đối với các bên đương sự bao gồm:
+Nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các đương sự
+Bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm vi phạm theo hợp đồng
+Các bên đương sự không được tự ý thay đổi hay hủy hợp đồng, không thể tự ý chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của hợp đồng
+Đương sự có quyền lợi yêu cầu, trao đổi, quyền xử lý nợ
Hợp đông có hiệu lực đối với bên thứ ba, trong những trường hợp thông thường nó được thể hiện là bất kỳ một bên thứ ba nào cũng không được xâm hại quyền trong hợp đồng. Khi người có quyền trong hợp đồng tự hủy bỏ quyền hay ủy quyền cho bên thứ ba khi đó mới xác lập hiệu lực thực hiện hợp đồng cho bên thứ ba hay do bên thứ ba thực hiện.
2./Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch dân sự nên muốn có hiệu lực, hợp đồng dân sự phải đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đã được quy định tại điều 122 BLDS năm 2005. Theo quy định trên, thì các hợp đồng dân sự được coi là có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
-Điều kiện về chủ thể
-Điều kiện về mục đích và nội dung
-Điều kiện về ý chí của chủ thể
-Điều kiện về hình thức
a./Người tham gia giao dịch trong hợp đồng dân sự có năng lực hành vi dân sự
Chủ thể của hợp đồng là những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng, có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng, các hệ thống pháp luật đều quy định chủ thể phải có năng lực chủ thể nhất định. Theo đó, yêu cầu chủ thể tham gia hợp đồng “có năng lực hành vi dân sự” là một trong những điều kiện tiên quyết để hợp đồng có hiệu lực. Chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng bao gồm các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, mặt khác năng lực hành vi dân sự để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng của các chủ thể khác nhau là không giống nhau
*Đối với cá nhân: Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia hợp đồng phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự của họ
-Đối với người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Đó là những người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, không bị mất năng lực hành vi dân sự. Người có năng lực hành vi dân sự dầy đủ có toàn quyền trong việc xác lập, thực hiện các hợp đồng dân sự.
-Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi: Khoản 2 điều 20 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp người từ đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lâp, thực hiện hợp đồng dân sự mà không cần có sự đồng ý của người thay mặt theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác ’’. Như vậy, nếu pháp luật có quy định khác thì giao dịch dân sự của người đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi ( mặc dù người này có tài sản riêng đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ ) phải được sự đồng ý của người thay mặt theo pháp luật.
Ngoài ra, nếu phjaps luật quy định với các giao dịch dân sự liên quan đến người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi (mặc dù có người đại diện) buộc phải được sự đồng ý bằng văn bản của người này thì hợp đồng cũng phải đáp ứng quy định này. Chẳng hạn, khoản 2 điều 109 BLDS năm 2005 quy định: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng”.
-Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi, người bị tòa án ra quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự: Người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi được xác định là những người mà sự nhận thức và làm chủ hành vi của mình chưa được đầy đủ, do đó họ có thể có những hạn chế nhất định. Vì lẽ đó, trên cơ sở quy định tại điều 20 BLDS, chúng ta thấy rằng người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi khi xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự phải được người thay mặt theo pháp luật đồng ý, trừ các giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
-Đối với người dưới 6 tuổi, người bị Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự: Những người này không được xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự.
Ngoài ra, khi xem xét đến năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong việc tham gia hợp đồng dân sự cũng cần chú ý đến những trường hợp riêng biệt do pháp luật quy định, đó là tham gia hợp đồng dân sự của người giám hộ, người thay mặt ( vì lợi ích của người được giám hộ, người được đại diện) phải tuân theo các quy định về giám hộ, về thay mặt trong BLDS.
*Đối với pháp nhân:
Pháp nhân là những tổ chức có đủ các điều kiện được qui định tại Điều 84 BLDS 2005. Các pháp nhân là chủ thể đầy đủ của quan hệ pháp luật dân sự có đủ năng lực chủ thể mang tính chuyên biệt, được tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch phù hợp với mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân. Mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân được thể hiện trong điều lệ, hay quyết định thành lập pháp nhân.
Việc tham gia và thực hiện hợp đồng của pháp nhân được thực hiện thông qua người thay mặt theo pháp luật hay thay mặt theo ủy quyền của pháp nhân đó. Người thay mặt theo pháp luật của pháp nhân có thể là người đứng đầu pháp nhân đó ( nếu pháp nhân đó là cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp), đối với pháp nhân là các doanh nghiệp thì thay mặt theo pháp luật là chủ tịch hội đồng quản trị-chủ tịch hội đồng thành viên hay giám đốc, tổng giám đốc tùy thuộc vào quy định trong điều lệ và trong giấy phép đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp đó. Người thay mặt theo pháp luật của pháp nhân tham gia giao kết các hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền được xác định trổng quy định thành lập pháp nhân hay trong điều lệ, nội quy hoạt động của pháp nhân đó. Người thay mặt theo ủy quyền của pháp nhân là người được thay mặt theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền, người này ủy quyền cho pháp nhân để tham gia các hợp đồng dân sự trong phạm vi được ủy quyền.
*Đối với hộ gia đình:
Xuất phát từ việc hộ gia đình là chủ thể hạn chế của chủ thể hạn chế quan hệ pháp luật dân sự nên các hợp đồng dân sự mà các hộ gia đình tham gia phải là những hợp đồng dân sự được phép theo quy định của pháp luật. Hộ gia đình chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Khi tham gia hợp đồng dân sự, chủ hộ (là người thay mặt theo pháp luật của hộ gia đình) cóa thể trực tiếp tham gia hay có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm thay mặt cho hộ gia đình trong hợp đồng dân sự đó. Hộ gia đình chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác theo quy định của pháp luật.
Thông thường, hợp đồng dân sự do chủ hộ hay thành viên đã thành viên khác được chủ hộ ủy quyền xác lập, thực hiện vì lợi ích của hộ gia đình sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình tròn hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, đối với việc định đoạt tư liệu sản xuất hay tài sản chung của hộ gia đình mà có giá trị lớn thì buộc phải có sự đồng ý của các thành viên trong hộ gia đình từ đủ 15 tuổi trở lên, đối với các loại tài sản chung khác phải được sự đồng ý của đa số các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên.
*Đối với tổ hợp tác:
Các hợp đồng dân sự tổ hợp tác tham gia cũng là những hợp đồng bị hạn chế theo quy định của pháp luật. Tổ hợp tác chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến các hoạt đọng sản xuất kinh doanh của tổ. Khi tham gia hợp đồng dân sự , tổ trưởng tổ hợp tác là người thay mặt theo pháp luật của tổ hợp tác. Ngoài việc trực tiếp thay mặt cho tổ hợp tác tham gia hợp đồng dân sự, tổ trưởng tổ hợp tác có thể ủy quyền cho ủy viên thực hiện những công việc cần thiết cho tổ hợp tác. Tuy nhiên, việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý, đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý.
Nhìn chung, để có thể xác lập, thực hiện các hợp đồng, chủ thể là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự thích ứng với loại giao dịch hay loại hợp đồng mà chủ thể đó tham gia. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện hợp đồng thông qua người thay mặt hợp pháp, nhưng phải đúng ‘phạm vi đại diện’ và phải phù hợp với giới hạn về ‘lĩnh vực hoạt động’ của các chủ thể.
b. /Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
BLDS 2005 thừa nhận nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận (Điều 4)
Nhưng để bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác, BLDS 2005 cũng qui định một số trường hợp hạn chế quyền tự do của cá cbên trong việc thiết lập hợp đồng. Theo đó, nội dung và mục đích của hợp đồng (giao dịch dân sự) “không được vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội” (Điểm b, khoản 1 Điều 122).
Mục đích của hợp đồng dân sự là những lợi ích vật chất hay tinh thần mà các bên mong muốn đạt dược khi xác lập hợp đồng đó. Để đạt được mục đích này, trong hợp đồng dân sự có thể ghi nhận các quyền và nghĩa vụ nhất định. Quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng dân sự có thể do một bên đưa ra, cũng có thể do các bên thỏa thuận. Tuy vậy, trong mọi trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Hợp đồng (giao dịch dân sự) “có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu” (Điều 128).
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia hợp đồng được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng. Mục đích của của giao dịch dân sự (hay hợp đồng) là “lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó”.
Điều cấm của pháp luật “là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”. Và đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”. Khái niệm nội dung của hợp đồng là một khái niệm rất rộng. Thường thì nội dung của hợp đồng gồm các điều khoản, như: đối tượng của hợp đồng là tài sản hay công việc; số lượng, chất lượng của đối tượng đó; giá và cách thanh toán; thời hạn, địa điểm thực hiện hợp đồng.
Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán tài sản, mục đích mà các bên hướng tới là quyền sở hữu tài sản. Để đạt được mục đích này đòi hỏi họ phải thỏa thuận được nội dung của hợp đồng mua bán bao gồm các điều khoản như : Đối tượng ( vật bán), giá cả, thời hạn, địa điểm, cách thực hiện hợp đồng. Sự thỏa thuận về các điều khoản đó lại nhằm đạt được mục đích là quyền sở hữu tài sản.
Như vậy, để hợp đồng dân sự có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung của hợp đồng không trái với pháp luật, đạo đức xã hội theo nghĩa rộng : không vi phạm điều cấm của pháp luật , không xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì thế chỉ những tài sản được phép giao dịch , những công việc được phép thực hiện không vi phạm điều cấm pháp luật, không trái với đạo đức xã hội mới là đối tượng của hợp đồng dân sự, những hợp đồng xác lập nhằm trốn tránh pháp luật hay tái với đạo đức xã hội là những hợp đồng có nội dung và mục đích không hợp pháp, không làm phát sinh hiệu lực pháp luật của hợp đồng đó.
c./ Các bên hoàn toàn tự nguyện trong việc giao kết, xác lập hợp đồng
Tự nguyện xác lập, thực hiện hợp đồng là việc chủ thể tự mình quyết định là có tham gia hay không tham gia vào hợp đồng theo nguyện vọng của cá nhân mình, mà không chịu sự chi phối hay sự tác động, can thiệp chủ quan nào từ những người khác. Pháp luật đòi hỏi những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện.
Ý chí tự nguyện của chủ thể là một dấu hiệu thuộc yếu tố chủ quan, nếu không được biểu hiện ra bên ngoài, thì người khác không thể biết được. Có tác giả cho rằng, “tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai mặt của tự nguyện”. Tự nguyện nghĩa là phải có tự do ý chí, tự do “bày tỏ ý chí” và phải có “sự thống nhất giữa ý chí với sự bày tỏ ý chí”. Không có tự do ý chí và sự bày tỏ ý chí hay phá vỡ tính thống nhất giữa hai yếu tố này, thì sẽ không có sự tự nguyện.
Hợp đồng do chủ thể xác lập, thực hiện không tự nguyện, thì có thể bị vô hiệu hay đương nhiên vô hiệu. Những trường hợp không có sự tự nguyện là những trường hợp mà việc xác lập, thực hiện hợp đồng không đúng ý chí đích thực của chủ thể hay không có sự thống nhất giữa ý chí của chủ thể với sự bày tỏ ý chí của chính chủ thể đó ra bên ngoài. Theo qui định của BLDS 2005, hợp đồng bị coi là được xác lập thiếu yếu tố tự nguyện nếu thuộc một trong năm trường hợp sau đây:
-Hợp đồng dân sự được xác lập bởi sự giả tạo : Là hợp đồng dân sự đượ xác lập nhằm che giấu một hợp đồng khác hay để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Trên cơ sở các định mục đích của việc xác lập hợp đồng dân sự giả tạo thì hợp đồng dân sự do giả tạo được phân chia thành hai trường hợp:
+Hợp đồng dân sự được xác lập với mục đích nhằm che giấu một hợp đồng khác. Trong trường hợp này có hai hợp đồng song song tồn tại – đó là hợp đồng đích thực ( bên trong ) và hợp đồng giả tạo ( hợp đồng che giấu, thể hiện ra bên ngoài ). Ví dụ : Ông A tặng cho con út của mình là B một ngôi nhà, nhưng vì lý do tế nhị (sợ rằng điều này có thể là nguyên nhân gây mâu thuẫn giữa những người con), ông A và B đã ký hợp đồng mua bán nhà. Ở đây có hai hợp đồng cùng tồn tại, đó là hợp đồng tặng cho nhà ở (hợp đồng bên trong, hợp đồng đích thực) và hợp đồng mua bán nhà ở (hợp đồng bên ngoài, hợp đồng giả tạo).
=>Hợp đồng giả tạo nhằm che giấu hợp đồng khác luôn luôn vô hiệu, còn hợp đồng đích thực( hợp đồng bên trong) vẫn có hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên, nếu hợp đồng đích thực cũng vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự thì có thể vô hiệu.
+Hợp đồng dân sự được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba: Trong trường hợp này, hợp đồng dân sự được xác lập có sự tự nguyện khi thể hiện ý chí, tuy nhiên sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác. Thông thường, việc trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thường thể hiện ở hai trường hợp: Bản thân chủ thể tham gia hợp đồng dân sự đã tồn tại một nghĩa vụ với chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa vụ này, chủ thể đã xác lập hợp đồng giả tạo( ví dụ :Để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trong một hợp đồng vay tài sản, A đã ký hợp đồng giả tạo bán nhà cho người thân của mình là B để tránh trường hợp ngôi nhà đó có thể bị xử lí để thực hiện nghĩa vụ của A). Và khi tham gia hợp đồng, chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước nhưng chủ thể đã xác lập hợp đồng với sự giả tạo.
III. /Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng dân sự, thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện
Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp do chưa nắm vững các quy định của pháp luật về hợp đồng nên khi xác lập, thực hiện hợp đồng các bên chủ thể không đáp ứng được các yêu cầu của pháp luật thường làm cho hợp đồng rơi vào tình trạng không có hiệu lực. Mặt khác, do không nắm vững được các nghĩa vụ cũng như quyền lợi của mình nên trong quá trình thực hiện hợp đồng các bên thực hiện không đúng hay không đầy đủ nghĩa vụ, làm ảnh hưởng đến lợi ích của bên kia, vì vậy nhiều tranh chấp đáng tiếc xảy ra. Đặc biệt, hợp đồng dân sự vi phạm về hình thức diễn ra hết sức phổ biến trong xã hội và những quy định về hình thức hợp đồng trong pháp luật nước ta vẫn còn nhiều bất cập.
1./Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng dân sự và thực tiễn áp dụng
a./Quy định về hình thức hợp đồng vẫn còn nhiều điểm thiếu sót, chưa nhất quán, chưa đảm bảo lô gích pháp lý giữa các điều luật liên quan
Khoản 2 Điều 122 BLDS 2005 qui định: “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Trong quy định này, nhà làm luật chỉ đề cập đến ‘trường hợp pháp luật có qui định”, mà không dự liệu khả năng khi các bên có thỏa thuận lựa chọn hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Việc quy định như vậy là thiếu sót. Bởi lẽ, pháp luật không cấm các bên thỏa thuận xác lập hợp đồng theo một hình thức xác định. Trong luật thực định, đối với nhiều loại hợp đồng, pháp luật cũng cho phép các bên được tự do lựa chọn hình thức thích hợp để giao kết hợp đồng. Ví dụ: “Hình thức uỷ quyền do các bên thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản” (khoản 2 Điều 142). Trên thực tế, đối với các loại hợp đồng pháp luật không quy định hình thức bắt buộc, thì các bên cũng có quyền thỏa thuận hình thức là một điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Ví dụ: các bên có thể thỏa thuận hợp đồng đặt cọc mua bán nhà, hay hợp đồng mua bán kim cương… phải được lập bằng văn bản theo thủ tục công chứng thì mới có hiệu lực, mặc dù pháp luật không quy định bắt buộc các hợp đồng kể trên phải được lập bằng văn bản có công chứng.
Mặt khác, việc điều luật quy định như vậy cũng đã vi phạm nguyên tắc tự do trong hợp đồng. Tóm lại, hình thức của hợp đồng có thể là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp các bên có thỏa thuận hay pháp luật có qui định. Do đó, điều luật quy địh như vậy là còn thiếu sót.
Khoản 1 Điều 401 qui định: “Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định”. Quy định này vẫn còn dài dòng dẫn đến việc áp dụng điều luật trong thực tiễn kém linh hoạt. Trong thực tế, các bên không chỉ xác lập hợp đồng bằng một hình thức duy nhất là lời nói, văn bản hay hành vi cụ thể mà có thể kết hợp nhiều hình thức trong giao kết hợp đồng.Ví dụ: trong vụ tranh chấp về “hợp đồng bảo hiểm” tại Bản án số 195/2007/KDTM-PT ngày 09/10/2007 của Tòa Phúc thẩm – TANDTC tại Hà Nội, giữa nguyên đơn là Công ty Vật tư vận tải và xây dựng công trình giao thông với bị đơn là Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông. Ngày 20/12/2004, nguyên đơn có ký hợp đồng với bị đơn để mua bảo hiểm tài sản cho 72 chiếc xe máy hiệu STAR (có giá trị là 916.363.656 đồng) mà nguyên đơn đang vận chuyển từ Đồng Nai đi Hà Tây. Việc ký kết hợp đồng được thực hiện bằng cả hai cách: các bên vừa gọi điện thoại trao đổi để ký hợp đồng, đồng thời cũng vừa giao kết hợp đồng bằng văn bản
b./ Qui định về cách thức giải quyết hậu quả pháp lý của các hợp đồng bị vi phạm về hình thức còn nhiều bất cập
Ảnh hưởng của yếu tố hình thức đối với hợp đồng rất đa dạng, có thể làm hợp đồng vô hiệu, hay làm cho hợp đồng không có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, có thể chứng minh được sự tồn tại của hợp đồng, xác định thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Tuy vậy, quy định tại:
Điều 134 BLDS 2005 chỉ đưa ra một cách thức xử lý đối với một trường hợp vi phạm: “khi hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mà các bên không tuân thủ thì theo yêu cầu của một hay các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”.
Có thể thấy, việc xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu về hình thức như trên là chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và không khả thi. Ví dụ: Bản án số 1355/ 2006/DSST ngày 21/12/2006 về “Hợp đồng mua bán nhà”, TAND Tp. Hồ Chí Minh đã cho rằng, khi các bên đã không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng, thì cách tốt nhất là chấp nhận việc chấm dứt hợp đồng, và buộc bên có lỗi làm cho hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Quy định giải pháp khắc phục vi phạm hình thức hợp đồng cũng còn nhiều bất cập, thiếu nhất quán, không phù hợp với thực tiễn.
2./ Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định hiện hành về hình thức hợp đồng
Thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử các tranh chấp liên quan tới hình thức hợp đồng hiện nay còn nhiều bất cập. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm khắc phục tình trạng trên và hoàn thiện pháp luật về hình thức hợp đồng:
-Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 1 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005. Cần sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 401 theo hướng mở rộng và quy định linh hoạt hơn về hình thức hợp đồng, bảo đảm tối đa quyền tự do lựa chọn hình thức hợp đồng của các bên chủ thể.
-Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005
qui định tại khoản 2 Điều 401 còn thiếu sót, và chưa nhất quán với qui định tại khoản 2 Điều 124 Bộ luật Dân sự 2005. Mặt khác, cách qui định mang tính chất liệt kê làm cho khoản 2 Điều 401 vừa dài dòng, vừa không đầy đủ, vì chưa dự liệu được hết mọi hình thức bắt buộc của hợp đồng. Do đó, khoản 2 Điều 401 cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp theo hướng vừa ngắn gọn vừa đảm bảo sự nhất quán.
- Bỏ đoạn 2 khoản 2 Điều 401 và bổ sung quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nếu các bên có thỏa thuận hay pháp luật có quy định. Đoạn 2 khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005 là nội dung gây ra sự mâu thuẫn, và làm vô hiệu hóa các qui định khác về hình thức hợp đồng. Và bổ sung quy định hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng khi các bên có thỏa thuận.
-Giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vi phạm hình thức.
Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định pháp luật về đường lối xử lý hợp đồng vi phạm hình thức vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập, vừa rườm rà, vừa thiếu tính khả thi. Vì vậy, ý kiến kiến nghị ở đây cần sửa đổi, bổ sung qui định tại điều 134 BLDS 2005, bổ sung các tiêu chuẩn cụ thể để Tòa án có căn cứ xem xét, giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.
C.KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy rằng hợp đồng dân sự là vấn đề đóng vai trò quan trọng trong xã hội loài người, đặc biệt là nền kinh tế thị trường hiện nay.Dựa vào bản chất hợp đồng, pháp luật Việt Nam đã quy định các điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực: chủ thể tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự; nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội; các bên tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện;hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật.Nhìn chung, các qui định về vấn đề này trong pháp luật Việt Nam hiện hành đã hoàn thiện về cơ bản. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử việc áp dụng hình thức của hợp đồng vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc. Vì vậy, pháp luật Việt Nam cần có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay để các tranh chấp về hợp đồng xảy ra ít hơn trong cuộc sống.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Trường Đại học luật Hà Nội, giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 2 (NXB Công an nhân dân – 2006).
2) TS. Lê Đình Nghị, giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 1(NXB Giáo dục Việt Nam).
3) TS. Lê Đình Nghị, giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 2 (NXB Giáo dục Việt Nam).
4) Bộ luật Dân sự năm 2005 (NXB Lao động).
5) ThS.LS Lê Kim Giang, Hợp đồng dân sự và các tranh chấp thường gặp (NXB Tư pháp)
MỤC LỤC
Trang
A./LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................1
B.NỘI DUNG..............................................................................................1
I./ Khái quát chung về hợp đồng dân sự....................................................1
1./ Khái niệm................................................................................................1
2/.Bản chất của hợp đồng............................................................................2
II./ Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định
của pháp luật Việt Nan hiện hành..............................................................4
1/.Lý luận chung về hiệu lực hợp đồng dân sự..........................................4
2./Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành............................................................................6
III./Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng
dân sự, thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện.....................16
1./Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng dân
sự và thực tiễn áp dụng.............................................................................16
2./ Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định hiện hành về hình
thức hợp đồng............................................................................................18
C.KẾT LUẬN.............................................................................................20
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
ĐỀ BÀI SỐ : 05
Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
A./LỜI MỞ ĐẦU
Hợp đồng, còn được gọi là “khế ước” chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử nhân loại. Bất kỳ ai nếu muốn sinh tồn trong xã hội hiện đại đều không thể không dùng hình thức hợp đồng để gây lòng tin hay đặt lòng tin với người khác và tiến hành giao dịch. Trong cuộc đời của những con người hiện đại không ngừng thành lập hợp đồng và thực hiện hợp đồng giống như một chu kỳ tuần hoàn không dứt. Bởi vậy nên, đã có người gọi xã hội nay là “xã hội khế ước” và gọi nền kinh tế hiện đại là “kinh tế khế ước”. Dưới điều kiện nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động giao dịch đều tiến hành thông qua giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng các chủ thể căn cứ vào nhu cầu của mình mà giao kết với người khác, chuyển nhượng hàng hóa hay dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của mình. Dưới góc độ sự phát triển kinh tế và xã hội, hợp đồng là cầu nối đã làm cho những tài nguyên xã hội được phân phối một cách tối ưu, đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội. Vô số các giao dịch đã cấu thành một thị trường hoàn chỉnh. Vì vậy, quan hệ hợp đồng là quan hệ pháp luật cơ bản của hợp đồng. Chế định hợp đồng cũng đã trở thành quy phạm pháp luật tối cơ bản mà điều chỉnh quan hệ kinh tế thị trường. Do đó, việc tìm hiểu các điều kiện để một hợp đồng dân sự có hiệu lực là vấn đề quan trọng và có ý nghĩa lớn trên thực tế.
B.NỘI DUNG
I./ Khái quát chung về hợp đồng dân sự
1./ Khái niệm
Điều 388 Bộ luật dân sự (BLDS) quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Qua khái niệm về hợp đồng dân sự, có thể thấy để hình thành hợp đồng dân sự phải có những yếu tố cơ bản sau đây:
- Hợp đồng dân sự phải có sự tham gia của các bên: Hợp đồng là sự thỏa thuận của các chủ thể liên quan đến xác lập các quyền, nghĩa vụ nhằm đem lại lợi ích cho mình hay đem lại lợi ích cho người khác. Nếu như hành vi pháp lý đơn phương chỉ là sự tuyên bố ý chí công khai của một phía chủ thể thì khi tham gia quan hệ hợp đồng, ít nhất phải có hai chủ thể đứng về hai phía của hợp đồng. Ngoài ra trong một số trường hợp, việc tham gia quan hệ hợp đồng có thể có sự xuất hiện của bên thứ ba (hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba).
- Hợp đồng dân sự được hình thành dựa trên cơ sở thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó. Thỏa thuận và thống nhất ý chí là yếu tố cốt lõi để hình thành quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể, thiếu sự thỏa thuận này thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực.
- Hậu quả pháp lý của sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng là nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.
- Sự thỏa thuận giữa các bên không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa.
Định nghĩa trên đây của BLDS 2005 được xem là hợp lý và thuyết phục nhất ở Việt Nam từ trước đến nay vì có nội dung ngắn gọn, chuẩn xác; vừa mang tính khái quát cao, phản ánh đúng bản chất của thuật ngữ ‘hợp đồng’, vừa thể hiện rõ vai trò của hợp đồng như là một căn cứ pháp lý (phổ biến) làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ (dân sự) của các bên.
2/.Bản chất của hợp đồng
Như đã thể hiện trong khái niệm hợp đồng, bản chất của hợp đồng được tạo nên bởi hai yếu tố pháp lý là sự thỏa thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các bên.
a./Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
Hợp đồng là một giao dịch có nhiều bên tham gia để tạo lập sự ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận. Bởi vậy, mặc dù trong luật thực định và trong lý luận có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp đồng, nhưng chung quy lại, tất cả các định nghĩa đó đều thể hiện một quan điểm nhất quán là luôn xem sự thỏa thuận giữa các bên là một trong các yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng. Yếu tố thỏa thuận vừa là nguồn gốc, vừa là cơ sở nền tảng tạo nên hợp đồng. Không có hợp đồng nào mà không do thỏa thuận và không có hợp đồng nào được tạo ra mà thiếu yếu tố thỏa thuận. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng :“yếu tố thỏa thuận giữa các chủ thể là tiền đề của hợp đồng và được xem là tuyệt đối”. Theo nghĩa thông thường, thỏa thuận là “nhất trí, đồng ý với nhau sau khi bàn bạc”.
Trên phương diện pháp lý, để có thể hình thành nên hợp đồng, pháp luật quy định các bên tham gia cùng thương lượng, trao đổi, bàn bạc để đi đến sự nhất trí chung, dựa trên sự đề nghị của một bên và sự chấp nhận hoàn toàn của bên kia. Nhưng sự thỏa thuận với tư cách là một yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng còn có ý nghĩa tích cực hơn so với các khái niệm thương lượng, bàn bạc, đồng ý. Nếu khái niệm “thương lượng” hay “bàn bạc” dùng để chỉ quá trình thương thuyết, giao dịch giữa các bên và khái niệm “đồng ý” dùng để chỉ kết quả của quá trình đó, thì khái niệm “thỏa thuận” ở đây được hiểu là toàn bộ quá trình, từ sự thương lượng đến sự thống nhất ý chí. Đó là quá trình dung hòa giữa ý chí các bên, đi từ sự đồng ý của từng bên đến sự gặp gỡ ý chí của hai hay nhiều bên khác nhau, nhằm đạt được sự nhất trí chung hay sự đồng thuận giữa hai hay nhiều bên đó.
Xét về nội dung, sự thỏa thuận không chỉ là sự nhất trí, đồng ý chung chung mà còn phải có nội dung cụ thể, mục đích rõ ràng, tức phải xác định được bản chất của quan hệ hợp đồng mà các bên muốn xác lập. Theo đó, các bên phải thống nhất về mục đích của hợp đồng là chuyển giao một vật hay làm một vật gì cụ thể. Nếu một bên thể hiện ý chí muốn bán một ngôi nhà mà bên kia chỉ muốn thuê ngôi nhà đó thì không thể có sự gặp gỡ ý chí. Hơn nữa, nếu các bên đồng ý cùng nhau mua bán một ngôi nhà, nhưng không nhất trí được với nhau về giá bán, thời điểm giao kết hợp đồng, thời hạn giao nhà, trả tiền thì hợp đồng chưa chắc được thiết lập.
Tóm lại, thông qua sự thỏa thuận các bên đã làm nên hợp đồng, tức làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. Vì vậy, thỏa thuận vừa là tiền đề làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản cho sự tồn tại hợp đồng.
b. Hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên
một sự thỏa thuận không phải là hợp đồng nếu không tạo nên hiệu lực ràng buộc giữa các bên. Bởi vậy, dấu hiệu thứ hai thể hiện bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên phải nhằm tạo ra một sự ràng buộc pháp lý, tức là sáng tạo ra các quyền và nghĩa vụ mới ngoài những quyền và nghĩa vụ luật định hay làm thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ ấy.
Một sự thỏa thuận mang tính chất xã giao hay một lời hứa danh dự, như lời hứa sẽ tặng quà nhân ngày sinh nhật, hay thỏa thuận sẽ đến dự tiệc ở nhà bạn, hay cùng đi ăn tối với người khác cũng không phải là hợp đồng, vì các thỏa thuận này không tạo ra sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Sự vi phạm lời hứa danh dự hay các cam kết mang tính chất xã giao như trên có thể làm cho người thất hứa bị mất uy tín, bị dư luận chê trách, nhưng không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý và không thể bị áp dụng chế tài dân sự như trường hợp vi phạm hợp đồng.
Tóm lại, mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng không phải sự thỏa thuận nào của các bên cũng là hợp đồng. Chỉ những thỏa thuận tạo ra một sự ràng buộc pháp lý mới được coi là hợp đồng. Bởi vậy, “sự thỏa thuận” và “sự tạo ra một ràng buộc pháp lý” là hai dấu hiệu cơ bản tạo nên bản chất của hợp đồng.
II. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nan hiện hành
1.Lý luận chung về hiệu lực hợp đồng dân sự
Nói về hiệu lực của hợp đồng, điều 1134 BLDS Pháp quy định rằng: “Hợp đồng được thiết lập hợp pháp có hiệu lực như pháp luật cho các bên giao kết ước”.
Hiệu lực hợp đồng, còn được gọi là hiệu lực pháp luật của hợp đồng, là để chỉ sự cưỡng chế của pháp luật đối với các bên đương sự tham gia hợp đồng và thậm chí cả bên thứ ba, theo quy định của pháp luật về vấn đề này có một số điểm cần lưu ý sau:
- Hiệu lực hợp đồng nhìn từ góc độ nguồn luật, là do pháp luật hợp đồng trao cho hợp đồng, đồng thời cũng là sự bảo đảm khả năng cưỡng chế của Nhà nước. Khi người vay nợ vi phạm hợp đồng, pháp luật căn cứ vào đơn yêu cầu của bên không vi phạm, cưỡng chế bên vi phạm hợp đồng thực hiện hợp đồng, hay phải chịu những hậu quả bất lợi khác. Như vậy có thể thấy rằng, hiệu lực hợp đồng không giống như sự ràng buộc của tình hữu nghị, hay ràng buộc của đạo đức.
- Hiệu lực hợp đồng nhìn từ góc độ thể hiện của ý chí, đó là biểu hiện của sự thừa nhận của pháp luật đối với sự thống nhất về ý chí của các bên đương sự. Đồng thời cũng là căn cứ và ủng hộ các bên đương sự nhằm thỏa mãn yêu cầu muốn “ tìm kiếm” pháp luật. Nó cũng là kết quả của việc đưa ý chí của bản thân phù hợp với ý chí Nhà nước. Khi ý chí của các bên đương sự thống nhất hữu cơ với ý chí của Nhà nước, thì sự thể hiện cao nhất đó chính là thể hiện của đương sự. VD: Cho phép đương sự căn cứ theo ý muốn của bản thân hạn chế phạm vi hiệu lực của hợp đồng, cho phép đương sự tự do lựa chọn cách giao hàng, cho phép đương sụ sửa đổi hợp đồng hay chuyển nhượng nghĩa vụ quyền lợi... Tất cả những điều này thể hiện rõ hiệu lực hợp đồng chỉ là sự cụ thể hóa hiệu lực pháp luật, chứ không phải bản thân hiệu lực pháp luật
-Hiệu lực hợp đồng với tư cách là biểu hiện của pháp luật, đánh giá sự nhất trí của các bên đương sự , là một vấn đề hết sức phức tạp: Khi pháp luật khẳng định sự đánh giá vừa ý đối với các bên đương sự thì sẽ phát sinh hiệu quả pháp luật như đương sự mong muốn, các bên đương sự sẽ được hưởng quyền lợi, quyền lợi mà điều khoản hợp đồng ràng buộc, còn khi pháp luật phủ định sự vừa ý đối với các bên đương sự thì sẽ nảy sinh hậu quả không có hiệu lực của hợp đồng.
-Hiệu lực hợp đồng, tức là khả năng cưỡng chế của pháp luật đối với các đương sự có sự ràng buộc, thậm chí là bên thứ ba trong hợp đồng. Có thể chia thành sự ràng buộc giữa các bên đương sự và sự ràng buộc đối với bên thứ ba.
Sự ràng buộc của hợp đồng đối với các bên đương sự bao gồm:
+Nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các đương sự
+Bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm vi phạm theo hợp đồng
+Các bên đương sự không được tự ý thay đổi hay hủy hợp đồng, không thể tự ý chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của hợp đồng
+Đương sự có quyền lợi yêu cầu, trao đổi, quyền xử lý nợ
Hợp đông có hiệu lực đối với bên thứ ba, trong những trường hợp thông thường nó được thể hiện là bất kỳ một bên thứ ba nào cũng không được xâm hại quyền trong hợp đồng. Khi người có quyền trong hợp đồng tự hủy bỏ quyền hay ủy quyền cho bên thứ ba khi đó mới xác lập hiệu lực thực hiện hợp đồng cho bên thứ ba hay do bên thứ ba thực hiện.
2./Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch dân sự nên muốn có hiệu lực, hợp đồng dân sự phải đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đã được quy định tại điều 122 BLDS năm 2005. Theo quy định trên, thì các hợp đồng dân sự được coi là có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
-Điều kiện về chủ thể
-Điều kiện về mục đích và nội dung
-Điều kiện về ý chí của chủ thể
-Điều kiện về hình thức
a./Người tham gia giao dịch trong hợp đồng dân sự có năng lực hành vi dân sự
Chủ thể của hợp đồng là những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng, có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng, các hệ thống pháp luật đều quy định chủ thể phải có năng lực chủ thể nhất định. Theo đó, yêu cầu chủ thể tham gia hợp đồng “có năng lực hành vi dân sự” là một trong những điều kiện tiên quyết để hợp đồng có hiệu lực. Chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng bao gồm các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, mặt khác năng lực hành vi dân sự để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng của các chủ thể khác nhau là không giống nhau
*Đối với cá nhân: Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia hợp đồng phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự của họ
-Đối với người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Đó là những người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, không bị mất năng lực hành vi dân sự. Người có năng lực hành vi dân sự dầy đủ có toàn quyền trong việc xác lập, thực hiện các hợp đồng dân sự.
-Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi: Khoản 2 điều 20 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp người từ đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lâp, thực hiện hợp đồng dân sự mà không cần có sự đồng ý của người thay mặt theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác ’’. Như vậy, nếu pháp luật có quy định khác thì giao dịch dân sự của người đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi ( mặc dù người này có tài sản riêng đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ ) phải được sự đồng ý của người thay mặt theo pháp luật.
Ngoài ra, nếu phjaps luật quy định với các giao dịch dân sự liên quan đến người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi (mặc dù có người đại diện) buộc phải được sự đồng ý bằng văn bản của người này thì hợp đồng cũng phải đáp ứng quy định này. Chẳng hạn, khoản 2 điều 109 BLDS năm 2005 quy định: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng”.
-Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi, người bị tòa án ra quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự: Người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi được xác định là những người mà sự nhận thức và làm chủ hành vi của mình chưa được đầy đủ, do đó họ có thể có những hạn chế nhất định. Vì lẽ đó, trên cơ sở quy định tại điều 20 BLDS, chúng ta thấy rằng người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi khi xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự phải được người thay mặt theo pháp luật đồng ý, trừ các giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
-Đối với người dưới 6 tuổi, người bị Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự: Những người này không được xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự.
Ngoài ra, khi xem xét đến năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong việc tham gia hợp đồng dân sự cũng cần chú ý đến những trường hợp riêng biệt do pháp luật quy định, đó là tham gia hợp đồng dân sự của người giám hộ, người thay mặt ( vì lợi ích của người được giám hộ, người được đại diện) phải tuân theo các quy định về giám hộ, về thay mặt trong BLDS.
*Đối với pháp nhân:
Pháp nhân là những tổ chức có đủ các điều kiện được qui định tại Điều 84 BLDS 2005. Các pháp nhân là chủ thể đầy đủ của quan hệ pháp luật dân sự có đủ năng lực chủ thể mang tính chuyên biệt, được tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch phù hợp với mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân. Mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân được thể hiện trong điều lệ, hay quyết định thành lập pháp nhân.
Việc tham gia và thực hiện hợp đồng của pháp nhân được thực hiện thông qua người thay mặt theo pháp luật hay thay mặt theo ủy quyền của pháp nhân đó. Người thay mặt theo pháp luật của pháp nhân có thể là người đứng đầu pháp nhân đó ( nếu pháp nhân đó là cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp), đối với pháp nhân là các doanh nghiệp thì thay mặt theo pháp luật là chủ tịch hội đồng quản trị-chủ tịch hội đồng thành viên hay giám đốc, tổng giám đốc tùy thuộc vào quy định trong điều lệ và trong giấy phép đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp đó. Người thay mặt theo pháp luật của pháp nhân tham gia giao kết các hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền được xác định trổng quy định thành lập pháp nhân hay trong điều lệ, nội quy hoạt động của pháp nhân đó. Người thay mặt theo ủy quyền của pháp nhân là người được thay mặt theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền, người này ủy quyền cho pháp nhân để tham gia các hợp đồng dân sự trong phạm vi được ủy quyền.
*Đối với hộ gia đình:
Xuất phát từ việc hộ gia đình là chủ thể hạn chế của chủ thể hạn chế quan hệ pháp luật dân sự nên các hợp đồng dân sự mà các hộ gia đình tham gia phải là những hợp đồng dân sự được phép theo quy định của pháp luật. Hộ gia đình chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Khi tham gia hợp đồng dân sự, chủ hộ (là người thay mặt theo pháp luật của hộ gia đình) cóa thể trực tiếp tham gia hay có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm thay mặt cho hộ gia đình trong hợp đồng dân sự đó. Hộ gia đình chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác theo quy định của pháp luật.
Thông thường, hợp đồng dân sự do chủ hộ hay thành viên đã thành viên khác được chủ hộ ủy quyền xác lập, thực hiện vì lợi ích của hộ gia đình sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình tròn hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, đối với việc định đoạt tư liệu sản xuất hay tài sản chung của hộ gia đình mà có giá trị lớn thì buộc phải có sự đồng ý của các thành viên trong hộ gia đình từ đủ 15 tuổi trở lên, đối với các loại tài sản chung khác phải được sự đồng ý của đa số các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên.
*Đối với tổ hợp tác:
Các hợp đồng dân sự tổ hợp tác tham gia cũng là những hợp đồng bị hạn chế theo quy định của pháp luật. Tổ hợp tác chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến các hoạt đọng sản xuất kinh doanh của tổ. Khi tham gia hợp đồng dân sự , tổ trưởng tổ hợp tác là người thay mặt theo pháp luật của tổ hợp tác. Ngoài việc trực tiếp thay mặt cho tổ hợp tác tham gia hợp đồng dân sự, tổ trưởng tổ hợp tác có thể ủy quyền cho ủy viên thực hiện những công việc cần thiết cho tổ hợp tác. Tuy nhiên, việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý, đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý.
Nhìn chung, để có thể xác lập, thực hiện các hợp đồng, chủ thể là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự thích ứng với loại giao dịch hay loại hợp đồng mà chủ thể đó tham gia. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện hợp đồng thông qua người thay mặt hợp pháp, nhưng phải đúng ‘phạm vi đại diện’ và phải phù hợp với giới hạn về ‘lĩnh vực hoạt động’ của các chủ thể.
b. /Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
BLDS 2005 thừa nhận nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận (Điều 4)
Nhưng để bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác, BLDS 2005 cũng qui định một số trường hợp hạn chế quyền tự do của cá cbên trong việc thiết lập hợp đồng. Theo đó, nội dung và mục đích của hợp đồng (giao dịch dân sự) “không được vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội” (Điểm b, khoản 1 Điều 122).
Mục đích của hợp đồng dân sự là những lợi ích vật chất hay tinh thần mà các bên mong muốn đạt dược khi xác lập hợp đồng đó. Để đạt được mục đích này, trong hợp đồng dân sự có thể ghi nhận các quyền và nghĩa vụ nhất định. Quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng dân sự có thể do một bên đưa ra, cũng có thể do các bên thỏa thuận. Tuy vậy, trong mọi trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Hợp đồng (giao dịch dân sự) “có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu” (Điều 128).
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia hợp đồng được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng. Mục đích của của giao dịch dân sự (hay hợp đồng) là “lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó”.
Điều cấm của pháp luật “là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”. Và đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”. Khái niệm nội dung của hợp đồng là một khái niệm rất rộng. Thường thì nội dung của hợp đồng gồm các điều khoản, như: đối tượng của hợp đồng là tài sản hay công việc; số lượng, chất lượng của đối tượng đó; giá và cách thanh toán; thời hạn, địa điểm thực hiện hợp đồng.
Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán tài sản, mục đích mà các bên hướng tới là quyền sở hữu tài sản. Để đạt được mục đích này đòi hỏi họ phải thỏa thuận được nội dung của hợp đồng mua bán bao gồm các điều khoản như : Đối tượng ( vật bán), giá cả, thời hạn, địa điểm, cách thực hiện hợp đồng. Sự thỏa thuận về các điều khoản đó lại nhằm đạt được mục đích là quyền sở hữu tài sản.
Như vậy, để hợp đồng dân sự có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung của hợp đồng không trái với pháp luật, đạo đức xã hội theo nghĩa rộng : không vi phạm điều cấm của pháp luật , không xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì thế chỉ những tài sản được phép giao dịch , những công việc được phép thực hiện không vi phạm điều cấm pháp luật, không trái với đạo đức xã hội mới là đối tượng của hợp đồng dân sự, những hợp đồng xác lập nhằm trốn tránh pháp luật hay tái với đạo đức xã hội là những hợp đồng có nội dung và mục đích không hợp pháp, không làm phát sinh hiệu lực pháp luật của hợp đồng đó.
c./ Các bên hoàn toàn tự nguyện trong việc giao kết, xác lập hợp đồng
Tự nguyện xác lập, thực hiện hợp đồng là việc chủ thể tự mình quyết định là có tham gia hay không tham gia vào hợp đồng theo nguyện vọng của cá nhân mình, mà không chịu sự chi phối hay sự tác động, can thiệp chủ quan nào từ những người khác. Pháp luật đòi hỏi những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện.
Ý chí tự nguyện của chủ thể là một dấu hiệu thuộc yếu tố chủ quan, nếu không được biểu hiện ra bên ngoài, thì người khác không thể biết được. Có tác giả cho rằng, “tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai mặt của tự nguyện”. Tự nguyện nghĩa là phải có tự do ý chí, tự do “bày tỏ ý chí” và phải có “sự thống nhất giữa ý chí với sự bày tỏ ý chí”. Không có tự do ý chí và sự bày tỏ ý chí hay phá vỡ tính thống nhất giữa hai yếu tố này, thì sẽ không có sự tự nguyện.
Hợp đồng do chủ thể xác lập, thực hiện không tự nguyện, thì có thể bị vô hiệu hay đương nhiên vô hiệu. Những trường hợp không có sự tự nguyện là những trường hợp mà việc xác lập, thực hiện hợp đồng không đúng ý chí đích thực của chủ thể hay không có sự thống nhất giữa ý chí của chủ thể với sự bày tỏ ý chí của chính chủ thể đó ra bên ngoài. Theo qui định của BLDS 2005, hợp đồng bị coi là được xác lập thiếu yếu tố tự nguyện nếu thuộc một trong năm trường hợp sau đây:
-Hợp đồng dân sự được xác lập bởi sự giả tạo : Là hợp đồng dân sự đượ xác lập nhằm che giấu một hợp đồng khác hay để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Trên cơ sở các định mục đích của việc xác lập hợp đồng dân sự giả tạo thì hợp đồng dân sự do giả tạo được phân chia thành hai trường hợp:
+Hợp đồng dân sự được xác lập với mục đích nhằm che giấu một hợp đồng khác. Trong trường hợp này có hai hợp đồng song song tồn tại – đó là hợp đồng đích thực ( bên trong ) và hợp đồng giả tạo ( hợp đồng che giấu, thể hiện ra bên ngoài ). Ví dụ : Ông A tặng cho con út của mình là B một ngôi nhà, nhưng vì lý do tế nhị (sợ rằng điều này có thể là nguyên nhân gây mâu thuẫn giữa những người con), ông A và B đã ký hợp đồng mua bán nhà. Ở đây có hai hợp đồng cùng tồn tại, đó là hợp đồng tặng cho nhà ở (hợp đồng bên trong, hợp đồng đích thực) và hợp đồng mua bán nhà ở (hợp đồng bên ngoài, hợp đồng giả tạo).
=>Hợp đồng giả tạo nhằm che giấu hợp đồng khác luôn luôn vô hiệu, còn hợp đồng đích thực( hợp đồng bên trong) vẫn có hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên, nếu hợp đồng đích thực cũng vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự thì có thể vô hiệu.
+Hợp đồng dân sự được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba: Trong trường hợp này, hợp đồng dân sự được xác lập có sự tự nguyện khi thể hiện ý chí, tuy nhiên sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác. Thông thường, việc trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thường thể hiện ở hai trường hợp: Bản thân chủ thể tham gia hợp đồng dân sự đã tồn tại một nghĩa vụ với chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa vụ này, chủ thể đã xác lập hợp đồng giả tạo( ví dụ :Để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trong một hợp đồng vay tài sản, A đã ký hợp đồng giả tạo bán nhà cho người thân của mình là B để tránh trường hợp ngôi nhà đó có thể bị xử lí để thực hiện nghĩa vụ của A). Và khi tham gia hợp đồng, chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước nhưng chủ thể đã xác lập hợp đồng với sự giả tạo.
III. /Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng dân sự, thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện
Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp do chưa nắm vững các quy định của pháp luật về hợp đồng nên khi xác lập, thực hiện hợp đồng các bên chủ thể không đáp ứng được các yêu cầu của pháp luật thường làm cho hợp đồng rơi vào tình trạng không có hiệu lực. Mặt khác, do không nắm vững được các nghĩa vụ cũng như quyền lợi của mình nên trong quá trình thực hiện hợp đồng các bên thực hiện không đúng hay không đầy đủ nghĩa vụ, làm ảnh hưởng đến lợi ích của bên kia, vì vậy nhiều tranh chấp đáng tiếc xảy ra. Đặc biệt, hợp đồng dân sự vi phạm về hình thức diễn ra hết sức phổ biến trong xã hội và những quy định về hình thức hợp đồng trong pháp luật nước ta vẫn còn nhiều bất cập.
1./Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng dân sự và thực tiễn áp dụng
a./Quy định về hình thức hợp đồng vẫn còn nhiều điểm thiếu sót, chưa nhất quán, chưa đảm bảo lô gích pháp lý giữa các điều luật liên quan
Khoản 2 Điều 122 BLDS 2005 qui định: “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Trong quy định này, nhà làm luật chỉ đề cập đến ‘trường hợp pháp luật có qui định”, mà không dự liệu khả năng khi các bên có thỏa thuận lựa chọn hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Việc quy định như vậy là thiếu sót. Bởi lẽ, pháp luật không cấm các bên thỏa thuận xác lập hợp đồng theo một hình thức xác định. Trong luật thực định, đối với nhiều loại hợp đồng, pháp luật cũng cho phép các bên được tự do lựa chọn hình thức thích hợp để giao kết hợp đồng. Ví dụ: “Hình thức uỷ quyền do các bên thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản” (khoản 2 Điều 142). Trên thực tế, đối với các loại hợp đồng pháp luật không quy định hình thức bắt buộc, thì các bên cũng có quyền thỏa thuận hình thức là một điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Ví dụ: các bên có thể thỏa thuận hợp đồng đặt cọc mua bán nhà, hay hợp đồng mua bán kim cương… phải được lập bằng văn bản theo thủ tục công chứng thì mới có hiệu lực, mặc dù pháp luật không quy định bắt buộc các hợp đồng kể trên phải được lập bằng văn bản có công chứng.
Mặt khác, việc điều luật quy định như vậy cũng đã vi phạm nguyên tắc tự do trong hợp đồng. Tóm lại, hình thức của hợp đồng có thể là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp các bên có thỏa thuận hay pháp luật có qui định. Do đó, điều luật quy địh như vậy là còn thiếu sót.
Khoản 1 Điều 401 qui định: “Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định”. Quy định này vẫn còn dài dòng dẫn đến việc áp dụng điều luật trong thực tiễn kém linh hoạt. Trong thực tế, các bên không chỉ xác lập hợp đồng bằng một hình thức duy nhất là lời nói, văn bản hay hành vi cụ thể mà có thể kết hợp nhiều hình thức trong giao kết hợp đồng.Ví dụ: trong vụ tranh chấp về “hợp đồng bảo hiểm” tại Bản án số 195/2007/KDTM-PT ngày 09/10/2007 của Tòa Phúc thẩm – TANDTC tại Hà Nội, giữa nguyên đơn là Công ty Vật tư vận tải và xây dựng công trình giao thông với bị đơn là Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông. Ngày 20/12/2004, nguyên đơn có ký hợp đồng với bị đơn để mua bảo hiểm tài sản cho 72 chiếc xe máy hiệu STAR (có giá trị là 916.363.656 đồng) mà nguyên đơn đang vận chuyển từ Đồng Nai đi Hà Tây. Việc ký kết hợp đồng được thực hiện bằng cả hai cách: các bên vừa gọi điện thoại trao đổi để ký hợp đồng, đồng thời cũng vừa giao kết hợp đồng bằng văn bản
b./ Qui định về cách thức giải quyết hậu quả pháp lý của các hợp đồng bị vi phạm về hình thức còn nhiều bất cập
Ảnh hưởng của yếu tố hình thức đối với hợp đồng rất đa dạng, có thể làm hợp đồng vô hiệu, hay làm cho hợp đồng không có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, có thể chứng minh được sự tồn tại của hợp đồng, xác định thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Tuy vậy, quy định tại:
Điều 134 BLDS 2005 chỉ đưa ra một cách thức xử lý đối với một trường hợp vi phạm: “khi hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mà các bên không tuân thủ thì theo yêu cầu của một hay các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”.
Có thể thấy, việc xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu về hình thức như trên là chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và không khả thi. Ví dụ: Bản án số 1355/ 2006/DSST ngày 21/12/2006 về “Hợp đồng mua bán nhà”, TAND Tp. Hồ Chí Minh đã cho rằng, khi các bên đã không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng, thì cách tốt nhất là chấp nhận việc chấm dứt hợp đồng, và buộc bên có lỗi làm cho hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Quy định giải pháp khắc phục vi phạm hình thức hợp đồng cũng còn nhiều bất cập, thiếu nhất quán, không phù hợp với thực tiễn.
2./ Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định hiện hành về hình thức hợp đồng
Thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử các tranh chấp liên quan tới hình thức hợp đồng hiện nay còn nhiều bất cập. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm khắc phục tình trạng trên và hoàn thiện pháp luật về hình thức hợp đồng:
-Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 1 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005. Cần sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 401 theo hướng mở rộng và quy định linh hoạt hơn về hình thức hợp đồng, bảo đảm tối đa quyền tự do lựa chọn hình thức hợp đồng của các bên chủ thể.
-Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005
qui định tại khoản 2 Điều 401 còn thiếu sót, và chưa nhất quán với qui định tại khoản 2 Điều 124 Bộ luật Dân sự 2005. Mặt khác, cách qui định mang tính chất liệt kê làm cho khoản 2 Điều 401 vừa dài dòng, vừa không đầy đủ, vì chưa dự liệu được hết mọi hình thức bắt buộc của hợp đồng. Do đó, khoản 2 Điều 401 cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp theo hướng vừa ngắn gọn vừa đảm bảo sự nhất quán.
- Bỏ đoạn 2 khoản 2 Điều 401 và bổ sung quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nếu các bên có thỏa thuận hay pháp luật có quy định. Đoạn 2 khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005 là nội dung gây ra sự mâu thuẫn, và làm vô hiệu hóa các qui định khác về hình thức hợp đồng. Và bổ sung quy định hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng khi các bên có thỏa thuận.
-Giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vi phạm hình thức.
Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định pháp luật về đường lối xử lý hợp đồng vi phạm hình thức vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập, vừa rườm rà, vừa thiếu tính khả thi. Vì vậy, ý kiến kiến nghị ở đây cần sửa đổi, bổ sung qui định tại điều 134 BLDS 2005, bổ sung các tiêu chuẩn cụ thể để Tòa án có căn cứ xem xét, giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.
C.KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy rằng hợp đồng dân sự là vấn đề đóng vai trò quan trọng trong xã hội loài người, đặc biệt là nền kinh tế thị trường hiện nay.Dựa vào bản chất hợp đồng, pháp luật Việt Nam đã quy định các điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực: chủ thể tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự; nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội; các bên tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện;hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật.Nhìn chung, các qui định về vấn đề này trong pháp luật Việt Nam hiện hành đã hoàn thiện về cơ bản. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử việc áp dụng hình thức của hợp đồng vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc. Vì vậy, pháp luật Việt Nam cần có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay để các tranh chấp về hợp đồng xảy ra ít hơn trong cuộc sống.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Trường Đại học luật Hà Nội, giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 2 (NXB Công an nhân dân – 2006).
2) TS. Lê Đình Nghị, giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 1(NXB Giáo dục Việt Nam).
3) TS. Lê Đình Nghị, giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 2 (NXB Giáo dục Việt Nam).
4) Bộ luật Dân sự năm 2005 (NXB Lao động).
5) ThS.LS Lê Kim Giang, Hợp đồng dân sự và các tranh chấp thường gặp (NXB Tư pháp)
MỤC LỤC
Trang
A./LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................1
B.NỘI DUNG..............................................................................................1
I./ Khái quát chung về hợp đồng dân sự....................................................1
1./ Khái niệm................................................................................................1
2/.Bản chất của hợp đồng............................................................................2
II./ Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định
của pháp luật Việt Nan hiện hành..............................................................4
1/.Lý luận chung về hiệu lực hợp đồng dân sự..........................................4
2./Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành............................................................................6
III./Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng
dân sự, thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện.....................16
1./Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng dân
sự và thực tiễn áp dụng.............................................................................16
2./ Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định hiện hành về hình
thức hợp đồng............................................................................................18
C.KẾT LUẬN.............................................................................................20
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: