Download Khóa luận miễn phí
LỜI MỞ ĐẦU 1
MỤC LỤC 2
PHẦN CHUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT BỒN TRŨNG CỬU LONG 4
1.1 Vị trí địa lý 4
1.2 Lịch sử nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí 5
1.3 Đặc điểm địa tầng 10
1.4 Đặc điểm cấu kiến tạo bồn trũng Cửu Long 17
1.5 Lịch sử phát triển địa chất bồn trũng Cửu Long 21
PHẦN CHUYÊN ĐỀ
CHƯƠNG II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐỊA HÓA TRONG NGHIÊN CỨU ĐÁ MẸ 27
2.1 Phương pháp nghiên cứu 27
2.2 Đá mẹ 28
2.3 Nhóm các phương pháp địa hóa đánh giá đá mẹ 33
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐỊA HÓA TÀI LIỆU GIẾNG KHOAN THUỘC BỒN TRŨNG CỬU LONG 40
3.1 Giếng khoan Bạch Hổ 15 45
3.2 Giếng khoan Bạch Hổ 09 49
3.3 Điểm M 53
3.4 Liên kết các sơ đồ lịch sử chôn vùi VCHC thuộc lô 9.1 57
KẾT LUẬN 59
DANH MỤC HÌNH ẢNH – BIỂU BẢNG 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
ị phân cắt bởi các đứt gãy kiến tạo có phương ĐB-TN, gần như vuông góc với phương của đứt gãy trong trũng phân dị Bạc Liêu.
Đới nâng Cửu Long nằm về phía Đông của trũng phân dị Bạc Liêu và Cà Cối, phân tách hai trũng này với trũng chính của bể Cửu Long. Đới nâng có chiều dày trầm tích không đáng kể, chủ yếu là trầm tích hệ tầng Đồng Nai và Biển Đông. Đới nâng không có tiền đề, dấu hiệu dầu khí vì vậy đã không được nghiên cứu chi tiết và không xác định sự phát triển các đứt gãy kiến tạo.
Các đơn vị cấu trúc vửa nêu được xem là rất ít hay không có triển vọng dầu khí, vì vậy chúng ít khi được đề cập đến trong các công trình không được xem như một đơn vị cấu thành của bể Cửu Long.
Đới nâng Phú Quý được xem như phần kéo dài của đới nâng Côn Sơn về phía Đông Bắc, thuộc lô 01 và 02. Đây là đới nâng cổ, có vai trò khép kín và phân tách bể Cửu Long với phần phía Bắc của bể Nam Côn Sơn. Tuy nhiên, vào giai đoạn Neogene – Đệ Tứ thì diện tích này lại thuộc phần mở của bể Cửu Long. Chiều dày trầm tích thuộc khu vực đới nâng này dao động từ 1,5 đến 2km. Cấu trúc của đới bị ảnh hưởng khá mạnh bởi các hoạt động núi lửa, kể các núi lửa trẻ.
Trũng chính Cửu Long. Đây là phần lún chìm chính của bể, chiếm tới ¾ diện tích bể, gồm các lô 01, 02, 09, 17. Theo đường đẳng dày 2 km thì trũng chính bể Cửu Long thể hiện rõ nét là một bể khép kín có dạng trăng khuyết với vòng cung hướng ra về phía Đông Nam. Toàn bộ triển vọng dầu khí đều tập trung ở trũng này. Vì vậy, cấu trúc của trũng được nghiên cứu khá chi tiết và được phân chia ra thành các đơn vị cấu trúc nhỏ hơn như một bể độc lập thực thụ. Các đơn vị cấu tạo bậc 3 gồm: trũng Đông Bắc; trũng Tây Bạch Hổ; trũng Đông Bạch Hổ; sườn nghiêng Tây Bắc; sườn nghiêng Đông Nam; đới nâng Trung Tâm; đới nâng phía Bắc; đới nâng phía Đông; đới phân dị Đông Bắc; đới phân dị Tây Nam.
Sườn nghiêng Tây Bắc là dải sườn bờ Tây Bắc của bể kéo dài theo hướng TB-ĐN, chiều dày trầm tích tăng dần về phía Tây Nam từ 1 đến 2,5 km. Sườn nghiêng bị cắt xẻ bởi các đứt gãy kiến tạo có hướng ĐB-TN hay TB-ĐN, tạo thành các mũi nhô. Trầm tích Đệ Tam của bể thường có xu hướng vát nhọn và gá đáy lên móng cổ granitoid trước Kainozoi.
Sườn nghiêng Đông Nam là dải sườn bờ Đông Nam của bể, tiếp giáp với đới nâng Côn Sơn. Trầm tích của đới này có xu hướng vát nhọn và gá đáy với chiều dày trầm tích dao động từ 1 đến 2,5 km. Sườn nghiêng này cũng bị phức tạp bởi các đứt gãy kiến tạo có phương ĐB-TN và á vĩ tuyến tạo nên các cấu tạo địa phương như cấu tạo Amethyst, Cá Ông Đôim, Opal, Sói.
Trũng Đông Bắc, đây là trũng sâu nhất, chiều dày trầm tích có thể đạt tới 8 km. Trũng có phương kéo dài dọc theo trục chính của bể, nằm kẹp giữa 2 đới nâng và chịu khống chế bởi hệ thống các đứt gãy chính hướng ĐB-TN.
Trũng Tây Bạch Hổ. Trong một số tài liệu trũng này được ghép chung với trũng Đông Bắc. Tuy nhiên, về đặc thù kiến tạo giữa hai trũng có sự khác biệt đáng kể đặc biệt là phương của các đứt gãy kiến tạo chính. Trũng Tây Bạch Hổ bị khống chế bởi các đứt gãy kiến tạo có phương á vĩ tuyến, tạo sự gấp khúc của bể. Chiều dày trầm tích của trũng này có thể đạt tới 7,5 km.
Trũng Đông Bạch Hổ nằm kẹp giữa đới nâng Trung Tâm về phía Tây, sườn nghiêng Đông Nam về phía Đông- Đông Nam và đới nâng Đông Bắc về phía Bắc. Trũng có chiều dày trầm tích đạt tới 7 km và là một trong ba trung tâm tách giãn của bể.
Đới nâng Trung Tâm là đới nâng nằm kẹp giữa 2 trũng Đông và Tây Bạch Hổ và được giới hạn bởi các đứt gãy có biên độ lớn với hướng đổ chủ yếu về hướng Đông Nam. Đới nâng bao gồm các cấu tạo dương và có liên quan đến những khối nâng cổ trước Kainozoi như: Bạch Hổ, Rồng. Các cấu tạo bị chi phối không chỉ bởi các đứt gãy thuận hình thành trong quá trình tách giãn, mà còn bởi các đứt gãy trượt bằng và chờm nghịch do ảnh hưởng của sự siết ép vào Oligocene muộn.
Đới nâng phía Tây Bắc nằm về phía Tây Bắc của trũng Đông Bắc và được khống chế bởi các đứt gãy chính phương ĐB-TN. Về phía TB đới nâng bị ngăn cách bởi một địa hào nhỏ có chiều dày trầm tích khoảng 6km. Đới nâng bao gồm cấu tạo Vừng Đông và dải nâng kéo dài về phía Đông Bắc.
Đới nâng phía Đông chạy dài theo hướng ĐB-TN, phía TB ngăn cách với trũng ĐB bởi hệ thống đứt gãy có phương á vĩ tuyến và ĐB-TN, phía ĐN ngăn cách với đới phân dị Đông Bắc bởi võng nhỏ, xem như phần kéo dài của trũng Đông Bạch Hổ về phía Đông Bắc. Trên đới nâng đã phát hiện được các cấu tạo dương như: rạng Đông, Phương Đông và Jade.
Đới phân dị Đông Bắc (phần đầu Đông Bắc của bể) nằm kẹp giữa đới nâng Đông Phú Quý và sườn nghiêng Tây Bắc. Đây là khu vực có chiều dày trầm tích trung bình và phân dị mạnh bởi các hệ thống đứt gãy có đường phương ĐB-TN, á kinh tuyến và á vĩ tuyến tạo thành nhiều địa hào, địa lũy nhỏ (theo bề mặt móng). Một số các cấu tạo dương địa phương đã xác định như: Hồng Ngọc, Pearl, Turquoise, Diamond, Agate.
Đới phân dị Tây Nam nằm về đầu Tây Nam của trũng chính. Khác với đới phân dị ĐB, đới này bị phân dị mạnh bởi hệ thống những đứt gãy với đường phương chủ yếu là á vĩ tuyến tạo thành những địa hào, địa lũy, hay bán địa hào, bán địa lũy xen kẽ nhau. Những cấu tạo có quy mô lớn trong đới này phải kể đến: Đu Đủ, Tam Đảo, Bà Đen và Ba Vì.
Các cấu tạo địa phương bậc 4 là đối tượng tìm kiếm và thăm dò dầu khí chính của bể.
1.5. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA CHẤT BỒN TRŨNG CỬU LONG
Bể trầm tích Cửu Long là bể rift nội lục điển hình. Bể được hình thành và phát triển trên mặt đá kết tinh trước Kainozoic (thường được gọi là mặt móng). Đặc điểm cấu trúc của bể thể hiện trên bản đồ cấu trúc mặt móng – CL80. Các bản đồ cấu trúc mặt không chỉnh hợp trong Oligocence trên – CL52, nóc Oligocene – CL50, Miocene dưới – CL40, có thể thấy rõ quá trình phát triển bể.
Thời kỳ trước tạo rift. Trước Đệ Tam, đặc biệt từ Jura muộn đến Paleocene là thời gian thành tạo và nâng cao đá móng magma xâm nhập (các thành tạo nằm dưới các trầm tích Kainozoic ở bể Cửu Long). Các đá này gặp rất phổ biến ở hầu khắp lục địa Nam Việt Nam.
Do ảnh hưởng của quá trình va mảng Ấn Độ vào mảng Âu-Á và hình thành đới hút chìm dọc cung Sunda (50÷43,5 triệu năm). Các thành tạo đá xâm nhập, phun trào Mesozoic muộn – Kainozoic sớm và trầm tích cổ trước đó đã trãi qua thời kỳ dài bóc mòn, giập vỡ khối tảng, căng giãn khu vực hướng TB-ĐN. Sự phát triển các đai mạch lớn, kéo dài có hướng ĐB-TN thuộc phức hệ Cù Mông và Phan Rang tuổi tuyệt đối 60÷30 triệu năm đã minh chứng cho điều đó. Đây là giai đoạn san bằng địa hình trước khi hình thành bể trầm tích Cửu Long. Địa hình bề mặt bóc mòn của đá móng kết tinh trong phạm vi khu vực bể lúc này không hoàn toà...
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
LỜI MỞ ĐẦU 1
MỤC LỤC 2
PHẦN CHUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT BỒN TRŨNG CỬU LONG 4
1.1 Vị trí địa lý 4
1.2 Lịch sử nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí 5
1.3 Đặc điểm địa tầng 10
1.4 Đặc điểm cấu kiến tạo bồn trũng Cửu Long 17
1.5 Lịch sử phát triển địa chất bồn trũng Cửu Long 21
PHẦN CHUYÊN ĐỀ
CHƯƠNG II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐỊA HÓA TRONG NGHIÊN CỨU ĐÁ MẸ 27
2.1 Phương pháp nghiên cứu 27
2.2 Đá mẹ 28
2.3 Nhóm các phương pháp địa hóa đánh giá đá mẹ 33
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐỊA HÓA TÀI LIỆU GIẾNG KHOAN THUỘC BỒN TRŨNG CỬU LONG 40
3.1 Giếng khoan Bạch Hổ 15 45
3.2 Giếng khoan Bạch Hổ 09 49
3.3 Điểm M 53
3.4 Liên kết các sơ đồ lịch sử chôn vùi VCHC thuộc lô 9.1 57
KẾT LUẬN 59
DANH MỤC HÌNH ẢNH – BIỂU BẢNG 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
ị phân cắt bởi các đứt gãy kiến tạo có phương ĐB-TN, gần như vuông góc với phương của đứt gãy trong trũng phân dị Bạc Liêu.
Đới nâng Cửu Long nằm về phía Đông của trũng phân dị Bạc Liêu và Cà Cối, phân tách hai trũng này với trũng chính của bể Cửu Long. Đới nâng có chiều dày trầm tích không đáng kể, chủ yếu là trầm tích hệ tầng Đồng Nai và Biển Đông. Đới nâng không có tiền đề, dấu hiệu dầu khí vì vậy đã không được nghiên cứu chi tiết và không xác định sự phát triển các đứt gãy kiến tạo.
Các đơn vị cấu trúc vửa nêu được xem là rất ít hay không có triển vọng dầu khí, vì vậy chúng ít khi được đề cập đến trong các công trình không được xem như một đơn vị cấu thành của bể Cửu Long.
Đới nâng Phú Quý được xem như phần kéo dài của đới nâng Côn Sơn về phía Đông Bắc, thuộc lô 01 và 02. Đây là đới nâng cổ, có vai trò khép kín và phân tách bể Cửu Long với phần phía Bắc của bể Nam Côn Sơn. Tuy nhiên, vào giai đoạn Neogene – Đệ Tứ thì diện tích này lại thuộc phần mở của bể Cửu Long. Chiều dày trầm tích thuộc khu vực đới nâng này dao động từ 1,5 đến 2km. Cấu trúc của đới bị ảnh hưởng khá mạnh bởi các hoạt động núi lửa, kể các núi lửa trẻ.
Trũng chính Cửu Long. Đây là phần lún chìm chính của bể, chiếm tới ¾ diện tích bể, gồm các lô 01, 02, 09, 17. Theo đường đẳng dày 2 km thì trũng chính bể Cửu Long thể hiện rõ nét là một bể khép kín có dạng trăng khuyết với vòng cung hướng ra về phía Đông Nam. Toàn bộ triển vọng dầu khí đều tập trung ở trũng này. Vì vậy, cấu trúc của trũng được nghiên cứu khá chi tiết và được phân chia ra thành các đơn vị cấu trúc nhỏ hơn như một bể độc lập thực thụ. Các đơn vị cấu tạo bậc 3 gồm: trũng Đông Bắc; trũng Tây Bạch Hổ; trũng Đông Bạch Hổ; sườn nghiêng Tây Bắc; sườn nghiêng Đông Nam; đới nâng Trung Tâm; đới nâng phía Bắc; đới nâng phía Đông; đới phân dị Đông Bắc; đới phân dị Tây Nam.
Sườn nghiêng Tây Bắc là dải sườn bờ Tây Bắc của bể kéo dài theo hướng TB-ĐN, chiều dày trầm tích tăng dần về phía Tây Nam từ 1 đến 2,5 km. Sườn nghiêng bị cắt xẻ bởi các đứt gãy kiến tạo có hướng ĐB-TN hay TB-ĐN, tạo thành các mũi nhô. Trầm tích Đệ Tam của bể thường có xu hướng vát nhọn và gá đáy lên móng cổ granitoid trước Kainozoi.
Sườn nghiêng Đông Nam là dải sườn bờ Đông Nam của bể, tiếp giáp với đới nâng Côn Sơn. Trầm tích của đới này có xu hướng vát nhọn và gá đáy với chiều dày trầm tích dao động từ 1 đến 2,5 km. Sườn nghiêng này cũng bị phức tạp bởi các đứt gãy kiến tạo có phương ĐB-TN và á vĩ tuyến tạo nên các cấu tạo địa phương như cấu tạo Amethyst, Cá Ông Đôim, Opal, Sói.
Trũng Đông Bắc, đây là trũng sâu nhất, chiều dày trầm tích có thể đạt tới 8 km. Trũng có phương kéo dài dọc theo trục chính của bể, nằm kẹp giữa 2 đới nâng và chịu khống chế bởi hệ thống các đứt gãy chính hướng ĐB-TN.
Trũng Tây Bạch Hổ. Trong một số tài liệu trũng này được ghép chung với trũng Đông Bắc. Tuy nhiên, về đặc thù kiến tạo giữa hai trũng có sự khác biệt đáng kể đặc biệt là phương của các đứt gãy kiến tạo chính. Trũng Tây Bạch Hổ bị khống chế bởi các đứt gãy kiến tạo có phương á vĩ tuyến, tạo sự gấp khúc của bể. Chiều dày trầm tích của trũng này có thể đạt tới 7,5 km.
Trũng Đông Bạch Hổ nằm kẹp giữa đới nâng Trung Tâm về phía Tây, sườn nghiêng Đông Nam về phía Đông- Đông Nam và đới nâng Đông Bắc về phía Bắc. Trũng có chiều dày trầm tích đạt tới 7 km và là một trong ba trung tâm tách giãn của bể.
Đới nâng Trung Tâm là đới nâng nằm kẹp giữa 2 trũng Đông và Tây Bạch Hổ và được giới hạn bởi các đứt gãy có biên độ lớn với hướng đổ chủ yếu về hướng Đông Nam. Đới nâng bao gồm các cấu tạo dương và có liên quan đến những khối nâng cổ trước Kainozoi như: Bạch Hổ, Rồng. Các cấu tạo bị chi phối không chỉ bởi các đứt gãy thuận hình thành trong quá trình tách giãn, mà còn bởi các đứt gãy trượt bằng và chờm nghịch do ảnh hưởng của sự siết ép vào Oligocene muộn.
Đới nâng phía Tây Bắc nằm về phía Tây Bắc của trũng Đông Bắc và được khống chế bởi các đứt gãy chính phương ĐB-TN. Về phía TB đới nâng bị ngăn cách bởi một địa hào nhỏ có chiều dày trầm tích khoảng 6km. Đới nâng bao gồm cấu tạo Vừng Đông và dải nâng kéo dài về phía Đông Bắc.
Đới nâng phía Đông chạy dài theo hướng ĐB-TN, phía TB ngăn cách với trũng ĐB bởi hệ thống đứt gãy có phương á vĩ tuyến và ĐB-TN, phía ĐN ngăn cách với đới phân dị Đông Bắc bởi võng nhỏ, xem như phần kéo dài của trũng Đông Bạch Hổ về phía Đông Bắc. Trên đới nâng đã phát hiện được các cấu tạo dương như: rạng Đông, Phương Đông và Jade.
Đới phân dị Đông Bắc (phần đầu Đông Bắc của bể) nằm kẹp giữa đới nâng Đông Phú Quý và sườn nghiêng Tây Bắc. Đây là khu vực có chiều dày trầm tích trung bình và phân dị mạnh bởi các hệ thống đứt gãy có đường phương ĐB-TN, á kinh tuyến và á vĩ tuyến tạo thành nhiều địa hào, địa lũy nhỏ (theo bề mặt móng). Một số các cấu tạo dương địa phương đã xác định như: Hồng Ngọc, Pearl, Turquoise, Diamond, Agate.
Đới phân dị Tây Nam nằm về đầu Tây Nam của trũng chính. Khác với đới phân dị ĐB, đới này bị phân dị mạnh bởi hệ thống những đứt gãy với đường phương chủ yếu là á vĩ tuyến tạo thành những địa hào, địa lũy, hay bán địa hào, bán địa lũy xen kẽ nhau. Những cấu tạo có quy mô lớn trong đới này phải kể đến: Đu Đủ, Tam Đảo, Bà Đen và Ba Vì.
Các cấu tạo địa phương bậc 4 là đối tượng tìm kiếm và thăm dò dầu khí chính của bể.
1.5. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA CHẤT BỒN TRŨNG CỬU LONG
Bể trầm tích Cửu Long là bể rift nội lục điển hình. Bể được hình thành và phát triển trên mặt đá kết tinh trước Kainozoic (thường được gọi là mặt móng). Đặc điểm cấu trúc của bể thể hiện trên bản đồ cấu trúc mặt móng – CL80. Các bản đồ cấu trúc mặt không chỉnh hợp trong Oligocence trên – CL52, nóc Oligocene – CL50, Miocene dưới – CL40, có thể thấy rõ quá trình phát triển bể.
Thời kỳ trước tạo rift. Trước Đệ Tam, đặc biệt từ Jura muộn đến Paleocene là thời gian thành tạo và nâng cao đá móng magma xâm nhập (các thành tạo nằm dưới các trầm tích Kainozoic ở bể Cửu Long). Các đá này gặp rất phổ biến ở hầu khắp lục địa Nam Việt Nam.
Do ảnh hưởng của quá trình va mảng Ấn Độ vào mảng Âu-Á và hình thành đới hút chìm dọc cung Sunda (50÷43,5 triệu năm). Các thành tạo đá xâm nhập, phun trào Mesozoic muộn – Kainozoic sớm và trầm tích cổ trước đó đã trãi qua thời kỳ dài bóc mòn, giập vỡ khối tảng, căng giãn khu vực hướng TB-ĐN. Sự phát triển các đai mạch lớn, kéo dài có hướng ĐB-TN thuộc phức hệ Cù Mông và Phan Rang tuổi tuyệt đối 60÷30 triệu năm đã minh chứng cho điều đó. Đây là giai đoạn san bằng địa hình trước khi hình thành bể trầm tích Cửu Long. Địa hình bề mặt bóc mòn của đá móng kết tinh trong phạm vi khu vực bể lúc này không hoàn toà...

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
You must be registered for see links