Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng sự nghiệp
đổi mới kinh tế-xã hội của đất nước mà nội dung cơ bản là chuyển dịch từ nền
kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN), công nhận sự đa dạng của các hình thức sở hữu, tạo điều
kiện để mở rộng sản xuất hàng hóa và dịch vụ, thực hiện chính sách mở cửa
trong quan hệ quốc tế.
Trong hơn 20 năm qua, phù hợp và đáp ứng quá trình chuyển đổi kinh tế-
xã hội, chính sách phát triển giáo dục đại học (GDĐH) cũng đã và đang trong
quá trình tự đổi mới. GDĐH đã triển khai nhiều chủ trương và biện pháp quan
trọng, trong đó phải kể đến việc thực hiện dân chủ hóa nhà trường; điều chỉnh
mục tiêu, cấu trúc lại chương trình đào tạo; xây dựng các trường đại học kiểu
mới; thực hiện quy trình đào tạo mới, áp dụng học chế tín chỉ; đa dạng hóa các
loại hình đào tạo, kết gắn các hoạt động đào tạo với nghiên cứu khoa học và lao
động sản xuất…
Mặc dù đã có những cố gắng nhưng nhìn chung, sự chuyển biến của chính
sách phát triển GDĐH còn chậm so với các yêu cầu mới nẩy sinh từ sự nghiệp
công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước. Một trong những nguyên
nhân của sự chậm trễ này là do chính sách phát triển GDĐH còn nhiều hạn chế.
Vì vậy, việc lựa chọn vấn đề “ Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại
học ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ khoa học kinh tế là vấn đề
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn bức xúc.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
10
2. Tổng quan nghiên cứu
Vấn đề chính sách phát triển GDĐH đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế
giới đề cập đến. Có thể khái quát trên một số vấn đề chính sau đây:
Thứ nhất, các nhà kinh tế học hiện đại quan niệm, sản phẩm giáo dục là
một loại dịch vụ, trong nền kinh tế thị trường cần đặt nó trong môi trường cạnh
tranh để lựa chọn được những dịch vụ tốt. Về vấn đề này có lẽ Milton Friedman
(1912-2006), giáo sư Trường Đại học Chicago (Mỹ), là nhà kinh tế học đầu tiên
nêu lên. Theo ông, giống như mọi hàng hóa mang tính dịch vụ khác, sản phẩm
giáo dục cần được đặt trong môi trường cạnh tranh để đào thải những sản phẩm
xấu và phát triển những dịch vụ tốt. Tính chất công của giáo dục, theo ông, nên
đặt trong sự quản lý của chính phủ bằng việc phân phối ngân sách, quy định các
khuôn khổ pháp lý, cung cấp phiếu giáo dục…. Các trường, học viện sẽ là đơn vị
cung cấp sản phẩm như chương trình, môi trường học…để người tiêu dùng (phụ
huynh và người học) đưa ra quyết định cuối cùng. Tư tưởng của M. Friedman
ngay lập tức được GDĐH tiếp cận và thể hiện trong chính sách phát triển của nó
với hai lý do chính:
- Ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra ý nghĩa quan trọng của
nguồn lực con người trong phát triển kinh tế, trên cơ sở đó khẳng định đầu tư
cho giáo dục-đào tạo là đầu tư vào nguồn vốn con người, đầu tư cho phát triển và
đầu tư cho tương lai. Gary S. Becker-nhà kinh tế học người Mỹ được giải thưởng
Nobel về kinh tế năm 1992, Schultz (1961), Denison (1962), B.F. Kiker (1972),
Gareth William (1984), George Psacharopoulos và Maureen Woodhall (1985),
Jacques Hallak (1990), Bruce E. Kaufman và Julie L Hotchkis (2000)..., trước đó
11
nữa là Ricardo, Adam Smith đều thống nhất đầu tư cho giáo dục-đào tạo và việc
nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế, bao gồm cả việc giải quyết vấn đề dinh
dưỡng và kế hoạch hoá gia đình, được xem như quá trình đầu tư cơ bản. G.S.
Becker cho rằng, việc đến trường học một khoá máy tính hay việc chi tiêu cho
việc chăm sóc y tế cũng là thể hiện của hoạt động đầu tư vì việc cải thiện tình
trạng sức khoẻ sẽ dẫn đến việc nâng cao thu nhập là yếu tố theo đuổi suốt cuộc
đời của mỗi con người. Như thế, nó hoàn toàn đúng với quan niệm và định nghĩa
truyền thống của hoạt động đầu tư. Vì vậy, chi tiêu cho giáo dục, đào tạo hay cho
hoạt động chăm sóc y tế đều có thể nói đó là chi đầu tư cơ bản. Các báo cáo
nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ cho chiều
hướng này.
Hiệp định thương mại chung GATS của WTO đã xếp GDĐH vào lĩnh vực
dịch vụ. Một nghiên cứu gần đây của Jane Kninght (Trung tâm Phát triển Giáo
dục Quốc tế, Viện Ontarino về nghiên cứu giáo dục thuộc Trường Đại học
Toronto, Canada) đã cho rằng, hoạt động GDĐH đã di chuyển qua biên giới giữa
các quốc gia trong nhiều năm thông qua hợp tác phát triển, trao đổi tri thức và
bây giờ là các mục tiêu thương mại. Đó là một thực tế mà GDĐH cần đối mặt và
hành động.
Do vai trò quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia và
ưu thế trong tìm kiếm việc làm của những người có bằng cấp học vị cao, GDĐH
trên thế giới những năm qua đã có những phát triển vượt bậc. Một trong những
ghi nhận của sự phát triển là quá trình mở rộng quy mô của GDĐH. Số liệu
thống kê qua các năm cho biết, tỷ lệ tăng quy mô sinh viên đại học hàng năm
bình quân của các nước Tây Âu khoảng 10% trong suốt thời kỳ những năm 1960
và đã tăng lên gấp đôi trong thập kỷ 70. Ở hầu hết các nước đang phát triển, tỷ lệ
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
12
tăng trưởng quy mô sinh viên hàng năm cũng rất cao. Đối với các nước có mức
thu nhập bình quân đầu người thấp và trung bình, tỷ lệ tăng trưởng khoảng
6.2%/năm; các nước có mức thu nhập cao, tỷ lệ này là 7.3%/năm. Theo số liệu
thống kê của Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc
(UNESCO), tổng quy mô sinh viên của bậc đại học trên toàn thế giới là 13 triệu
vào năm 1960; 28 triệu vào năm 1970; 46 triệu vào năm 1980 và 65 triệu vào
năm 1991. Chỉ tính các nước đang phát triển, năm 1960 tổng quy mô sinh viên là
3 triệu, đã tăng lên 7 triệu vào năm 1970, rồi 16 triệu vào năm 1980 và đạt 30
triệu vào năm 1991.
Thứ hai, sự gia tăng quy mô trong điều kiện nguồn lực hạn hẹp đã làm cho
chất lượng giáo dục đại học bị đe doạ, đặt các chính phủ phải tự tìm ra phương
hướng và giải pháp(chính sách) riêng cho quốc gia của họ. Theo tổng kết của
World Bank, tựu trung các phương hướng và giải pháp của các quốc gia gồm
những khía cạnh sau:
- Tăng cường đa dạng hoá của cơ sở đào tạo đại học, mà chủ yếu là thay
đổi các nhiệm vụ của nhà trường đại học và phát triển các cơ sở đào tạo đại học
mới phi chuẩn.
- Đa phương hoá việc tài trợ cho các cơ sở của giáo dục đại học và xác
định vai trò nhà nước đối với giáo dục đại học thông qua chính sách tài chính để
can thiệp trực tiếp vào kết quả đào tạo của các nhà trường đại học. Việc đa
phương hoá được thực hiện theo 3 nội dung: huy động tối đa nguồn tài chính tư
nhân; thu hồi chi phí đào tạo thông qua hỗ trợ tài chính cho các sinh viên (cho
vay sinh viên) và nâng cao hiệu quả của việc cấp phát, sử dụng các nguồn lực
của giáo dục đại học.
13
- Tập trung vào các khía cạnh chất lượng, sự thích ứng và tính công bằng
trong giáo dục đại học.
Theo Bikas C.Sanyal (1995), những bài học về xây dựng chính sách phát
triển GDĐH trên thế giới trong những năm qua có thể khái quát trong 6 điểm: i).
Hợp nhất các trường đại học nhỏ để thành lập đại học lớn hơn, đào tạo đa ngành,
đa lĩnh vực (xảy ra ở Trung quốc, Australia, Hà Lan và Anh....); ii). cải tổ về
quản lý trường đại học (xảy ra ở hầu hết các nước); iii). đa dạng hoá các loại
hình đào tạo đại học (chủ yếu diễn ra ở các nước đang phát triển; các nước Đông
Nam Á, Trung Đông và Nam Mỹ); iv). đa phương hoá nguồn lực (được áp dụng
ở tất cả các nước trên thế giới nhưng chủ yếu là nhóm nước có thu nhập thấp);
v). xác định lại vai trò nhà nước trong phát triển giáo dục đại học và vi). tập
trung chủ yếu vào những vấn đề chất lượng và hiệu quả.
Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986. Cho đến
nay, số lượng các công trình nghiên cứu về những vấn đề đặt ra đối với chính
sách phát triển GDĐH còn rất khiêm tốn với những quan điểm trái ngược nhau.
Một số người cho rằng thị trường GDĐH tồn tại trong nền KTTT định hướng
XHCN có tính tất yếu như Giáo sư Trần Phương, Giáo sư Phạm Phụ, Giáo sư Lê
Thành Khôi (UNESCO Paris), Tiến sỹ Vũ Quang Việt (Chuyên gia cao cấp Cơ
quan Thống kê của Liên hợp quốc...); ngược lại một số khác phủ nhân sự tồn tại
này như Giáo sư Phạm Minh Hạc, Giáo sư Hoàng Tụy, Giáo sư Bùi Trọng Liễu
(Đại học Paris).... Các quan điểm phần lớn được thể hiện thông qua các bài đăng
tải trên các báo, tạp chí chuyên ngành và một số sách chuyên khảo nên cả về
dung lượng, phạm vi, nội dung và phương pháp tiếp cận còn rất hạn chế. Hầu
như các bài viết chỉ dừng lại ở góc độ tranh luận, nêu quan điểm hay khai thác
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
14
thông tin nên chưa góp phần hệ thống hóa thành cơ sở lý luận đặt nền móng cho
việc xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển GDĐH trong môi trường mới.
3. Mục tiêu của luận án
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về chính sách phát triển giáo dục đại học
trong điều kiện kinh tế thị trường;
- Đánh giá thực trạng chính sách phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam
những năm đổi mới vừa qua, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
hạn chế của chính sách phát triển giáo dục đại học.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách
phát triển giáo dục đại học ở nước ta những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là chính sách phát triển GDĐH dưới
góc độ kinh tế-chính trị, bao gồm các khía cạnh: Quan điểm, mục tiêu, nguyên
tắc, nội dung, phương pháp và các điều kiện bảo đảm cho quá trình hoạch định,
tổ chức thực hiện chính sách phát triển giáo dục đại học ở nước ta.
Chính sách phát triển giáo dục đại học có phạm vi rộng. Luận án này tiếp cận
chính sách phát triển giáo dục với các nội dung cơ bản là chính sách tăng trưởng,
chính sách chất lượng và chính sách cơ cấu trong phát triển giáo dục đại học.
Về thời gian, luận án chủ yếu đề cập tới thực trạng chính sách phát triển
giáo dục đại học từ khi đổi mới đến nay và khuyến nghị cho những năm tới.
15
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu chính sách phát triển GDĐH nằm trong phạm vi của lĩnh vực
khoa học liên ngành, bao gồm kinh tế học, chính trị học, quản trị học, xã hội học,
giáo dục học, khoa học lịch sử và các khoa học khác....
- Sử dụng cách tiếp cận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, với công cụ
trừu tượng hóa, kết hợp giữa phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, đối chiếu,
so sánh để phân tích làm rõ những kết quả nghiên cứu của luận án.
- Thu thập thông tin, số liệu thống kê, tư liệu, kế thừa các kết quả nghiên
cứu của các cuộc điều tra, khảo sát đã được công bố, các thông tin từ kỷ yếu hội
nghị hội thảo quốc tế, khu vực và trong nước để đưa ra các kinh nghiệm quốc tế,
đánh giá thực trạng chính sách phát triển GDĐH ở Việt nam hiện nay, làm căn
cứ cho các kiến nghị về phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách phát
triển GDĐH những năm tới.
6. Những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu
1. Về khía cạnh lý thuyết, luận án xây dựng khung lý thuyết phân tích và
đánh giá chính sách phát triển giáo dục đại học trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam phù hợp với những nguyên
tắc cơ bản của kinh tế thị trường, nhằm thúc đẩy hệ thống giáo dục đại học phát
triển nhanh, hiệu quả, bền vững và hội nhập quốc tế thành công.
2. Về khía cạnh thực tiễn, luận án chỉ ra các bất cập của những chính sách
phát triển giáo dục đại học liên quan đến các vấn đề tăng trưởng, cơ cấu và chất
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
16
lượng, đặc biệt là bất cập về quy trình và năng lực đội ngũ cán bộ làm chính
sách. Luận án đề xuất những quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện
chính sách phát triển giáo dục đại học ở nước ta những năm tới với những nội
dung sau:
i). Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách
quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển
của Việt Nam vào quản lý và quản trị đại học.
ii). Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế giáo dục
đại học; giữa các yếu tố thị trường và các mục tiêu phúc lợi xã hội của giáo dục
đại học; giữa thể chế giáo dục đại học với thể chế chính trị, xã hội; giữa nhà
nước, thị trường, xã hội và giáo dục đại học; giữa chất lượng, hiệu quả và công
bằng xã hội trong giáo dục đại học thông qua việc hình thành, phát triển và từng
bước hoàn thiện mô hình “giả thị trường” giáo dục đại học.
iii). Ðổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý giáo dục đại học của
Nhà nước, chuyển từ nhà nước quản lý sang nhà nước giám sát giáo dục đại học
phù hợp với những yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập giáo dục đại học quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
Vận dụng và phát huy mặt tích cực, hạn chế, ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị
trường trong lĩnh vực giáo dục đại học.
iv). Đổi mới tổ chức thiết kế và thực thi chính sách phát triển giáo dục đại
học; nâng cao vai trò của các chủ thể trong bộ máy nhà nước và ngoài bộ máy
nhà nước, bao gồm các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã
hội, nghề nghiệp và đặc biệt các trường đại học trong xây dựng chính sách giáo
17
dục đại học. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo điều
kiện để các chủ thể ngoài bộ máy nhà nước tham gia có hiệu quả vào quá trình
hoạch định, thực thi và giám sát thực hiện chính sách phát triển giáo dục đại học.
7. Bố cục của luận án
Luận án bao gồm phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chính sách phát triển giáo dục đại
học trong điều kiện kinh tế thị trường.
Chương 2: . Thực trạng chính sách phát triển giáo dục đại học ở Việt
Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách phát
triển giáo dục đại học ở Việt Nam những năm tới.
CHƯƠNG 1
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
18
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ
1.1.1. Đặc điểm của giáo dục đại học trong điều kiện kinh tế thị trường
Giáo dục và đào tạo là bộ phận quan trọng nhất trong văn hóa của một
quốc gia; liên quan chặt chẽ đến văn minh, phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo
quốc phòng-an ninh và sự ổn định chính trị của mỗi đất nước. Vì vậy, chính phủ,
nhân dân ở tất cả các nước trên thế giới, cũng như các tổ chức quốc tế đều có sự
quan tâm đặc biệt đến phát triển giáo dục và đào tạo.
Giáo dục đại học (GDĐH) là bậc học sau cùng trong hệ thống giáo dục và
đào tạo của mỗi nước; đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, bao gồm các nhà
khoa học, các chuyên gia, kỹ sư và những cán bộ chuyên môn kỹ thuật ở các
trình độ khác nhau. GDĐH không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và vì
vậy, không trực tiếp tạo ra các sản phẩm vật chất. Tuy nhiên, theo phân công lao
động xã hội, GDĐH là nơi duy nhất có đủ điều kiện và đủ khả năng cung cấp
nguồn nhân lực kỹ thuật chất lượng và trình độ chuyên môn cao cho nền kinh tế.
GDĐH làm tăng giá trị cho mỗi cá nhân thông qua việc trang bị cho họ tài khéo
léo, sự hiểu biết để làm ra nhiều của cải vật chất hơn cho bản thân và cho xã hội,
gắn liền với sự bảo đảm quyền được sống và được làm việc với năng suất lao
động cao hơn của mỗi người.
19
Theo Manuel Castell (1991), GDĐH có ba chức năng quan trọng. Trước
hết, nó bảo tồn các nền văn hoá và tri thức nhân loại; tái tạo hay phản biÖn ý
thức hệ chi phối của quốc gia. Thứ hai, nã lựa chọn những người ưu tú giíi thiÖu
cho ®Êt n-íc và cuèi cïng, nã s¸ng t¹o ra kho tµng tri thức mới. GDĐH không
chỉ cải thiện những lựa chọn cá nhân sẵn có cho tất cả mọi người, mà cßn tạo ra
một lực lượng lao động có năng lực sáng tạo, biết chắt lọc và áp dụng các tri
thức thu được từ kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học vào sản xuất và
đời sống. GDĐH góp phần làm tăng năng suất lao động và nâng cao mức sống
cho toàn bộ các thành viên trong xã hội; gãp phÇn xoá bỏ khoảng cách thu nhập
giữa người giàu và người cùng kiệt th«ng qua viÖc trang bÞ cho người häc những tri
thức và kỹ năng cần thiết để kiếm sống.
GDĐH có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phồn thịnh của một nền kinh
tế hiện đại- nền “kinh tế tri thức”, ®-îc dù b¸o sÏ ngày càng cã ý nghÜa quyết
định ®Õn sự thịnh v-îng cña nh©n lo¹i trong tương lai. Liªn HiÖp quèc x¸c ®Þnh
giáo dục nãi chung, GDĐH nãi riªng là quyền con người [65, tr.227-237]; là
phương tiện phát triển riêng của mỗi cá nhân, phương tiện xây dựng nền văn
hoá, chia sẻ truyền thống và cung cấp sức mạnh cho xã hội nói chung và là một
phương tiện tích luỹ tài sản và khả năng cạnh tranh của cá nhân và xã hội
(Bowen, 1980; Scott, 1998).
Trong nền KTTT ở Việt Nam, GDĐH vừa là một quá trình, vừa là một
hành động. Là một hành động, GDĐH được thực hiện dưới hình thức cung cấp
sức lao động của các giáo sư, giảng viên cho người học và người học mua lao
động của người dạy bằng phí, học phí, hay đóng thuế để nhà nước trả công, trả
lương cho họ. Dưới góc độ phân công lao động xã hội trong nền sản xuất hàng
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
20
hoá, loại lao động giảng dạy của các giáo sư, giảng viên không sản xuất ra tư
bản. Theo K. Marx, đó là loại lao động phi sản xuất và khi trao đổi, nó được
mua-bán như một dịch vụ và hàng hoá thông thường. K. Marx viết: “Trong
trường hợp tiền trực tiếp được trao đổi lấy loại lao động sản xuất không sản xuất
ra tư bản, do đó là lao động phi sản xuất thì lao động ấy được mua như là một
dịch vụ. Biểu hiện ấy nói chung chẳng qua là giá trị sử dụng đặc biệt mà lao
động ấy cung cấp, giống như mọi hàng hoá khác”[36, tr.98].
Như vậy, sản phẩm GDĐH là một loại dịch vụ và nó có đầy đủ tính chất
kinh tế như các loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khác, bởi vì theo K. Marx,
bản thân những dịch vụ ấy cũng giống như những hàng hoá ông mua, có thể là
cần thiết hay có thể chỉ có vẻ là cần thiết-ví dụ, những dịch vụ của người lính,
hay của thầy thuốc, hay của luật sư-hay chúng có thể là những dịch vụ đem
lại khoái cảm cho ông. Nhưng điều đó tuyệt nhiên không làm thay đổi tính chất
kinh tế của chúng [36, tr.99]. Dịch vụ GDĐH được diễn ra thông qua sự tác động
trực tiếp từ người dạy đến người học. Quá trình cung ứng dịch vụ cũng đồng
thời là quá trình tiêu thụ dịch vụ.
Sản phẩm dịch vụ GDĐH là đối tượng nghiên cứu của kinh tế học giáo
dục. Người đầu tiên đặt nền móng cho việc nghiên cứu các vấn đề về kinh tế học
GDĐH là William Petty (1623-1687)-người mà sau này được Karl Marx gọi là
“cha đẻ của nền kinh tế chính trị học nước Anh”. W. Petty đã tính ước lượng
hiệu suất của các hạng người lao động. Theo ông, ở Hà Lan, nhà nông, thuỷ thủ,
nhà binh, thợ thủ công và thương nhân là cột trụ thực sự của cơ nghiệp quốc gia.
Người thuỷ thủ giá trị bằng ba các người khác, vì họ không chỉ đi biển, mà lại là
nhà buôn và nhà binh. Ở Anh, nhà nông chỉ được khoảng 4 shillings một tuần,
21
người thuỷ thủ được tới 12. Trên cơ sở lý thuyết của W. Petty, những nhà kinh tế
học sau này như Adam Smith (1723-1790), Stuart Mill (1806-1873), Karl Marx
(1818-1883), Alfred Marshall (1842-1924) đều nhấn mạnh giá trị của lao động,
giá trị kinh tế của con người, của giáo dục-đào tạo nói chung và GDĐH nói
riêng.
Khi xem xét GDĐH như một loại dịch vụ, người ta đã trừu tượng hoá nội
dung của nó, chỉ nghiên cứu nó dưới ý nghĩa là một hành vi cung ứng sản phẩm
lao động của người này cho người kia nhằm thoả mãn một lợi ích cụ thể nào đó.
K. Mark viết:
Nếu tui mua dịch vụ của thày giáo-hay những người khác mua
dịch vụ ấy cho tôi-không phải để phát triển các năng lực của tôi, mà
là để có được khả năng kiếm tiền, và nếu khi làm như vậy tui thật sự
lĩnh hội được điều gì đó-điều này nó hoàn toàn không phụ thuộc vào
việc trả tiền cho dịch vụ này-thì những chi phí cho việc học tập ấy,
cũng như các chi phí vào việc nuôi tui đều thuộc những chi phí sản
xuất ra sức lao động của tôi. Nhưng tính chất hữu ích đặc biệt của
dịch vụ ấy không hề làm thay đổi quan hệ kinh tế đó, và nó không
phải là quan hệ mà trong đó tiền sẽ được tui biến thành tư bản hoặc
thông qua quan hệ ấy người thực hiện dịch vụ, thày giáo, sẽ biến tôi
thành nhà tư bản của mình, thành người chủ của mình. Do vậy đối
với tính chất kinh tế của quan hệ đó thì hoàn toàn không cần thiết
xem thầy thuốc có chữa khỏi bệnh cho tui hay không, thày giáo có
dạy tui đạt kết quả hay không, luật sư có làm cho tui thắng kiện hay
không. Ở đây người ta trả tiền cho bản thân dịch vụ, xét về bản chất
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
22
của chính nó thì kết quả của dịch vụ ấy không được người cung cấp
dịch vụ đảm bảo. Việc trả công cho đại bộ phận các dịch vụ thuộc
những chi phí tiêu dùng các hàng hoá, ví dụ, những dịch vụ của bà
đầu bếp, của người hầu gái v.v..[36, tr.97].
Theo Adam Smith, trong xã hội không ai cung ứng sản phẩm lao động của
mình không công cho người khác. Vì vậy, người mua dịch vụ GDĐH phải trả
phí sử dụng dịch vụ. Thứ phí đó là để bù đắp chi phí lao động cần thiết (bao gồm
lao động sống và lao động vật hoá) để sản xuất ra dịch vụ.
Là một loại sản phẩm dịch vụ, GDĐH có đầy đủ các tính chất kinh tế giống
như các loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khác, nhưng nó không thích hợp với
việc mua-bán hàng hoá, bởi vì theo K. Marx:
Những dịch vụ, nói cách khác, những giá trị sử dụng thuộc loại nào
đó-kết quả của những hình thức hoạt động lao động nào đó-được thể
hiện trong các hàng hoá, còn những dịch vụ khác thì, ngược lại,
không để lại kết quả rõ rệt tách rời khỏi bản thân người thực hiện;
nói cách khác, kết quả của chúng không thích hợp với việc bán hàng
hoá [36, tr.97].
Ngoài ra, dịch vụ GDĐH còn có những đặc điểm riêng biệt khi so sánh với
các loại sản phẩm dịch vụ khác. Sản phẩm của dịch vụ GDĐH là những người
công dân có ích với chính mình, có trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia.
Những sản phẩm như vậy được gọi là loại hàng hoá có ngoại biên thuận. Nó
không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân mà còn cho cả xã hội và lợi ích xã hội
23
luôn luôn lớn hơn lợi ích cá nhân. Tổng lợi ích xã hội sẽ tăng lên nếu như loại
sản phẩm này được sản xuất nhiều hơn.
Phù hợp với những đặc trưng của nền KTTT, lý thuyết kinh tế và nội dung
kinh tế chính trị của chủ nghĩa K. Marx trên đây, GDĐH trong nền KTTT vừa có
nội dung kinh tế của một sản phẩm hàng hoá, vừa có nội dung của quan hệ sản
xuất xã hội. Sản phẩm GDĐH có nội dung hàng hóa vì quá trình sản xuất dịch vụ
GDĐH đòi hỏi sự tiêu hao các nguồn lực khan hiếm, nên nó cần đạt được hiệu
quả cao nhất với chi phí tiết kiệm nhất. Trong trường hợp này, nhà nước độc
quyền sản xuất GDĐH (dù là bao cấp miễn phí hay có đóng học phí) không phải
là biện pháp tối ưu vì không có công cụ đo lường mức khan hiếm xã hội. Điều
này làm cho số lượng, chất lượng và ngành nghề của lực lượng lao động mà
GDĐH đào tạo cung cấp có thể không hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của thị
trường lao động và mục tiêu phát triển quốc gia. Hơn nữa, GDĐH luôn luôn gắn
liền với hình thái kinh tế và chế độ chính trị-xã hội nhất định.Vì vậy trong nền
kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, GDĐH cần có các cơ chế hoạt động
phù hợp với các định chế và thể chế của nền KTTT hiện hữu.
GDĐH có nội dung của quan hệ sản xuất xã hội, bởi vì giá cả dịch vụ
GDĐH trong KTTT không hoàn toàn phản ánh sự khan hiếm. Trước hết, cung và
cầu GDĐH thường phụ thuộc vào sự khác biệt về mức lương hay thu nhập (giữa
người có và không có văn bằng đại học). Sau nữa là khả năng thành công trong
việc tìm kiếm công ăn việc làm trong khu vực công nghiệp (tỷ lệ thất nghiệp của
người có hay không có văn bằng đại học). Tiếp theo là các chi phí trực tiếp liên
quan đến giáo dục (chẳng hạn như học phí và lệ phí). Cuối cùng là chi phí cơ hội
hay chi phí gián tiếp liên quan đến giáo dục (số tiền người sinh viên có thể thu
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
24
được nếu không đi học). Không chỉ có thế, GDĐH còn là một loại hàng hoá đặc
biệt vì có những đặc tính của hàng hoá công (lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cá
nhân, có tính bền vững đi theo suốt cuộc đời con người và người mua cuối cùng
cũng là người tiêu thụ). Vì lý do lợi nhuận ngắn hạn, một số cơ sở GDĐH có thể
cung cấp những người tốt nghịêp thiếu chất lượng. Sự lạm phát bằng cấp thiếu
tiêu chuẩn chất lượng sẽ làm tăng tổn phí giao dịch trong thị trường lao động và
làm suy giảm hiệu năng của KTTT. Ngoài ra, KTTT có thể sẽ làm cho một bộ
phận người trở lên cùng kiệt hơn nên không có khả năng chi trả học phí, mặc dù có
năng lực học tập; hay một số cha mẹ đánh giá thấp lợi ích học vấn đại học nên
không đầu tư cho con cái đi học...Cho dù trường hợp nào xảy ra, để vừa hạn chế
các tổn phí giao dịch trong thị trường lao động do chất lượng đào tạo thấp, vừa
bảo đảm cơ hội học tập đại học ngang nhau cho mọi cá nhân trong xã hội
XHCN, giáo dục đại học phải có sự can thiệp của nhà nước. Nói khác đi, xét
dưới ý niệm công bằng xã hội, GDĐH là một hàng hoá mà chính phủ phải can
thiệp mạnh mẽ vào thị trường thông qua các biện pháp như: Tài trợ trực tiếp cho
đào tạo, nghiên cứu khoa học; khuyến khích tư nhân (kể cả tư nhân nước ngoài)
đầu tư phát triển GDĐH, nhất là dưới hình thức vô vụ lợi và điều tiết chất lượng
GDĐH công cũng như tư.
Dịch vụ GDĐH không chỉ là loại sản phẩm dịch vụ có lợi ích ngoại sinh cao, mà còn là loại sản phẩm
đặc biệt vì giá cả dịch vụ biến động không theo một tỷ lệ nhất định với năng suất lao động. Về lý thuyết, đối với
một sản phẩm bất kỳ, khi lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cá nhân và do đó lớn hơn chi
phí cá nhân, để khuyến khích tiêu dùng xã hội, nhà nước cần có sự bù đắp cho
chi phí cá nhân. Việc bù đắp thuộc trách nhiệm của nhà nước hay ai đó theo
nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận. Sản phẩm dịch vụ GDĐH không bị tác
động bởi tăng năng suất lao động. Những sản phẩm thông thường, khoa học kỹ
25
thuật có thể tác động làm tăng năng suất lao động và với việc sử dụng máy móc
và công nghệ mới, người ta có thể sản xuất cùng một đơn vị sản phẩm với cùng
chất lượng nhưng với chi phí thấp hơn. Còn đối với sản phẩm dịch vụ GDĐH,
tương tự như các hoạt động nghệ thuật cao cấp, năng suất lao động của người
giảng viên không thể tăng nhanh như năng suất của một cái máy và càng không
thể tăng số sinh viên tính trên một cán bộ giảng dạy nếu không muốn giảm chất
lượng giảng dạy. Ngược lại, muốn tăng chất lượng giảng dạy cần giảm số sinh
viên trên một cán bộ giảng dạy. Hơn nữa, việc nâng cao chất lượng giảng dạy đã
làm tăng thời gian huấn luyện giảng viên, chưa kể đến nhu cầu giảng viên, thiết
bị, công cụ, sách vở và cuối cùng là sự tăng chi phí đào tạo nói chung.
Thước đo giá trị của dịch vụ GDĐH là mức phí phải trả. Hành vi này dẫn
đến sự ra đời của thị trường dịch vụ GDĐH. Thị trường dịch vụ GDĐH hình
thành một cách tự nhiên và tồn tại khách quan cùng với các loại thị trường khác
trong KTTT. Sự can thiệp của nhà nước vào thị trường dịch vụ GDĐH chủ yếu bằng việc xem xét
trợ cấp khuyến khích sản xuất hay tiêu thụ sản phẩm thông qua việc thực hiện trợ cấp giá cả hay miễn trừ các
khoản đóng góp, hay nộp thuế. Một cách tự nhiên, GDĐH trở thành nơi để chính phủ triển khai và
thi hành các chính sách công quan trọng. Thị trường này trở nên sôi động khi nền
GDĐH chuyển sang giai đoạn đáp ứng nhu cầu của số đông (đại chúng), tấm
bằng đại học trở thành tấm giấy thông hành vào đời của từng cá nhân (ở cả
những nước phát triển và đang phát triển), GDĐH được xem là phương tiện chủ
yếu mang lại lợi ích cho cá nhân và chi tiêu cho GDĐH tạo ra áp lực ngày càng
tăng lên đối với ngân sách nhà nước (NSNN). Khi mức đầu tư NSNN tính trên
đầu sinh viên giảm liên tục, như một kết quả, trường đại học phải đi tìm các
nguồn thu khác ngoài NSNN, trong đó có việc thu học phí và mở rộng các hoạt
động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, mua hay bán quyền sở hữu
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
26
trí tuệ và sản xuất thử nghiệm có tính chất kinh doanh. Cơ chế cạnh tranh giữa
các trường đại học trong nghiên cứu khoa học và hoạt động đào tạo xuất hiện.
Hệ thống trường đại học tư thục thuộc sở hữu tư nhân ra đời. Về công tác quản
lý, quản trị và hành chính, hệ thống GDĐH đòi hỏi phải được vận hành một cách
có hiệu quả hơn. Đây chính là các yếu tố và những tác nhân của quá trình hình
thành thị trường dịch vụ GDĐH.
Theo P. Williams (1996), thị trường dịch vụ GDĐH có một số ưu điểm
chính. Một là, thị trường làm cho GDĐH đáp ứng tốt hơn nhu cầu của phát triển
kinh tế - xã hội. Sự ra đời của thị trường dịch vụ GDĐH từng bước giảm bớt sự
tham gia trực tiếp của chính phủ trong hoạt động điều hành trường đại học;
chuyển quyền ra quyết định từ bộ, trường và khoa sang sinh viên và gia đình;
gắn kết các trường đại học với nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp thông qua
cơ chế đặt hàng đào tạo, thành lập trường đại học trong các công ty lớn hay lập
các công ty dịch vụ hay kinh doanh bên trong trường đại học, đồng thời các
giáo sư, giảng viên đại học có thể làm việc bán thời gian ở các doanh
nghiệp...Hai là, thị trường làm cho GDĐH có khả năng thích nghi và sáng tạo
hơn. Một phần tài chính đại học được chia sẻ từ cha mẹ sinh viên hay sinh viênnhững người được hưởng lợi cuối cùng của GDĐH. Hệ thống thị trường giải
quyết các vấn đề về trách nhiệm giải trình và rủi ro thông qua hợp đồng. Các
quan hệ thị trường lâu dài, từ 4 đến 6 hay 8 năm học đại học thúc đẩy hợp tác
và lòng tin.
Tuy nhiên, thị trường dịch vụ sản phẩm GDĐH cũng đầy rẫy những rủi ro
và bất trắc. Nó có thể làm xói mòn trách nhiệm xã hội, văn hóa và các mục tiêu
của GDĐH. Vì nó chỉ đáp ứng các lợi ích và chi phí mà thực tế xuất hiện trong
27
quan hệ cung-cầu của người mua và người bán nên trong ngắn hạn, với việc tập
trung vào hướng nghiệp và nghiên cứu ứng dụng, nó có thể phá hỏng các mục
tiêu và giá trị của giáo dục tự do và những tìm tòi lý thuyết cơ bản. Theo Leslie
và Johnson (1974), cơ chế giá trong thị trường dịch vụ GDĐH có thể dễ bị bóp
méo. Winston (1992), dưới một khía cạnh khác, cho rằng hạn chế của thị trường
dịch vụ GDĐH là tình trạng không phân bổ. Theo ông, các trường đại học là các
tổ chức phi lợi nhuận nên mặc dù có thể có thu lợi nhuận nhưng không thể phân
phối lợi nhuận này cho những bên có quyền lợi liên quan. Lợi nhuận chỉ có thể
sử dụng trong phạm vi trường đại học phù hợp với sứ mạng và nhiệm vụ được
xác định sẵn. Quá trình phân bổ nội bộ phần nhiều không phụ thuộc vào các
điều kiện thị trường. Theo Peston (1989) và Gorard (1997), một đặc điểm nữa
của thị trường dịch vụ GDĐH là không giới hạn giá cả và cung cấp thông tin. Nó
trái ngược với các mô hình thị trường tân cổ điển và là một thị trường độc quyền
có ít người bán, tiền lãi tăng lên theo tỷ lệ đầu ra. Thị trường dịch vụ GDĐH
không phải lúc nào cũng là cụ thể; vừa cạnh tranh hoàn hảo, vừa không hoàn hảo
nên nó rất đa dạng và có mối quan hệ qua lại với nhau. Gordon Winston (1992)
gọi thị trường dịch vụ GDĐH là thị trường uỷ thác vì thông tin không đối xứng.
Với những tính chất và đặc trưng hoạt động của thị trường dịch vụ GDĐH
như đã trình bày trên đây, không có và không thể có thị trường dịch vụ sản phẩm
GDĐH theo đúng nghĩa. Cấu trúc thị trường dịch vụ sản phẩm GDĐH bị ảnh
hưởng bởi những điều kiện kinh tế-xã hội cơ bản, cũng như khuôn khổ pháp luật
chung mà trong đó hệ thống GDĐH vận hành. Coulson (1996) nhận xét: không
có quốc gia nào hiện nay mở ra thị trường cạnh tranh và tự do thực sự trong
GDĐH bởi vì trước hết, việc đo lường giá trị đích thực của dịch vụ GDĐH là rất
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
28
khó. Bên cạnh đó giá cả của dịch vụ GDĐH không thể chỉ xác định dựa trên chi
phí trực tiếp của người dạy. Ngoài ra, GDĐH là thuộc tính sản phẩm công, chịu
ảnh hưởng ngoại biên thuận. Người mua sản phẩm dịch vụ GDĐH không chỉ
mang lại lợi ích cho cá nhân, mà còn mang lại lợi ích cho xã hội.
Tính chất vừa là sản phẩm hàng hóa, vừa là sản phẩm công cộng là nét đặc
trưng cơ bản nhất của sản phẩm dịch vụ GDĐH. Tính chất này có ý nghĩa quan
trọng đối với chính sách phát triển GDĐH. Nó đòi hỏi chính sách phát triển
GDĐH phải bao hàm tính công bằng, tính phù hợp, tính hiệu quả trong nội dung
và tính thực tiễn, tính xã hội, tính phê phán, tính cưỡng chế trong quy trình chính
sách.
Hỗ trợ phát triển các tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa
học-công nghệ và nâng cao năng lực khoa học công nghệ của các cơ sở đào tạo
đại học; khuyến khích cơ sở đào tạo đổi mới, nhập khẩu và ứng dụng công nghệ
mới, phương pháp giảng dạy tiên tiến vào giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Phát triển các dịch vụ thiết kế, đo lường, đánh giá,
thẩm định, giám định chất lượng, thông tin, môi giới, chuyển giao công nghệ, tư
vấn pháp lý về sở hữu trí tuệ và đào tạo theo hướng xã hội hóa.
3.3.4. Đổi mới công tác tổ chức thiết kế và thực thi chính sách phát
triển giáo dục đại học
3.3.4.1. Củng cố thể chế tổ chức trong thiết kế và thực thi chính sách
Chủ động, tích cực với quyết tâm chính trị cao, tập trung giải quyết các
vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững
chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm về chính sách phát triẻn GDĐH
trong nền KTTT định hướng XHCN. Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển
GDĐH trong nền KTTT của các nước và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi
mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập với nền GDĐH thế giới, đồng thời
bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia trong nội dung chương trình đào
tạo đại học. Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong việc chỉ đạo và
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi208
quản lý phát triển GDĐH. Bảo đảm định hướng XHCN trong lĩnh vực GDĐH
bằng việc nhận thức một cách đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy
luật khách quan của KTTT và thông lệ quốc tế trong GDĐH phù hợp với điều
kiện phát triển của Việt Nam. Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành
của thể chế GDĐH với thể chế chính trị, xã hội; giữa các yếu tố thị trường sản
xuất hàng hóa và thị trường dịch vụ GDĐH; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.
Gắn kết hài hòa giữa yêu cầu phát triển GDĐH với tăng trưởng kinh tế, tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo tồn phát huy và đổi mới phát triển truyền thống văn
hóa của dân tộc.
Tiến hành nghiên cứu trên cả lĩnh vực lý thuyết và thực tế những chính
sách dự kiến đưa vào nội dung xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật GDĐH; tiến hành dự báo đánh giá tác động kinh tế, xã hội của chính sách,
so sách các chính sách, lựa chọn chính sách nào tối ưu và phù hợp với thực tiễn
và nhu cầu phát triển của Việt Nam trước khi luật hóa hay pháp lý hóa các
chính sách GDĐH. Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong thực hiện các
công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước GDĐH
nhằm tạo thuận lợi cho mọi đối tượng dễ dàng tiếp cận với hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật, ở tất cả các khâu từ xây dựng, thẩm định, lựa chọn, quyết định
đến ban hành và tổ chức thực hiện. Xây dựng, hoàn thiện thể chế về tổ chức và
hoạt động của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cung cấp đầy đủ thông tin của cơ quan
Chính phủ, Bộ, ngành quản lý trường, trường đại học và cao đẳng tới các tổ chức
và cá nhân thông qua việc công bố công khai, đầy đủ đầy đủ các văn bản, tài liệu
và quy trình giải quyết chính sách.209
Nội dung quản lý nhà nước GDĐH hướng gần hơn tới thị trường và bảo
đảm ngày càng tốt hơn công bằng xã hội; phân biệt chức năng sở hữu nhà nước
và chức năng quản lý nhà nước để minh bạch hóa quyền sở hữu trong lĩnh vực
GDĐH; đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng cho các cơ sở dào tạo thuộc mọi thành
phần sở hữu. Khơi dậy các nguồn lực đầu tư, thúc đẩy đầu tư trong nước và thu
hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực GDĐH; phân định quyền và nghĩa vụ giữa
nhà nước, cơ sở đào tạo, người học và xã hội; tạo cho người dân niềm tin và sự
phấn khởi khi đầu tư phát triển GDĐH. Tạo lập sự tương thích giữa hệ thống
quản lý GDĐH trong nước với thông lệ và pháp luật quốc tế. Minh bạch và công
khai hoá chi tiêu công, đặc biệt là NSNN; cải cách khu vực trường công và sắp
xếp lại các lĩnh vực đào tạo thuộc độc quyền nhà nước. Thúc đẩy thị trường lao
động hoạt động theo hướng tích cực. Tiến hành thường xuyên các cuộc điều tra,
khảo sát nhằm thu thập các thông tin về chính sách phát triển GDĐH. Số mẫu
khảo sát trong mỗi cuộc điều tra cũng cần được tăng lên. Xây dựng đội ngũ
chuyên gia thiết kế câu hỏi, bảng hỏi, phân tích, đánh giá các số liệu thu được từ
các cuộc khảo sát. Nâng aco độ tin cậy và tính chính xác của các thông tin trong
mỗi cuộc khảo sát. Nâng cao tính chuyên nghiệp trong công tác phân tích, đánh
giá các kết quả khảo sát. Việc chuyển những kết luận, đánh giá qua các cuộc
điều tra vào thực tiễn phải coi là việc làm thường xuyên; là cầu nối giữa nghiên
cứu và xây dựng chính sách.
Đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ đối với hoạt động vận động chính sách
như: hỗ trợ tài chính và kỹ thuật trong quá trình thảo luận và xây dựng các kế
hoạch và chiến lược vận động; hỗ trợ tài chính và kỹ thuật trong việc nghiên cứu
và thu thập thêm các thông tin/ bằng chứng phục vụ vận động chính sách; tổ
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi210
chức nâng cao năng lực (kiến thức và kỹ năng) về vận động chính sách; hỗ trợ
một phần công tác hậu cần để thực hiện các hoạt động vận động chính sách như:
tổ chức các hội thảo, chương trình truyền hình, báo chí… Đẩy mạnh các hoạt
động nghiên cứu chính sách nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
của chính sách phát triển GDĐH trong nền KTTT định hướng XHCN. Đây phải
được xem là nhiệm vụ cấp thiết, cần được ưu tiên. Việc nghiên cứu chính sách
phát triển GDĐH phải được thực hiện ở tất cả các khâu và trên mọi phương diện:
chất lượng , mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, tổ chức, phát triển
nguồn nhân lực, tài chính, hiệu quả....của GDĐH. Các kết quả nghiên cứu thu
được phải sử dụng như những bằng chứng để hoạch định chính sách. Chỉ có như
thế, các chính sách đưa ra mới bảo đảm được tính khoa học và thực tiễn; bao
hàm hết hệ thống các mục tiêu phát triển và phù hợp với quan điểm của Đảng và
nhà nước coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Thông qua việc nghiên cứu
chính sách, tiến hành tổng kết, đánh giá một cách sâu sắc, khách quan những tác
động đa chiều về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa...của các chương trình,
chiến lược, văn bản qui phạm pháp luật, cơ chế vận hành và mô hình quản lý đã
được triển khai, áp dụng trong hệ thống GDĐH Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
Trên cơ sở đó nhận biết tính tất yếu của yêu cầu đổi mới tư duy trong hoạch định
chính sách phát triển GDĐH giai đoạn từ nay đến năm 2010, năm 2020 và những
năm tiếp theo; đồng thời nâng cao nhận thức về các thách thức của GDĐH trước
yêu cầu của CNH, HĐH, ảnh hưởng ngày càng tăng của xu thế toàn cầu hóa và
giáo dục qua biên giới.
Tạo lập sự đồng thuận xã hội; làm cho toàn xã hội có cùng nhận thức,
cùng ý chí và hành động vì một mục tiêu chung của những nhiệm vụ chính trị cụ211
thể với tinh thần tự giác và trách nhiệm công dân cao đối với sự nghiệp GDĐH
của đất nước. Đó cũng là quá trình đối thoại giữa những tổ chức và cá nhân chịu
trách nhiệm chính trong việc vạch chính sách và những tổ chức và cá nhân chịu
trách nhiệm chính triển khai, thi hiện chính sách. Đôi khi nó còn được mở rộng
thông qua các cuộc điều tra lấy dư luận xã hội. Vì vậy, để chính sách sát với tình
hình thực tế và dễ đi vào cuộc sống, cần thiết phải tổ chức đối thoại sớm trong
quá trình đưa ra quyết định. Các cuộc đối thoại nên giống nhau và công bằng cho
tất cả các bên. Thời gian đối thoại phải đủ để đáp ứng yêu cầu hội đàm. Các
thông tin liên quan đến nội dung thảo luận phải được chuẩn bị sẵn. Kết quả đối
thoại phải đưa ra được những thông tin phản hối và những thông tin này phải
được chuyển tải đến cơ quan xây dựng chính ssách và người ra quyết định chính
sách. Trên thực tế, vì những lý do kinh tế và chính trị, một chính sách cụ thể nào
đó không thể đáp ứng hoàn toàn quyền lợi của tất cả các nhóm lợi ích trong xã
hội. Do đó, mong muốn đưa ra một chính sách phát triển GDĐH thỏa mãn được
toàn bộ các yêu cầu và mục tiêu của một loại chính sách công là rất khó thực
hiện. Tuy nhiên, về mặt chính trị, yêu cầu có tính bắt buộc của bất kỳ một chính
sách phát triển GDĐH nào khi ban hành là cần đạt được trạng thái cân bằng cho
các mục tiêu công cộng, có nghĩa là tạo ra một kết quả mà bằng bất kỳ một cách
nào khác không thể đạt được. Đó là sự cân bằng những lợi ích quốc gia, lợi ích
từng cơ sở đào tạo dưới tác động của thị trường. Ảnh hưởng tương đối của từng
nhóm lợi ích cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nhóm chính là điều kiện
mà nhờ đó các quyết định chính sách tương đối có hiệu quả về kinh tế và khả thi
về chính trị.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng sự nghiệp
đổi mới kinh tế-xã hội của đất nước mà nội dung cơ bản là chuyển dịch từ nền
kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN), công nhận sự đa dạng của các hình thức sở hữu, tạo điều
kiện để mở rộng sản xuất hàng hóa và dịch vụ, thực hiện chính sách mở cửa
trong quan hệ quốc tế.
Trong hơn 20 năm qua, phù hợp và đáp ứng quá trình chuyển đổi kinh tế-
xã hội, chính sách phát triển giáo dục đại học (GDĐH) cũng đã và đang trong
quá trình tự đổi mới. GDĐH đã triển khai nhiều chủ trương và biện pháp quan
trọng, trong đó phải kể đến việc thực hiện dân chủ hóa nhà trường; điều chỉnh
mục tiêu, cấu trúc lại chương trình đào tạo; xây dựng các trường đại học kiểu
mới; thực hiện quy trình đào tạo mới, áp dụng học chế tín chỉ; đa dạng hóa các
loại hình đào tạo, kết gắn các hoạt động đào tạo với nghiên cứu khoa học và lao
động sản xuất…
Mặc dù đã có những cố gắng nhưng nhìn chung, sự chuyển biến của chính
sách phát triển GDĐH còn chậm so với các yêu cầu mới nẩy sinh từ sự nghiệp
công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước. Một trong những nguyên
nhân của sự chậm trễ này là do chính sách phát triển GDĐH còn nhiều hạn chế.
Vì vậy, việc lựa chọn vấn đề “ Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại
học ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ khoa học kinh tế là vấn đề
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn bức xúc.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
10
2. Tổng quan nghiên cứu
Vấn đề chính sách phát triển GDĐH đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế
giới đề cập đến. Có thể khái quát trên một số vấn đề chính sau đây:
Thứ nhất, các nhà kinh tế học hiện đại quan niệm, sản phẩm giáo dục là
một loại dịch vụ, trong nền kinh tế thị trường cần đặt nó trong môi trường cạnh
tranh để lựa chọn được những dịch vụ tốt. Về vấn đề này có lẽ Milton Friedman
(1912-2006), giáo sư Trường Đại học Chicago (Mỹ), là nhà kinh tế học đầu tiên
nêu lên. Theo ông, giống như mọi hàng hóa mang tính dịch vụ khác, sản phẩm
giáo dục cần được đặt trong môi trường cạnh tranh để đào thải những sản phẩm
xấu và phát triển những dịch vụ tốt. Tính chất công của giáo dục, theo ông, nên
đặt trong sự quản lý của chính phủ bằng việc phân phối ngân sách, quy định các
khuôn khổ pháp lý, cung cấp phiếu giáo dục…. Các trường, học viện sẽ là đơn vị
cung cấp sản phẩm như chương trình, môi trường học…để người tiêu dùng (phụ
huynh và người học) đưa ra quyết định cuối cùng. Tư tưởng của M. Friedman
ngay lập tức được GDĐH tiếp cận và thể hiện trong chính sách phát triển của nó
với hai lý do chính:
- Ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra ý nghĩa quan trọng của
nguồn lực con người trong phát triển kinh tế, trên cơ sở đó khẳng định đầu tư
cho giáo dục-đào tạo là đầu tư vào nguồn vốn con người, đầu tư cho phát triển và
đầu tư cho tương lai. Gary S. Becker-nhà kinh tế học người Mỹ được giải thưởng
Nobel về kinh tế năm 1992, Schultz (1961), Denison (1962), B.F. Kiker (1972),
Gareth William (1984), George Psacharopoulos và Maureen Woodhall (1985),
Jacques Hallak (1990), Bruce E. Kaufman và Julie L Hotchkis (2000)..., trước đó
11
nữa là Ricardo, Adam Smith đều thống nhất đầu tư cho giáo dục-đào tạo và việc
nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế, bao gồm cả việc giải quyết vấn đề dinh
dưỡng và kế hoạch hoá gia đình, được xem như quá trình đầu tư cơ bản. G.S.
Becker cho rằng, việc đến trường học một khoá máy tính hay việc chi tiêu cho
việc chăm sóc y tế cũng là thể hiện của hoạt động đầu tư vì việc cải thiện tình
trạng sức khoẻ sẽ dẫn đến việc nâng cao thu nhập là yếu tố theo đuổi suốt cuộc
đời của mỗi con người. Như thế, nó hoàn toàn đúng với quan niệm và định nghĩa
truyền thống của hoạt động đầu tư. Vì vậy, chi tiêu cho giáo dục, đào tạo hay cho
hoạt động chăm sóc y tế đều có thể nói đó là chi đầu tư cơ bản. Các báo cáo
nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ cho chiều
hướng này.
Hiệp định thương mại chung GATS của WTO đã xếp GDĐH vào lĩnh vực
dịch vụ. Một nghiên cứu gần đây của Jane Kninght (Trung tâm Phát triển Giáo
dục Quốc tế, Viện Ontarino về nghiên cứu giáo dục thuộc Trường Đại học
Toronto, Canada) đã cho rằng, hoạt động GDĐH đã di chuyển qua biên giới giữa
các quốc gia trong nhiều năm thông qua hợp tác phát triển, trao đổi tri thức và
bây giờ là các mục tiêu thương mại. Đó là một thực tế mà GDĐH cần đối mặt và
hành động.
Do vai trò quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia và
ưu thế trong tìm kiếm việc làm của những người có bằng cấp học vị cao, GDĐH
trên thế giới những năm qua đã có những phát triển vượt bậc. Một trong những
ghi nhận của sự phát triển là quá trình mở rộng quy mô của GDĐH. Số liệu
thống kê qua các năm cho biết, tỷ lệ tăng quy mô sinh viên đại học hàng năm
bình quân của các nước Tây Âu khoảng 10% trong suốt thời kỳ những năm 1960
và đã tăng lên gấp đôi trong thập kỷ 70. Ở hầu hết các nước đang phát triển, tỷ lệ
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
12
tăng trưởng quy mô sinh viên hàng năm cũng rất cao. Đối với các nước có mức
thu nhập bình quân đầu người thấp và trung bình, tỷ lệ tăng trưởng khoảng
6.2%/năm; các nước có mức thu nhập cao, tỷ lệ này là 7.3%/năm. Theo số liệu
thống kê của Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc
(UNESCO), tổng quy mô sinh viên của bậc đại học trên toàn thế giới là 13 triệu
vào năm 1960; 28 triệu vào năm 1970; 46 triệu vào năm 1980 và 65 triệu vào
năm 1991. Chỉ tính các nước đang phát triển, năm 1960 tổng quy mô sinh viên là
3 triệu, đã tăng lên 7 triệu vào năm 1970, rồi 16 triệu vào năm 1980 và đạt 30
triệu vào năm 1991.
Thứ hai, sự gia tăng quy mô trong điều kiện nguồn lực hạn hẹp đã làm cho
chất lượng giáo dục đại học bị đe doạ, đặt các chính phủ phải tự tìm ra phương
hướng và giải pháp(chính sách) riêng cho quốc gia của họ. Theo tổng kết của
World Bank, tựu trung các phương hướng và giải pháp của các quốc gia gồm
những khía cạnh sau:
- Tăng cường đa dạng hoá của cơ sở đào tạo đại học, mà chủ yếu là thay
đổi các nhiệm vụ của nhà trường đại học và phát triển các cơ sở đào tạo đại học
mới phi chuẩn.
- Đa phương hoá việc tài trợ cho các cơ sở của giáo dục đại học và xác
định vai trò nhà nước đối với giáo dục đại học thông qua chính sách tài chính để
can thiệp trực tiếp vào kết quả đào tạo của các nhà trường đại học. Việc đa
phương hoá được thực hiện theo 3 nội dung: huy động tối đa nguồn tài chính tư
nhân; thu hồi chi phí đào tạo thông qua hỗ trợ tài chính cho các sinh viên (cho
vay sinh viên) và nâng cao hiệu quả của việc cấp phát, sử dụng các nguồn lực
của giáo dục đại học.
13
- Tập trung vào các khía cạnh chất lượng, sự thích ứng và tính công bằng
trong giáo dục đại học.
Theo Bikas C.Sanyal (1995), những bài học về xây dựng chính sách phát
triển GDĐH trên thế giới trong những năm qua có thể khái quát trong 6 điểm: i).
Hợp nhất các trường đại học nhỏ để thành lập đại học lớn hơn, đào tạo đa ngành,
đa lĩnh vực (xảy ra ở Trung quốc, Australia, Hà Lan và Anh....); ii). cải tổ về
quản lý trường đại học (xảy ra ở hầu hết các nước); iii). đa dạng hoá các loại
hình đào tạo đại học (chủ yếu diễn ra ở các nước đang phát triển; các nước Đông
Nam Á, Trung Đông và Nam Mỹ); iv). đa phương hoá nguồn lực (được áp dụng
ở tất cả các nước trên thế giới nhưng chủ yếu là nhóm nước có thu nhập thấp);
v). xác định lại vai trò nhà nước trong phát triển giáo dục đại học và vi). tập
trung chủ yếu vào những vấn đề chất lượng và hiệu quả.
Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986. Cho đến
nay, số lượng các công trình nghiên cứu về những vấn đề đặt ra đối với chính
sách phát triển GDĐH còn rất khiêm tốn với những quan điểm trái ngược nhau.
Một số người cho rằng thị trường GDĐH tồn tại trong nền KTTT định hướng
XHCN có tính tất yếu như Giáo sư Trần Phương, Giáo sư Phạm Phụ, Giáo sư Lê
Thành Khôi (UNESCO Paris), Tiến sỹ Vũ Quang Việt (Chuyên gia cao cấp Cơ
quan Thống kê của Liên hợp quốc...); ngược lại một số khác phủ nhân sự tồn tại
này như Giáo sư Phạm Minh Hạc, Giáo sư Hoàng Tụy, Giáo sư Bùi Trọng Liễu
(Đại học Paris).... Các quan điểm phần lớn được thể hiện thông qua các bài đăng
tải trên các báo, tạp chí chuyên ngành và một số sách chuyên khảo nên cả về
dung lượng, phạm vi, nội dung và phương pháp tiếp cận còn rất hạn chế. Hầu
như các bài viết chỉ dừng lại ở góc độ tranh luận, nêu quan điểm hay khai thác
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
14
thông tin nên chưa góp phần hệ thống hóa thành cơ sở lý luận đặt nền móng cho
việc xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển GDĐH trong môi trường mới.
3. Mục tiêu của luận án
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về chính sách phát triển giáo dục đại học
trong điều kiện kinh tế thị trường;
- Đánh giá thực trạng chính sách phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam
những năm đổi mới vừa qua, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
hạn chế của chính sách phát triển giáo dục đại học.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách
phát triển giáo dục đại học ở nước ta những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là chính sách phát triển GDĐH dưới
góc độ kinh tế-chính trị, bao gồm các khía cạnh: Quan điểm, mục tiêu, nguyên
tắc, nội dung, phương pháp và các điều kiện bảo đảm cho quá trình hoạch định,
tổ chức thực hiện chính sách phát triển giáo dục đại học ở nước ta.
Chính sách phát triển giáo dục đại học có phạm vi rộng. Luận án này tiếp cận
chính sách phát triển giáo dục với các nội dung cơ bản là chính sách tăng trưởng,
chính sách chất lượng và chính sách cơ cấu trong phát triển giáo dục đại học.
Về thời gian, luận án chủ yếu đề cập tới thực trạng chính sách phát triển
giáo dục đại học từ khi đổi mới đến nay và khuyến nghị cho những năm tới.
15
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu chính sách phát triển GDĐH nằm trong phạm vi của lĩnh vực
khoa học liên ngành, bao gồm kinh tế học, chính trị học, quản trị học, xã hội học,
giáo dục học, khoa học lịch sử và các khoa học khác....
- Sử dụng cách tiếp cận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, với công cụ
trừu tượng hóa, kết hợp giữa phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, đối chiếu,
so sánh để phân tích làm rõ những kết quả nghiên cứu của luận án.
- Thu thập thông tin, số liệu thống kê, tư liệu, kế thừa các kết quả nghiên
cứu của các cuộc điều tra, khảo sát đã được công bố, các thông tin từ kỷ yếu hội
nghị hội thảo quốc tế, khu vực và trong nước để đưa ra các kinh nghiệm quốc tế,
đánh giá thực trạng chính sách phát triển GDĐH ở Việt nam hiện nay, làm căn
cứ cho các kiến nghị về phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách phát
triển GDĐH những năm tới.
6. Những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu
1. Về khía cạnh lý thuyết, luận án xây dựng khung lý thuyết phân tích và
đánh giá chính sách phát triển giáo dục đại học trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam phù hợp với những nguyên
tắc cơ bản của kinh tế thị trường, nhằm thúc đẩy hệ thống giáo dục đại học phát
triển nhanh, hiệu quả, bền vững và hội nhập quốc tế thành công.
2. Về khía cạnh thực tiễn, luận án chỉ ra các bất cập của những chính sách
phát triển giáo dục đại học liên quan đến các vấn đề tăng trưởng, cơ cấu và chất
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
16
lượng, đặc biệt là bất cập về quy trình và năng lực đội ngũ cán bộ làm chính
sách. Luận án đề xuất những quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện
chính sách phát triển giáo dục đại học ở nước ta những năm tới với những nội
dung sau:
i). Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách
quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển
của Việt Nam vào quản lý và quản trị đại học.
ii). Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế giáo dục
đại học; giữa các yếu tố thị trường và các mục tiêu phúc lợi xã hội của giáo dục
đại học; giữa thể chế giáo dục đại học với thể chế chính trị, xã hội; giữa nhà
nước, thị trường, xã hội và giáo dục đại học; giữa chất lượng, hiệu quả và công
bằng xã hội trong giáo dục đại học thông qua việc hình thành, phát triển và từng
bước hoàn thiện mô hình “giả thị trường” giáo dục đại học.
iii). Ðổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý giáo dục đại học của
Nhà nước, chuyển từ nhà nước quản lý sang nhà nước giám sát giáo dục đại học
phù hợp với những yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập giáo dục đại học quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
Vận dụng và phát huy mặt tích cực, hạn chế, ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị
trường trong lĩnh vực giáo dục đại học.
iv). Đổi mới tổ chức thiết kế và thực thi chính sách phát triển giáo dục đại
học; nâng cao vai trò của các chủ thể trong bộ máy nhà nước và ngoài bộ máy
nhà nước, bao gồm các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã
hội, nghề nghiệp và đặc biệt các trường đại học trong xây dựng chính sách giáo
17
dục đại học. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo điều
kiện để các chủ thể ngoài bộ máy nhà nước tham gia có hiệu quả vào quá trình
hoạch định, thực thi và giám sát thực hiện chính sách phát triển giáo dục đại học.
7. Bố cục của luận án
Luận án bao gồm phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chính sách phát triển giáo dục đại
học trong điều kiện kinh tế thị trường.
Chương 2: . Thực trạng chính sách phát triển giáo dục đại học ở Việt
Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách phát
triển giáo dục đại học ở Việt Nam những năm tới.
CHƯƠNG 1
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
18
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ
1.1.1. Đặc điểm của giáo dục đại học trong điều kiện kinh tế thị trường
Giáo dục và đào tạo là bộ phận quan trọng nhất trong văn hóa của một
quốc gia; liên quan chặt chẽ đến văn minh, phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo
quốc phòng-an ninh và sự ổn định chính trị của mỗi đất nước. Vì vậy, chính phủ,
nhân dân ở tất cả các nước trên thế giới, cũng như các tổ chức quốc tế đều có sự
quan tâm đặc biệt đến phát triển giáo dục và đào tạo.
Giáo dục đại học (GDĐH) là bậc học sau cùng trong hệ thống giáo dục và
đào tạo của mỗi nước; đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, bao gồm các nhà
khoa học, các chuyên gia, kỹ sư và những cán bộ chuyên môn kỹ thuật ở các
trình độ khác nhau. GDĐH không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và vì
vậy, không trực tiếp tạo ra các sản phẩm vật chất. Tuy nhiên, theo phân công lao
động xã hội, GDĐH là nơi duy nhất có đủ điều kiện và đủ khả năng cung cấp
nguồn nhân lực kỹ thuật chất lượng và trình độ chuyên môn cao cho nền kinh tế.
GDĐH làm tăng giá trị cho mỗi cá nhân thông qua việc trang bị cho họ tài khéo
léo, sự hiểu biết để làm ra nhiều của cải vật chất hơn cho bản thân và cho xã hội,
gắn liền với sự bảo đảm quyền được sống và được làm việc với năng suất lao
động cao hơn của mỗi người.
19
Theo Manuel Castell (1991), GDĐH có ba chức năng quan trọng. Trước
hết, nó bảo tồn các nền văn hoá và tri thức nhân loại; tái tạo hay phản biÖn ý
thức hệ chi phối của quốc gia. Thứ hai, nã lựa chọn những người ưu tú giíi thiÖu
cho ®Êt n-íc và cuèi cïng, nã s¸ng t¹o ra kho tµng tri thức mới. GDĐH không
chỉ cải thiện những lựa chọn cá nhân sẵn có cho tất cả mọi người, mà cßn tạo ra
một lực lượng lao động có năng lực sáng tạo, biết chắt lọc và áp dụng các tri
thức thu được từ kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học vào sản xuất và
đời sống. GDĐH góp phần làm tăng năng suất lao động và nâng cao mức sống
cho toàn bộ các thành viên trong xã hội; gãp phÇn xoá bỏ khoảng cách thu nhập
giữa người giàu và người cùng kiệt th«ng qua viÖc trang bÞ cho người häc những tri
thức và kỹ năng cần thiết để kiếm sống.
GDĐH có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phồn thịnh của một nền kinh
tế hiện đại- nền “kinh tế tri thức”, ®-îc dù b¸o sÏ ngày càng cã ý nghÜa quyết
định ®Õn sự thịnh v-îng cña nh©n lo¹i trong tương lai. Liªn HiÖp quèc x¸c ®Þnh
giáo dục nãi chung, GDĐH nãi riªng là quyền con người [65, tr.227-237]; là
phương tiện phát triển riêng của mỗi cá nhân, phương tiện xây dựng nền văn
hoá, chia sẻ truyền thống và cung cấp sức mạnh cho xã hội nói chung và là một
phương tiện tích luỹ tài sản và khả năng cạnh tranh của cá nhân và xã hội
(Bowen, 1980; Scott, 1998).
Trong nền KTTT ở Việt Nam, GDĐH vừa là một quá trình, vừa là một
hành động. Là một hành động, GDĐH được thực hiện dưới hình thức cung cấp
sức lao động của các giáo sư, giảng viên cho người học và người học mua lao
động của người dạy bằng phí, học phí, hay đóng thuế để nhà nước trả công, trả
lương cho họ. Dưới góc độ phân công lao động xã hội trong nền sản xuất hàng
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
20
hoá, loại lao động giảng dạy của các giáo sư, giảng viên không sản xuất ra tư
bản. Theo K. Marx, đó là loại lao động phi sản xuất và khi trao đổi, nó được
mua-bán như một dịch vụ và hàng hoá thông thường. K. Marx viết: “Trong
trường hợp tiền trực tiếp được trao đổi lấy loại lao động sản xuất không sản xuất
ra tư bản, do đó là lao động phi sản xuất thì lao động ấy được mua như là một
dịch vụ. Biểu hiện ấy nói chung chẳng qua là giá trị sử dụng đặc biệt mà lao
động ấy cung cấp, giống như mọi hàng hoá khác”[36, tr.98].
Như vậy, sản phẩm GDĐH là một loại dịch vụ và nó có đầy đủ tính chất
kinh tế như các loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khác, bởi vì theo K. Marx,
bản thân những dịch vụ ấy cũng giống như những hàng hoá ông mua, có thể là
cần thiết hay có thể chỉ có vẻ là cần thiết-ví dụ, những dịch vụ của người lính,
hay của thầy thuốc, hay của luật sư-hay chúng có thể là những dịch vụ đem
lại khoái cảm cho ông. Nhưng điều đó tuyệt nhiên không làm thay đổi tính chất
kinh tế của chúng [36, tr.99]. Dịch vụ GDĐH được diễn ra thông qua sự tác động
trực tiếp từ người dạy đến người học. Quá trình cung ứng dịch vụ cũng đồng
thời là quá trình tiêu thụ dịch vụ.
Sản phẩm dịch vụ GDĐH là đối tượng nghiên cứu của kinh tế học giáo
dục. Người đầu tiên đặt nền móng cho việc nghiên cứu các vấn đề về kinh tế học
GDĐH là William Petty (1623-1687)-người mà sau này được Karl Marx gọi là
“cha đẻ của nền kinh tế chính trị học nước Anh”. W. Petty đã tính ước lượng
hiệu suất của các hạng người lao động. Theo ông, ở Hà Lan, nhà nông, thuỷ thủ,
nhà binh, thợ thủ công và thương nhân là cột trụ thực sự của cơ nghiệp quốc gia.
Người thuỷ thủ giá trị bằng ba các người khác, vì họ không chỉ đi biển, mà lại là
nhà buôn và nhà binh. Ở Anh, nhà nông chỉ được khoảng 4 shillings một tuần,
21
người thuỷ thủ được tới 12. Trên cơ sở lý thuyết của W. Petty, những nhà kinh tế
học sau này như Adam Smith (1723-1790), Stuart Mill (1806-1873), Karl Marx
(1818-1883), Alfred Marshall (1842-1924) đều nhấn mạnh giá trị của lao động,
giá trị kinh tế của con người, của giáo dục-đào tạo nói chung và GDĐH nói
riêng.
Khi xem xét GDĐH như một loại dịch vụ, người ta đã trừu tượng hoá nội
dung của nó, chỉ nghiên cứu nó dưới ý nghĩa là một hành vi cung ứng sản phẩm
lao động của người này cho người kia nhằm thoả mãn một lợi ích cụ thể nào đó.
K. Mark viết:
Nếu tui mua dịch vụ của thày giáo-hay những người khác mua
dịch vụ ấy cho tôi-không phải để phát triển các năng lực của tôi, mà
là để có được khả năng kiếm tiền, và nếu khi làm như vậy tui thật sự
lĩnh hội được điều gì đó-điều này nó hoàn toàn không phụ thuộc vào
việc trả tiền cho dịch vụ này-thì những chi phí cho việc học tập ấy,
cũng như các chi phí vào việc nuôi tui đều thuộc những chi phí sản
xuất ra sức lao động của tôi. Nhưng tính chất hữu ích đặc biệt của
dịch vụ ấy không hề làm thay đổi quan hệ kinh tế đó, và nó không
phải là quan hệ mà trong đó tiền sẽ được tui biến thành tư bản hoặc
thông qua quan hệ ấy người thực hiện dịch vụ, thày giáo, sẽ biến tôi
thành nhà tư bản của mình, thành người chủ của mình. Do vậy đối
với tính chất kinh tế của quan hệ đó thì hoàn toàn không cần thiết
xem thầy thuốc có chữa khỏi bệnh cho tui hay không, thày giáo có
dạy tui đạt kết quả hay không, luật sư có làm cho tui thắng kiện hay
không. Ở đây người ta trả tiền cho bản thân dịch vụ, xét về bản chất
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
22
của chính nó thì kết quả của dịch vụ ấy không được người cung cấp
dịch vụ đảm bảo. Việc trả công cho đại bộ phận các dịch vụ thuộc
những chi phí tiêu dùng các hàng hoá, ví dụ, những dịch vụ của bà
đầu bếp, của người hầu gái v.v..[36, tr.97].
Theo Adam Smith, trong xã hội không ai cung ứng sản phẩm lao động của
mình không công cho người khác. Vì vậy, người mua dịch vụ GDĐH phải trả
phí sử dụng dịch vụ. Thứ phí đó là để bù đắp chi phí lao động cần thiết (bao gồm
lao động sống và lao động vật hoá) để sản xuất ra dịch vụ.
Là một loại sản phẩm dịch vụ, GDĐH có đầy đủ các tính chất kinh tế giống
như các loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khác, nhưng nó không thích hợp với
việc mua-bán hàng hoá, bởi vì theo K. Marx:
Những dịch vụ, nói cách khác, những giá trị sử dụng thuộc loại nào
đó-kết quả của những hình thức hoạt động lao động nào đó-được thể
hiện trong các hàng hoá, còn những dịch vụ khác thì, ngược lại,
không để lại kết quả rõ rệt tách rời khỏi bản thân người thực hiện;
nói cách khác, kết quả của chúng không thích hợp với việc bán hàng
hoá [36, tr.97].
Ngoài ra, dịch vụ GDĐH còn có những đặc điểm riêng biệt khi so sánh với
các loại sản phẩm dịch vụ khác. Sản phẩm của dịch vụ GDĐH là những người
công dân có ích với chính mình, có trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia.
Những sản phẩm như vậy được gọi là loại hàng hoá có ngoại biên thuận. Nó
không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân mà còn cho cả xã hội và lợi ích xã hội
23
luôn luôn lớn hơn lợi ích cá nhân. Tổng lợi ích xã hội sẽ tăng lên nếu như loại
sản phẩm này được sản xuất nhiều hơn.
Phù hợp với những đặc trưng của nền KTTT, lý thuyết kinh tế và nội dung
kinh tế chính trị của chủ nghĩa K. Marx trên đây, GDĐH trong nền KTTT vừa có
nội dung kinh tế của một sản phẩm hàng hoá, vừa có nội dung của quan hệ sản
xuất xã hội. Sản phẩm GDĐH có nội dung hàng hóa vì quá trình sản xuất dịch vụ
GDĐH đòi hỏi sự tiêu hao các nguồn lực khan hiếm, nên nó cần đạt được hiệu
quả cao nhất với chi phí tiết kiệm nhất. Trong trường hợp này, nhà nước độc
quyền sản xuất GDĐH (dù là bao cấp miễn phí hay có đóng học phí) không phải
là biện pháp tối ưu vì không có công cụ đo lường mức khan hiếm xã hội. Điều
này làm cho số lượng, chất lượng và ngành nghề của lực lượng lao động mà
GDĐH đào tạo cung cấp có thể không hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của thị
trường lao động và mục tiêu phát triển quốc gia. Hơn nữa, GDĐH luôn luôn gắn
liền với hình thái kinh tế và chế độ chính trị-xã hội nhất định.Vì vậy trong nền
kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, GDĐH cần có các cơ chế hoạt động
phù hợp với các định chế và thể chế của nền KTTT hiện hữu.
GDĐH có nội dung của quan hệ sản xuất xã hội, bởi vì giá cả dịch vụ
GDĐH trong KTTT không hoàn toàn phản ánh sự khan hiếm. Trước hết, cung và
cầu GDĐH thường phụ thuộc vào sự khác biệt về mức lương hay thu nhập (giữa
người có và không có văn bằng đại học). Sau nữa là khả năng thành công trong
việc tìm kiếm công ăn việc làm trong khu vực công nghiệp (tỷ lệ thất nghiệp của
người có hay không có văn bằng đại học). Tiếp theo là các chi phí trực tiếp liên
quan đến giáo dục (chẳng hạn như học phí và lệ phí). Cuối cùng là chi phí cơ hội
hay chi phí gián tiếp liên quan đến giáo dục (số tiền người sinh viên có thể thu
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
24
được nếu không đi học). Không chỉ có thế, GDĐH còn là một loại hàng hoá đặc
biệt vì có những đặc tính của hàng hoá công (lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cá
nhân, có tính bền vững đi theo suốt cuộc đời con người và người mua cuối cùng
cũng là người tiêu thụ). Vì lý do lợi nhuận ngắn hạn, một số cơ sở GDĐH có thể
cung cấp những người tốt nghịêp thiếu chất lượng. Sự lạm phát bằng cấp thiếu
tiêu chuẩn chất lượng sẽ làm tăng tổn phí giao dịch trong thị trường lao động và
làm suy giảm hiệu năng của KTTT. Ngoài ra, KTTT có thể sẽ làm cho một bộ
phận người trở lên cùng kiệt hơn nên không có khả năng chi trả học phí, mặc dù có
năng lực học tập; hay một số cha mẹ đánh giá thấp lợi ích học vấn đại học nên
không đầu tư cho con cái đi học...Cho dù trường hợp nào xảy ra, để vừa hạn chế
các tổn phí giao dịch trong thị trường lao động do chất lượng đào tạo thấp, vừa
bảo đảm cơ hội học tập đại học ngang nhau cho mọi cá nhân trong xã hội
XHCN, giáo dục đại học phải có sự can thiệp của nhà nước. Nói khác đi, xét
dưới ý niệm công bằng xã hội, GDĐH là một hàng hoá mà chính phủ phải can
thiệp mạnh mẽ vào thị trường thông qua các biện pháp như: Tài trợ trực tiếp cho
đào tạo, nghiên cứu khoa học; khuyến khích tư nhân (kể cả tư nhân nước ngoài)
đầu tư phát triển GDĐH, nhất là dưới hình thức vô vụ lợi và điều tiết chất lượng
GDĐH công cũng như tư.
Dịch vụ GDĐH không chỉ là loại sản phẩm dịch vụ có lợi ích ngoại sinh cao, mà còn là loại sản phẩm
đặc biệt vì giá cả dịch vụ biến động không theo một tỷ lệ nhất định với năng suất lao động. Về lý thuyết, đối với
một sản phẩm bất kỳ, khi lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cá nhân và do đó lớn hơn chi
phí cá nhân, để khuyến khích tiêu dùng xã hội, nhà nước cần có sự bù đắp cho
chi phí cá nhân. Việc bù đắp thuộc trách nhiệm của nhà nước hay ai đó theo
nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận. Sản phẩm dịch vụ GDĐH không bị tác
động bởi tăng năng suất lao động. Những sản phẩm thông thường, khoa học kỹ
25
thuật có thể tác động làm tăng năng suất lao động và với việc sử dụng máy móc
và công nghệ mới, người ta có thể sản xuất cùng một đơn vị sản phẩm với cùng
chất lượng nhưng với chi phí thấp hơn. Còn đối với sản phẩm dịch vụ GDĐH,
tương tự như các hoạt động nghệ thuật cao cấp, năng suất lao động của người
giảng viên không thể tăng nhanh như năng suất của một cái máy và càng không
thể tăng số sinh viên tính trên một cán bộ giảng dạy nếu không muốn giảm chất
lượng giảng dạy. Ngược lại, muốn tăng chất lượng giảng dạy cần giảm số sinh
viên trên một cán bộ giảng dạy. Hơn nữa, việc nâng cao chất lượng giảng dạy đã
làm tăng thời gian huấn luyện giảng viên, chưa kể đến nhu cầu giảng viên, thiết
bị, công cụ, sách vở và cuối cùng là sự tăng chi phí đào tạo nói chung.
Thước đo giá trị của dịch vụ GDĐH là mức phí phải trả. Hành vi này dẫn
đến sự ra đời của thị trường dịch vụ GDĐH. Thị trường dịch vụ GDĐH hình
thành một cách tự nhiên và tồn tại khách quan cùng với các loại thị trường khác
trong KTTT. Sự can thiệp của nhà nước vào thị trường dịch vụ GDĐH chủ yếu bằng việc xem xét
trợ cấp khuyến khích sản xuất hay tiêu thụ sản phẩm thông qua việc thực hiện trợ cấp giá cả hay miễn trừ các
khoản đóng góp, hay nộp thuế. Một cách tự nhiên, GDĐH trở thành nơi để chính phủ triển khai và
thi hành các chính sách công quan trọng. Thị trường này trở nên sôi động khi nền
GDĐH chuyển sang giai đoạn đáp ứng nhu cầu của số đông (đại chúng), tấm
bằng đại học trở thành tấm giấy thông hành vào đời của từng cá nhân (ở cả
những nước phát triển và đang phát triển), GDĐH được xem là phương tiện chủ
yếu mang lại lợi ích cho cá nhân và chi tiêu cho GDĐH tạo ra áp lực ngày càng
tăng lên đối với ngân sách nhà nước (NSNN). Khi mức đầu tư NSNN tính trên
đầu sinh viên giảm liên tục, như một kết quả, trường đại học phải đi tìm các
nguồn thu khác ngoài NSNN, trong đó có việc thu học phí và mở rộng các hoạt
động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, mua hay bán quyền sở hữu
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
26
trí tuệ và sản xuất thử nghiệm có tính chất kinh doanh. Cơ chế cạnh tranh giữa
các trường đại học trong nghiên cứu khoa học và hoạt động đào tạo xuất hiện.
Hệ thống trường đại học tư thục thuộc sở hữu tư nhân ra đời. Về công tác quản
lý, quản trị và hành chính, hệ thống GDĐH đòi hỏi phải được vận hành một cách
có hiệu quả hơn. Đây chính là các yếu tố và những tác nhân của quá trình hình
thành thị trường dịch vụ GDĐH.
Theo P. Williams (1996), thị trường dịch vụ GDĐH có một số ưu điểm
chính. Một là, thị trường làm cho GDĐH đáp ứng tốt hơn nhu cầu của phát triển
kinh tế - xã hội. Sự ra đời của thị trường dịch vụ GDĐH từng bước giảm bớt sự
tham gia trực tiếp của chính phủ trong hoạt động điều hành trường đại học;
chuyển quyền ra quyết định từ bộ, trường và khoa sang sinh viên và gia đình;
gắn kết các trường đại học với nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp thông qua
cơ chế đặt hàng đào tạo, thành lập trường đại học trong các công ty lớn hay lập
các công ty dịch vụ hay kinh doanh bên trong trường đại học, đồng thời các
giáo sư, giảng viên đại học có thể làm việc bán thời gian ở các doanh
nghiệp...Hai là, thị trường làm cho GDĐH có khả năng thích nghi và sáng tạo
hơn. Một phần tài chính đại học được chia sẻ từ cha mẹ sinh viên hay sinh viênnhững người được hưởng lợi cuối cùng của GDĐH. Hệ thống thị trường giải
quyết các vấn đề về trách nhiệm giải trình và rủi ro thông qua hợp đồng. Các
quan hệ thị trường lâu dài, từ 4 đến 6 hay 8 năm học đại học thúc đẩy hợp tác
và lòng tin.
Tuy nhiên, thị trường dịch vụ sản phẩm GDĐH cũng đầy rẫy những rủi ro
và bất trắc. Nó có thể làm xói mòn trách nhiệm xã hội, văn hóa và các mục tiêu
của GDĐH. Vì nó chỉ đáp ứng các lợi ích và chi phí mà thực tế xuất hiện trong
27
quan hệ cung-cầu của người mua và người bán nên trong ngắn hạn, với việc tập
trung vào hướng nghiệp và nghiên cứu ứng dụng, nó có thể phá hỏng các mục
tiêu và giá trị của giáo dục tự do và những tìm tòi lý thuyết cơ bản. Theo Leslie
và Johnson (1974), cơ chế giá trong thị trường dịch vụ GDĐH có thể dễ bị bóp
méo. Winston (1992), dưới một khía cạnh khác, cho rằng hạn chế của thị trường
dịch vụ GDĐH là tình trạng không phân bổ. Theo ông, các trường đại học là các
tổ chức phi lợi nhuận nên mặc dù có thể có thu lợi nhuận nhưng không thể phân
phối lợi nhuận này cho những bên có quyền lợi liên quan. Lợi nhuận chỉ có thể
sử dụng trong phạm vi trường đại học phù hợp với sứ mạng và nhiệm vụ được
xác định sẵn. Quá trình phân bổ nội bộ phần nhiều không phụ thuộc vào các
điều kiện thị trường. Theo Peston (1989) và Gorard (1997), một đặc điểm nữa
của thị trường dịch vụ GDĐH là không giới hạn giá cả và cung cấp thông tin. Nó
trái ngược với các mô hình thị trường tân cổ điển và là một thị trường độc quyền
có ít người bán, tiền lãi tăng lên theo tỷ lệ đầu ra. Thị trường dịch vụ GDĐH
không phải lúc nào cũng là cụ thể; vừa cạnh tranh hoàn hảo, vừa không hoàn hảo
nên nó rất đa dạng và có mối quan hệ qua lại với nhau. Gordon Winston (1992)
gọi thị trường dịch vụ GDĐH là thị trường uỷ thác vì thông tin không đối xứng.
Với những tính chất và đặc trưng hoạt động của thị trường dịch vụ GDĐH
như đã trình bày trên đây, không có và không thể có thị trường dịch vụ sản phẩm
GDĐH theo đúng nghĩa. Cấu trúc thị trường dịch vụ sản phẩm GDĐH bị ảnh
hưởng bởi những điều kiện kinh tế-xã hội cơ bản, cũng như khuôn khổ pháp luật
chung mà trong đó hệ thống GDĐH vận hành. Coulson (1996) nhận xét: không
có quốc gia nào hiện nay mở ra thị trường cạnh tranh và tự do thực sự trong
GDĐH bởi vì trước hết, việc đo lường giá trị đích thực của dịch vụ GDĐH là rất
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
28
khó. Bên cạnh đó giá cả của dịch vụ GDĐH không thể chỉ xác định dựa trên chi
phí trực tiếp của người dạy. Ngoài ra, GDĐH là thuộc tính sản phẩm công, chịu
ảnh hưởng ngoại biên thuận. Người mua sản phẩm dịch vụ GDĐH không chỉ
mang lại lợi ích cho cá nhân, mà còn mang lại lợi ích cho xã hội.
Tính chất vừa là sản phẩm hàng hóa, vừa là sản phẩm công cộng là nét đặc
trưng cơ bản nhất của sản phẩm dịch vụ GDĐH. Tính chất này có ý nghĩa quan
trọng đối với chính sách phát triển GDĐH. Nó đòi hỏi chính sách phát triển
GDĐH phải bao hàm tính công bằng, tính phù hợp, tính hiệu quả trong nội dung
và tính thực tiễn, tính xã hội, tính phê phán, tính cưỡng chế trong quy trình chính
sách.
Hỗ trợ phát triển các tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa
học-công nghệ và nâng cao năng lực khoa học công nghệ của các cơ sở đào tạo
đại học; khuyến khích cơ sở đào tạo đổi mới, nhập khẩu và ứng dụng công nghệ
mới, phương pháp giảng dạy tiên tiến vào giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Phát triển các dịch vụ thiết kế, đo lường, đánh giá,
thẩm định, giám định chất lượng, thông tin, môi giới, chuyển giao công nghệ, tư
vấn pháp lý về sở hữu trí tuệ và đào tạo theo hướng xã hội hóa.
3.3.4. Đổi mới công tác tổ chức thiết kế và thực thi chính sách phát
triển giáo dục đại học
3.3.4.1. Củng cố thể chế tổ chức trong thiết kế và thực thi chính sách
Chủ động, tích cực với quyết tâm chính trị cao, tập trung giải quyết các
vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững
chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm về chính sách phát triẻn GDĐH
trong nền KTTT định hướng XHCN. Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển
GDĐH trong nền KTTT của các nước và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi
mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập với nền GDĐH thế giới, đồng thời
bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia trong nội dung chương trình đào
tạo đại học. Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong việc chỉ đạo và
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi208
quản lý phát triển GDĐH. Bảo đảm định hướng XHCN trong lĩnh vực GDĐH
bằng việc nhận thức một cách đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy
luật khách quan của KTTT và thông lệ quốc tế trong GDĐH phù hợp với điều
kiện phát triển của Việt Nam. Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành
của thể chế GDĐH với thể chế chính trị, xã hội; giữa các yếu tố thị trường sản
xuất hàng hóa và thị trường dịch vụ GDĐH; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.
Gắn kết hài hòa giữa yêu cầu phát triển GDĐH với tăng trưởng kinh tế, tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo tồn phát huy và đổi mới phát triển truyền thống văn
hóa của dân tộc.
Tiến hành nghiên cứu trên cả lĩnh vực lý thuyết và thực tế những chính
sách dự kiến đưa vào nội dung xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật GDĐH; tiến hành dự báo đánh giá tác động kinh tế, xã hội của chính sách,
so sách các chính sách, lựa chọn chính sách nào tối ưu và phù hợp với thực tiễn
và nhu cầu phát triển của Việt Nam trước khi luật hóa hay pháp lý hóa các
chính sách GDĐH. Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong thực hiện các
công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước GDĐH
nhằm tạo thuận lợi cho mọi đối tượng dễ dàng tiếp cận với hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật, ở tất cả các khâu từ xây dựng, thẩm định, lựa chọn, quyết định
đến ban hành và tổ chức thực hiện. Xây dựng, hoàn thiện thể chế về tổ chức và
hoạt động của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cung cấp đầy đủ thông tin của cơ quan
Chính phủ, Bộ, ngành quản lý trường, trường đại học và cao đẳng tới các tổ chức
và cá nhân thông qua việc công bố công khai, đầy đủ đầy đủ các văn bản, tài liệu
và quy trình giải quyết chính sách.209
Nội dung quản lý nhà nước GDĐH hướng gần hơn tới thị trường và bảo
đảm ngày càng tốt hơn công bằng xã hội; phân biệt chức năng sở hữu nhà nước
và chức năng quản lý nhà nước để minh bạch hóa quyền sở hữu trong lĩnh vực
GDĐH; đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng cho các cơ sở dào tạo thuộc mọi thành
phần sở hữu. Khơi dậy các nguồn lực đầu tư, thúc đẩy đầu tư trong nước và thu
hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực GDĐH; phân định quyền và nghĩa vụ giữa
nhà nước, cơ sở đào tạo, người học và xã hội; tạo cho người dân niềm tin và sự
phấn khởi khi đầu tư phát triển GDĐH. Tạo lập sự tương thích giữa hệ thống
quản lý GDĐH trong nước với thông lệ và pháp luật quốc tế. Minh bạch và công
khai hoá chi tiêu công, đặc biệt là NSNN; cải cách khu vực trường công và sắp
xếp lại các lĩnh vực đào tạo thuộc độc quyền nhà nước. Thúc đẩy thị trường lao
động hoạt động theo hướng tích cực. Tiến hành thường xuyên các cuộc điều tra,
khảo sát nhằm thu thập các thông tin về chính sách phát triển GDĐH. Số mẫu
khảo sát trong mỗi cuộc điều tra cũng cần được tăng lên. Xây dựng đội ngũ
chuyên gia thiết kế câu hỏi, bảng hỏi, phân tích, đánh giá các số liệu thu được từ
các cuộc khảo sát. Nâng aco độ tin cậy và tính chính xác của các thông tin trong
mỗi cuộc khảo sát. Nâng cao tính chuyên nghiệp trong công tác phân tích, đánh
giá các kết quả khảo sát. Việc chuyển những kết luận, đánh giá qua các cuộc
điều tra vào thực tiễn phải coi là việc làm thường xuyên; là cầu nối giữa nghiên
cứu và xây dựng chính sách.
Đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ đối với hoạt động vận động chính sách
như: hỗ trợ tài chính và kỹ thuật trong quá trình thảo luận và xây dựng các kế
hoạch và chiến lược vận động; hỗ trợ tài chính và kỹ thuật trong việc nghiên cứu
và thu thập thêm các thông tin/ bằng chứng phục vụ vận động chính sách; tổ
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi210
chức nâng cao năng lực (kiến thức và kỹ năng) về vận động chính sách; hỗ trợ
một phần công tác hậu cần để thực hiện các hoạt động vận động chính sách như:
tổ chức các hội thảo, chương trình truyền hình, báo chí… Đẩy mạnh các hoạt
động nghiên cứu chính sách nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
của chính sách phát triển GDĐH trong nền KTTT định hướng XHCN. Đây phải
được xem là nhiệm vụ cấp thiết, cần được ưu tiên. Việc nghiên cứu chính sách
phát triển GDĐH phải được thực hiện ở tất cả các khâu và trên mọi phương diện:
chất lượng , mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, tổ chức, phát triển
nguồn nhân lực, tài chính, hiệu quả....của GDĐH. Các kết quả nghiên cứu thu
được phải sử dụng như những bằng chứng để hoạch định chính sách. Chỉ có như
thế, các chính sách đưa ra mới bảo đảm được tính khoa học và thực tiễn; bao
hàm hết hệ thống các mục tiêu phát triển và phù hợp với quan điểm của Đảng và
nhà nước coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Thông qua việc nghiên cứu
chính sách, tiến hành tổng kết, đánh giá một cách sâu sắc, khách quan những tác
động đa chiều về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa...của các chương trình,
chiến lược, văn bản qui phạm pháp luật, cơ chế vận hành và mô hình quản lý đã
được triển khai, áp dụng trong hệ thống GDĐH Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
Trên cơ sở đó nhận biết tính tất yếu của yêu cầu đổi mới tư duy trong hoạch định
chính sách phát triển GDĐH giai đoạn từ nay đến năm 2010, năm 2020 và những
năm tiếp theo; đồng thời nâng cao nhận thức về các thách thức của GDĐH trước
yêu cầu của CNH, HĐH, ảnh hưởng ngày càng tăng của xu thế toàn cầu hóa và
giáo dục qua biên giới.
Tạo lập sự đồng thuận xã hội; làm cho toàn xã hội có cùng nhận thức,
cùng ý chí và hành động vì một mục tiêu chung của những nhiệm vụ chính trị cụ211
thể với tinh thần tự giác và trách nhiệm công dân cao đối với sự nghiệp GDĐH
của đất nước. Đó cũng là quá trình đối thoại giữa những tổ chức và cá nhân chịu
trách nhiệm chính trong việc vạch chính sách và những tổ chức và cá nhân chịu
trách nhiệm chính triển khai, thi hiện chính sách. Đôi khi nó còn được mở rộng
thông qua các cuộc điều tra lấy dư luận xã hội. Vì vậy, để chính sách sát với tình
hình thực tế và dễ đi vào cuộc sống, cần thiết phải tổ chức đối thoại sớm trong
quá trình đưa ra quyết định. Các cuộc đối thoại nên giống nhau và công bằng cho
tất cả các bên. Thời gian đối thoại phải đủ để đáp ứng yêu cầu hội đàm. Các
thông tin liên quan đến nội dung thảo luận phải được chuẩn bị sẵn. Kết quả đối
thoại phải đưa ra được những thông tin phản hối và những thông tin này phải
được chuyển tải đến cơ quan xây dựng chính ssách và người ra quyết định chính
sách. Trên thực tế, vì những lý do kinh tế và chính trị, một chính sách cụ thể nào
đó không thể đáp ứng hoàn toàn quyền lợi của tất cả các nhóm lợi ích trong xã
hội. Do đó, mong muốn đưa ra một chính sách phát triển GDĐH thỏa mãn được
toàn bộ các yêu cầu và mục tiêu của một loại chính sách công là rất khó thực
hiện. Tuy nhiên, về mặt chính trị, yêu cầu có tính bắt buộc của bất kỳ một chính
sách phát triển GDĐH nào khi ban hành là cần đạt được trạng thái cân bằng cho
các mục tiêu công cộng, có nghĩa là tạo ra một kết quả mà bằng bất kỳ một cách
nào khác không thể đạt được. Đó là sự cân bằng những lợi ích quốc gia, lợi ích
từng cơ sở đào tạo dưới tác động của thị trường. Ảnh hưởng tương đối của từng
nhóm lợi ích cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nhóm chính là điều kiện
mà nhờ đó các quyết định chính sách tương đối có hiệu quả về kinh tế và khả thi
về chính trị.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links