musvn_fanleague
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Sắc màu mùa xuân thường gợi cho những người nghệ sĩ những cảm hứng bất
tận. Còng nh những người nghệ sĩ, những người hoạ sĩ cũng vậy. Tõ xưa các nghệ
nhân dân gian đã biết làm đẹp cuộc sống bằng những bức tranh xuân mang đầy những
lời chúc tốt đẹp, phản ánh cuộc sống một cách chân thực, cụ thể.
Mét trong những dòng tranh dân gian Êy, tranh Đông Hồ có sức sống lâu bền
và có sù cuốn hút đặc biệt với nhiều thế hệ người Việt Nam cũng như du khách
nước ngoài cũng bởi những đề tài tranh phản ánh đậm chất cuộc sống mộc mạc,
giản dị, gần gũi gắn liền với văn hoá phương Đông. Một vài tê tranh bên mâm ngũ
quả ngày tết, đó là thói quen, là tâm linh, tín ngưỡng gắn kết trong tư duy người
Việt Nam.
Tuy nhiên điều đáng buồn giờ đây đÕn với chợ tranh Đông Hồ bây giờ, người
ta không còn được thấy cảnh tấp nập bán mua, còng không còn cảnh người người,
nhà nhà ưa chuộng tranh Đông Hồ như xưa nữa. Các thế hệ sau còng Ýt muốn học
và theo nghề tranh truyền thống của cha ông vì quá vất mà Ýt lợi
nhuận. Nhưng Tranh dân gian Đông hồ đã trở thành nét đẹp văn hoá truyền
thốngđể người đời lưu giữ lạivà giá trị nghệ thuật của nó vẫn còn sống mãi trong
lòng người dân Việt Nam bởi giá trị “ minh triết” qua từng tác phẩm.
Mỗi một tác phẩm tranh dân gian Đông Hồ là sự kết hợp thành công các yếu tố tạo
hình, không gian và đường nét chính vì thế tui đã chọn “Tính minh triết trong
tranh dân gian Đông Hồ Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của mình. Với đề tài này,
tui muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình để giữ gìn, phát huy, làm giàu thêm
cho nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
2. 1. Mục đích
Nhằm làm nổi bật tính minh triếttrong tranh Dân gian Đông Hồ Việt Nam.
Nhằm trang bị những kiến thức phục vụ cho công tác giảng dạy sau này của
tôi.
Lê Tiến Quang - K55A - Sư phạm Mỹ thuật
2.2. Nhiệm vụ
Tìm hiểu tranh dân gian Đông Hồ
Tìm hiểu tính minh triÕt trong tranh dân gian Đông Hồ
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu ở đây chính là dòng tranh Đông Hồ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuổn khổ một bài tiểu luận chỉ giới hạn đề cập tới “Tính minh
triếttrong tranh dân gian Đông Hồ”. Tuy nhiên trong bài tiểu luận của mình, tui
không thể đi sâu tìm hiểu kỹ càng ở nhiều phương diện, nhiều khía cạnh nghệ thuật
mà chỉ đi vào một mảng đề tài nhỏ đó là tính minh triết trong tranh Đông Hồ
ViệtNam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp đối chứng so sánh
Phương pháp tổng hợp, hệ thống phân tích.
5. Đóng góp của tiểu luận
Tiểu luận này nghiên cứu về tính minh triết trong tranh dân gian Đông Hồ để
sinh viên và đặc biệt là sinh viên sư phạm mỹ thuật thấy được giá trị nghệ thuật to
lớn của một dòng tranh dân gian. từ đó khẳng định lại chỗ đứng cho tranh Đông
Hồ.
Bài tiểu luận của tui mong muốn góp phần thêm nguồn tư liệu cho mọi người
hiểu thêm về giá trị mét dòng tranh dân gian.
6. bố cục tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và minh hoạ, bài tiểu luận
gồm hai chương dưới đây.
Chương 1:Vài nét khái quát về tranh dân gian Đông Hồ
Chương 2:Tính minh triết trong tranh dân gian Đông Hồ
Lê Tiến Quang - K55A - Sư phạm Mỹ thuật
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ
1.1. Lịch sử phát triển của tranh Đông Hồ
Theo sử sách người Việt Nam đã biết làm một thứ giấy gọi là mật hương chỉ
vào thế kỉ thứ III. Nghề khắc ván ở đây cũng có từ thế kỉ thứ XI, XII. Sách thuyền
uyển tập anh nói là tổ tiên nhà sư Tín Học, cuối thể kỉ XII đã làm nghề khắc ván.
Năm 1299 nhà Trần đã cho in 2 bé khắc ván để ban bố.
Vào thế kỉ VXI tranh Đông Hồ xuất hiện nhưng không ai thống kê hết có bao
nhiêu mẫu tranh.
Trước kia tranh được bán chủ yếu phục vụ cho dịp Tết nguyên đán, người
nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lét bá, dùng tranh mới. Tranh
Đông Hồ xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Tỉnh Bắc
Ninh). Theo mét sè thư tịch cũ làng Đông Hồ xưa nằm trong vùng đất cổ luy lâu,
rất cùng kiệt và rất Ýt người hồi đó. Cả làng có chừng 15 hé với khoảng 50 xuất đinh,
tất cả đều nhà tranh vách đất. Các bô lão trong làng gọi tên là làng Mái, là ý mong
có được sù sinh sôi, hưng vượng. Vậy nhưng, còng theo lịch sử cò, sang thế kỉ
XIV, dân các xứ ThanhHo¸, NinhBình, Nam Hà, Hải Hưng đến làng Mái, thấy đất
bãi rộng, đã chọn đây làm nơi ngụ cư. Làng đông dần lên, vì thế các cụ ghép chữ
đông vào tên làng, vậy mà thành làng Đông Mái bởi làng nghề tranh dùng đến hồ,
là thứ keo màu, đồng thời là chất định màu sắc, nên các cô một lần nữa đổi tên làng
thành Đông Hồ.
Tõ thể kỉ XIX đến 1944 là thời kì cực thịnh của dòng tranh Đông
Hồ. LócÊytrong có 17 dòng họ thì tất cả đều làm tranh. Đến hẹn lại lên cứ khoảng
tháng 7, tháng 8 hàng năm là cả làng lại tất bật chuẩn bị cho mùa tranh tết. Khắp
làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp, không một mảnh đất trống nào không được
người dân làng Hồ tận dụng để phơi giấy: Từ sân nhà, sân đình, ven các ngõ xóm,
đường làng, dọc theo triền đê, trên các nóc nhà, nóc bếp không khí trong làng
Lê Tiến Quang - K55A - Sư phạm Mỹ thuật
rộn rạo từ sáng đến tối suốt mấy tháng liền như thế. Mỗi năm chợ tranh chỉ
nhộn nhịp tấp nập vào mấy tháng chạp, họp 5 phiên vào các ngày 6, 11, 16, 21 và
26. Bà con du khách thập phương đổ về mua tranh vui, tấp nập. Hàng nghìn hàng
triệu bức tranh các loại được mang ra xếp gọn lại bán cho các lái buôn hay bán lẻ
cho các gia đình mang về làm tranh treo Tết để mang vinh hoa, phó quý cho nhà
mình. Sau phiên chợ tranh cuối cùng (26/ 12 âm lịch) những gia đình nào còn lại
tranh bọc kín lại đem cất đi chờ đến mùa tranh năm sau lại mang ra chợ tranh bán.
Đến chợ tranh làng Hồ không chỉ có khách buôn và khách mua tranh mà có cả
những người hâm mộ nghệ thuật dân gian thích thăm thú, xem tranh và đi trẩy hội
mùa xuân.
Chó bé ôm cóc (ván khắc nét) tranh Đông Hồ
Tranh Đông Hồ có được sức sống lâu bền và có sức cuốn hút đặc biệt với
nhiều thế hệ con người Việt Nam cũng như du khách nước ngoài cũng bởi những
đề tài tranh phản ánh đậm chất cuộc sống mộc mạc, giản dị, gần gũi gắn liền với
văn hoá người Việt. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã giải thích ý nghĩa của việc
dùng màu sắc sao cho phù hợp với mỗi đề tài khác nhau: nền màu đỏ cho tranh
đánh ghen để lột tả được cái nóng giận ngột ngạt của không khí lúc đó, nền màu
vàng cho cảnh vui tươi tràn ngập sắc xuân trên các bức tranh ngày tết, nền màu
vàng nhạt cho tranh làng quê thanh bình.
Lê Tiến Quang - K55A - Sư phạm Mỹ thuật
Đôi khi những bức tranh Đông Hồ còn được các nghệ nhân trang trí kèm
những từ chỉ dẫn hay những thứ thơ tình lãng mạn.
Trải qua nhiều thăng trầm, lệ mua tranh Đông Hồ treo ngày tết đã mai một,
làng tranh còng thay đổi nhiều: trong những năm kháng chiến chống Pháp, khi cả
nước điêu linh, Đông Hồ cũng rơi vào cảnh đạn bm lay lắt, làng tranh bị giặc đốt
phá tan hoang, người dân trong lànglo chạy loạn khắp nơi, các bản khắc tranh còng
bị thiêu cháy rụi. Nghề tranh từ đó cũng bị gián đoạn. Hoà bình lặp lại năm (1954)
làng tranh được khội phục. Nhiều tổ hợp tác tranh Đông Hồ được thành lập. Đây
cũng là thời điểm tranh Đông Hồ được xuất khẩu sang các nước xã hội chủ nghĩa
đạt kết quả cao.
Năm 1985 đến 1990 do tác động của nền kinh tế thị trường, nhu cầu thẩm mỹ
của người dân thay đổi, việc xuất khẩu tranh gặp nhiều khó khăn. Người dân làng
tranh chuyển dầnsang làm hàng mã. Nghề tranh tồn tại yếu ớt chỉ còn lẻ tẻ một vài
gia đình bám trụ lấy nghề tranh như: gia đình ông Nguyễn Đăng Chế, gia đình ông
Nguyễn Hữu Sam… Đến nay nhờ công gìn giữ của các nghệ nhân Êy mà tranh
dân gian này được khôi phục lại. Cùng với nhiều sáng tạo mới mẻ tranh dân gian
Đông Hồ lại chiếm đựơc tình cảm của nhiều du khách trong và ngoài nước mỗi khi
chen chân lên mảnh đất vạn vật hữu tình này.
Tuy nhiên điều đáng buồn là giờ đây tranh Đông Hồ không còn mang tính
“thuần Việt” nh thời xưa mà đang dần bị thương mại hoá. Theo đánh giá của mét
sè hoạ sĩ tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại thường không có màu sắc thắm như
tranh cổ, nguyên nhân là người ta trộn màu trắng và điệp, quét giấy để bớt lượng
điệp khiến giấy bít độ óng ánh và trở nên “thường”, mầu sắc sử dụng còng chuyển
sang dùng mầu công nghiệp. Các bản khác mới có bản không được tinh tếnh bản
cổ.
Mét điểm đáng lưu ý nữa là các bản khắc đã đục bỏ phần chữ Hán (hay chữ
Nôm) bên cạnh phần hình của tranh, khiến tranh Ýt nhiều què cụt về ý nghĩa. Dự
đoán nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là: Có một thời chữ Hán và chữ Nôm bị
coi là phong kiến lạc hậu liệt vào danh mục bài xích nên thợ in đục
Lê Tiến Quang - K55A - Sư phạm Mỹ thuật
bỏ đi. Còng do không đọc và hiểu được nên các ván khắc truyền laị “Tam sao
thất bản”, đến mức còn lại các kí tự nhưng không đọc được ra chữ gì.
Đến với chợ Đông Hồ bây giờ người ta không còn được thấy cảnh tấp nập
mua bán, cũng không còn cảnh người người nhà nhà ưa chuộng tranh Đông
Hồnh ngày xưa nữa. Các thế hệ sau còng Ýt học và không muốn theo nghề truyền
thống của cha ông vì quá vất vả mà lại Ýt lợi nhuận. Du khách đến làng tranh bây
giờ vẫn thấy cảnh phơi giấy nhưng đó lại là giấy để lầm hàng mã chứ không phải
giấy Dó để in trannh.
Đường vào làng tranh Đông Hồ
Mặc dù gần đây có nhiều dự án khôi phục lại làng nghề, phát triển du lịch làng
nghề truyền thống song làng tranh Đông Hồ vẫn chỉ tồn tại ở mức độ phảng phất
chưa thực sự quan tâm đầu tư phát triển.
1.2. Nét độc đáo trong tranh Đông Hồ
Cùng với tranh Hàng Trống tranh Kim Hoàng, tranh Huế, Tranh Đông Hồ
được xem là mét trong những sáng tác độc đáo của nghệ thuật dân gian Việt Nam.
Không phải tự nhiên mà tranh Đông Hồ được nhà thơ Hoàng Cầm nhắc đến
đầy tự hào và kiêu hãnh trong bài thơ “Bên kia Sông đuống” như một đặc sản nghệ
thuật của vùng quê Kinh Bắc. Cái làm nên nét riêng, độc đáo của tranh Đông Hồ
chính là bí quyết ở các khâu chế màu, đồ mầu, hãm mầu và tất cả các nguyên liệu
làm tranh, được chế bản thủ công từ các nguyên liệu sẵn có trong thiên nhiên, tính
chất mộc mạc dân gian lên đến mức độ cao nhất. Kĩ thuật tranh
Lê Tiến Quang - K55A - Sư phạm Mỹ thuật
Đông Hồ bắt đầu với những tê giấy được chế tạo công phu,là một loại giấy
được sản xuất tõ vá cây dó có đặc tính xốp nhẹ, bền dai, không nhoè khi viết vẽ, Ýt
bị mối mọt, hay giòn gẫy, Èm nát. Với đặc tính chống Èm, giấy dó giúp cho các
tác phẩm nghệ thuật không bị Èm mốc và có tuổi thọ tương đối cao. Giấy dó được
nghệ nhân Đông Hồ sáng tạo thành giấy của riêng mình bằng cách nghiền nát vỏ
điệp, một loại sò sống ở biển và tráng bột này lên mặt giấy có hiệu ứng xa gần do
được quét nhiều lớp chồng lên nhau. Người ta dùng lá thông làm chổi quét bột điệp
lên, những khe hở của lá tạo các đường rãnh li ti khiến cho mặt giấy có những
đường gân lồi lõm nên khi sê lên có cảm giác thô ráp như sờ trên mặt vải thổ cẩm.
Hiệu ứng nói đến là cấu tạo thô ráp, tranh Đông Hồ gần gũi với nét dân dã do
đó lét tả được chủ đề mà dòng tranh này cần khai thác.
Màu sắc trong tranh còng là mét khai phá độc đáo của dòng tranh Đông Hồ:
Màu đen: màu đen trong tranh được làm tõ than của rơm nếp, lá tre, lá trúc
đốt vừa độ, nghiền nhá, lóc in lấy ra đun sôi kĩ với hồ nếp sẽ tạo được màu đen
mượt mà.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Sắc màu mùa xuân thường gợi cho những người nghệ sĩ những cảm hứng bất
tận. Còng nh những người nghệ sĩ, những người hoạ sĩ cũng vậy. Tõ xưa các nghệ
nhân dân gian đã biết làm đẹp cuộc sống bằng những bức tranh xuân mang đầy những
lời chúc tốt đẹp, phản ánh cuộc sống một cách chân thực, cụ thể.
Mét trong những dòng tranh dân gian Êy, tranh Đông Hồ có sức sống lâu bền
và có sù cuốn hút đặc biệt với nhiều thế hệ người Việt Nam cũng như du khách
nước ngoài cũng bởi những đề tài tranh phản ánh đậm chất cuộc sống mộc mạc,
giản dị, gần gũi gắn liền với văn hoá phương Đông. Một vài tê tranh bên mâm ngũ
quả ngày tết, đó là thói quen, là tâm linh, tín ngưỡng gắn kết trong tư duy người
Việt Nam.
Tuy nhiên điều đáng buồn giờ đây đÕn với chợ tranh Đông Hồ bây giờ, người
ta không còn được thấy cảnh tấp nập bán mua, còng không còn cảnh người người,
nhà nhà ưa chuộng tranh Đông Hồ như xưa nữa. Các thế hệ sau còng Ýt muốn học
và theo nghề tranh truyền thống của cha ông vì quá vất mà Ýt lợi
nhuận. Nhưng Tranh dân gian Đông hồ đã trở thành nét đẹp văn hoá truyền
thốngđể người đời lưu giữ lạivà giá trị nghệ thuật của nó vẫn còn sống mãi trong
lòng người dân Việt Nam bởi giá trị “ minh triết” qua từng tác phẩm.
Mỗi một tác phẩm tranh dân gian Đông Hồ là sự kết hợp thành công các yếu tố tạo
hình, không gian và đường nét chính vì thế tui đã chọn “Tính minh triết trong
tranh dân gian Đông Hồ Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của mình. Với đề tài này,
tui muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình để giữ gìn, phát huy, làm giàu thêm
cho nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
2. 1. Mục đích
Nhằm làm nổi bật tính minh triếttrong tranh Dân gian Đông Hồ Việt Nam.
Nhằm trang bị những kiến thức phục vụ cho công tác giảng dạy sau này của
tôi.
Lê Tiến Quang - K55A - Sư phạm Mỹ thuật
2.2. Nhiệm vụ
Tìm hiểu tranh dân gian Đông Hồ
Tìm hiểu tính minh triÕt trong tranh dân gian Đông Hồ
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu ở đây chính là dòng tranh Đông Hồ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuổn khổ một bài tiểu luận chỉ giới hạn đề cập tới “Tính minh
triếttrong tranh dân gian Đông Hồ”. Tuy nhiên trong bài tiểu luận của mình, tui
không thể đi sâu tìm hiểu kỹ càng ở nhiều phương diện, nhiều khía cạnh nghệ thuật
mà chỉ đi vào một mảng đề tài nhỏ đó là tính minh triết trong tranh Đông Hồ
ViệtNam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp đối chứng so sánh
Phương pháp tổng hợp, hệ thống phân tích.
5. Đóng góp của tiểu luận
Tiểu luận này nghiên cứu về tính minh triết trong tranh dân gian Đông Hồ để
sinh viên và đặc biệt là sinh viên sư phạm mỹ thuật thấy được giá trị nghệ thuật to
lớn của một dòng tranh dân gian. từ đó khẳng định lại chỗ đứng cho tranh Đông
Hồ.
Bài tiểu luận của tui mong muốn góp phần thêm nguồn tư liệu cho mọi người
hiểu thêm về giá trị mét dòng tranh dân gian.
6. bố cục tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và minh hoạ, bài tiểu luận
gồm hai chương dưới đây.
Chương 1:Vài nét khái quát về tranh dân gian Đông Hồ
Chương 2:Tính minh triết trong tranh dân gian Đông Hồ
Lê Tiến Quang - K55A - Sư phạm Mỹ thuật
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ
1.1. Lịch sử phát triển của tranh Đông Hồ
Theo sử sách người Việt Nam đã biết làm một thứ giấy gọi là mật hương chỉ
vào thế kỉ thứ III. Nghề khắc ván ở đây cũng có từ thế kỉ thứ XI, XII. Sách thuyền
uyển tập anh nói là tổ tiên nhà sư Tín Học, cuối thể kỉ XII đã làm nghề khắc ván.
Năm 1299 nhà Trần đã cho in 2 bé khắc ván để ban bố.
Vào thế kỉ VXI tranh Đông Hồ xuất hiện nhưng không ai thống kê hết có bao
nhiêu mẫu tranh.
Trước kia tranh được bán chủ yếu phục vụ cho dịp Tết nguyên đán, người
nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lét bá, dùng tranh mới. Tranh
Đông Hồ xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Tỉnh Bắc
Ninh). Theo mét sè thư tịch cũ làng Đông Hồ xưa nằm trong vùng đất cổ luy lâu,
rất cùng kiệt và rất Ýt người hồi đó. Cả làng có chừng 15 hé với khoảng 50 xuất đinh,
tất cả đều nhà tranh vách đất. Các bô lão trong làng gọi tên là làng Mái, là ý mong
có được sù sinh sôi, hưng vượng. Vậy nhưng, còng theo lịch sử cò, sang thế kỉ
XIV, dân các xứ ThanhHo¸, NinhBình, Nam Hà, Hải Hưng đến làng Mái, thấy đất
bãi rộng, đã chọn đây làm nơi ngụ cư. Làng đông dần lên, vì thế các cụ ghép chữ
đông vào tên làng, vậy mà thành làng Đông Mái bởi làng nghề tranh dùng đến hồ,
là thứ keo màu, đồng thời là chất định màu sắc, nên các cô một lần nữa đổi tên làng
thành Đông Hồ.
Tõ thể kỉ XIX đến 1944 là thời kì cực thịnh của dòng tranh Đông
Hồ. LócÊytrong có 17 dòng họ thì tất cả đều làm tranh. Đến hẹn lại lên cứ khoảng
tháng 7, tháng 8 hàng năm là cả làng lại tất bật chuẩn bị cho mùa tranh tết. Khắp
làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp, không một mảnh đất trống nào không được
người dân làng Hồ tận dụng để phơi giấy: Từ sân nhà, sân đình, ven các ngõ xóm,
đường làng, dọc theo triền đê, trên các nóc nhà, nóc bếp không khí trong làng
Lê Tiến Quang - K55A - Sư phạm Mỹ thuật
rộn rạo từ sáng đến tối suốt mấy tháng liền như thế. Mỗi năm chợ tranh chỉ
nhộn nhịp tấp nập vào mấy tháng chạp, họp 5 phiên vào các ngày 6, 11, 16, 21 và
26. Bà con du khách thập phương đổ về mua tranh vui, tấp nập. Hàng nghìn hàng
triệu bức tranh các loại được mang ra xếp gọn lại bán cho các lái buôn hay bán lẻ
cho các gia đình mang về làm tranh treo Tết để mang vinh hoa, phó quý cho nhà
mình. Sau phiên chợ tranh cuối cùng (26/ 12 âm lịch) những gia đình nào còn lại
tranh bọc kín lại đem cất đi chờ đến mùa tranh năm sau lại mang ra chợ tranh bán.
Đến chợ tranh làng Hồ không chỉ có khách buôn và khách mua tranh mà có cả
những người hâm mộ nghệ thuật dân gian thích thăm thú, xem tranh và đi trẩy hội
mùa xuân.
Chó bé ôm cóc (ván khắc nét) tranh Đông Hồ
Tranh Đông Hồ có được sức sống lâu bền và có sức cuốn hút đặc biệt với
nhiều thế hệ con người Việt Nam cũng như du khách nước ngoài cũng bởi những
đề tài tranh phản ánh đậm chất cuộc sống mộc mạc, giản dị, gần gũi gắn liền với
văn hoá người Việt. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã giải thích ý nghĩa của việc
dùng màu sắc sao cho phù hợp với mỗi đề tài khác nhau: nền màu đỏ cho tranh
đánh ghen để lột tả được cái nóng giận ngột ngạt của không khí lúc đó, nền màu
vàng cho cảnh vui tươi tràn ngập sắc xuân trên các bức tranh ngày tết, nền màu
vàng nhạt cho tranh làng quê thanh bình.
Lê Tiến Quang - K55A - Sư phạm Mỹ thuật
Đôi khi những bức tranh Đông Hồ còn được các nghệ nhân trang trí kèm
những từ chỉ dẫn hay những thứ thơ tình lãng mạn.
Trải qua nhiều thăng trầm, lệ mua tranh Đông Hồ treo ngày tết đã mai một,
làng tranh còng thay đổi nhiều: trong những năm kháng chiến chống Pháp, khi cả
nước điêu linh, Đông Hồ cũng rơi vào cảnh đạn bm lay lắt, làng tranh bị giặc đốt
phá tan hoang, người dân trong lànglo chạy loạn khắp nơi, các bản khắc tranh còng
bị thiêu cháy rụi. Nghề tranh từ đó cũng bị gián đoạn. Hoà bình lặp lại năm (1954)
làng tranh được khội phục. Nhiều tổ hợp tác tranh Đông Hồ được thành lập. Đây
cũng là thời điểm tranh Đông Hồ được xuất khẩu sang các nước xã hội chủ nghĩa
đạt kết quả cao.
Năm 1985 đến 1990 do tác động của nền kinh tế thị trường, nhu cầu thẩm mỹ
của người dân thay đổi, việc xuất khẩu tranh gặp nhiều khó khăn. Người dân làng
tranh chuyển dầnsang làm hàng mã. Nghề tranh tồn tại yếu ớt chỉ còn lẻ tẻ một vài
gia đình bám trụ lấy nghề tranh như: gia đình ông Nguyễn Đăng Chế, gia đình ông
Nguyễn Hữu Sam… Đến nay nhờ công gìn giữ của các nghệ nhân Êy mà tranh
dân gian này được khôi phục lại. Cùng với nhiều sáng tạo mới mẻ tranh dân gian
Đông Hồ lại chiếm đựơc tình cảm của nhiều du khách trong và ngoài nước mỗi khi
chen chân lên mảnh đất vạn vật hữu tình này.
Tuy nhiên điều đáng buồn là giờ đây tranh Đông Hồ không còn mang tính
“thuần Việt” nh thời xưa mà đang dần bị thương mại hoá. Theo đánh giá của mét
sè hoạ sĩ tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại thường không có màu sắc thắm như
tranh cổ, nguyên nhân là người ta trộn màu trắng và điệp, quét giấy để bớt lượng
điệp khiến giấy bít độ óng ánh và trở nên “thường”, mầu sắc sử dụng còng chuyển
sang dùng mầu công nghiệp. Các bản khác mới có bản không được tinh tếnh bản
cổ.
Mét điểm đáng lưu ý nữa là các bản khắc đã đục bỏ phần chữ Hán (hay chữ
Nôm) bên cạnh phần hình của tranh, khiến tranh Ýt nhiều què cụt về ý nghĩa. Dự
đoán nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là: Có một thời chữ Hán và chữ Nôm bị
coi là phong kiến lạc hậu liệt vào danh mục bài xích nên thợ in đục
Lê Tiến Quang - K55A - Sư phạm Mỹ thuật
bỏ đi. Còng do không đọc và hiểu được nên các ván khắc truyền laị “Tam sao
thất bản”, đến mức còn lại các kí tự nhưng không đọc được ra chữ gì.
Đến với chợ Đông Hồ bây giờ người ta không còn được thấy cảnh tấp nập
mua bán, cũng không còn cảnh người người nhà nhà ưa chuộng tranh Đông
Hồnh ngày xưa nữa. Các thế hệ sau còng Ýt học và không muốn theo nghề truyền
thống của cha ông vì quá vất vả mà lại Ýt lợi nhuận. Du khách đến làng tranh bây
giờ vẫn thấy cảnh phơi giấy nhưng đó lại là giấy để lầm hàng mã chứ không phải
giấy Dó để in trannh.
Đường vào làng tranh Đông Hồ
Mặc dù gần đây có nhiều dự án khôi phục lại làng nghề, phát triển du lịch làng
nghề truyền thống song làng tranh Đông Hồ vẫn chỉ tồn tại ở mức độ phảng phất
chưa thực sự quan tâm đầu tư phát triển.
1.2. Nét độc đáo trong tranh Đông Hồ
Cùng với tranh Hàng Trống tranh Kim Hoàng, tranh Huế, Tranh Đông Hồ
được xem là mét trong những sáng tác độc đáo của nghệ thuật dân gian Việt Nam.
Không phải tự nhiên mà tranh Đông Hồ được nhà thơ Hoàng Cầm nhắc đến
đầy tự hào và kiêu hãnh trong bài thơ “Bên kia Sông đuống” như một đặc sản nghệ
thuật của vùng quê Kinh Bắc. Cái làm nên nét riêng, độc đáo của tranh Đông Hồ
chính là bí quyết ở các khâu chế màu, đồ mầu, hãm mầu và tất cả các nguyên liệu
làm tranh, được chế bản thủ công từ các nguyên liệu sẵn có trong thiên nhiên, tính
chất mộc mạc dân gian lên đến mức độ cao nhất. Kĩ thuật tranh
Lê Tiến Quang - K55A - Sư phạm Mỹ thuật
Đông Hồ bắt đầu với những tê giấy được chế tạo công phu,là một loại giấy
được sản xuất tõ vá cây dó có đặc tính xốp nhẹ, bền dai, không nhoè khi viết vẽ, Ýt
bị mối mọt, hay giòn gẫy, Èm nát. Với đặc tính chống Èm, giấy dó giúp cho các
tác phẩm nghệ thuật không bị Èm mốc và có tuổi thọ tương đối cao. Giấy dó được
nghệ nhân Đông Hồ sáng tạo thành giấy của riêng mình bằng cách nghiền nát vỏ
điệp, một loại sò sống ở biển và tráng bột này lên mặt giấy có hiệu ứng xa gần do
được quét nhiều lớp chồng lên nhau. Người ta dùng lá thông làm chổi quét bột điệp
lên, những khe hở của lá tạo các đường rãnh li ti khiến cho mặt giấy có những
đường gân lồi lõm nên khi sê lên có cảm giác thô ráp như sờ trên mặt vải thổ cẩm.
Hiệu ứng nói đến là cấu tạo thô ráp, tranh Đông Hồ gần gũi với nét dân dã do
đó lét tả được chủ đề mà dòng tranh này cần khai thác.
Màu sắc trong tranh còng là mét khai phá độc đáo của dòng tranh Đông Hồ:
Màu đen: màu đen trong tranh được làm tõ than của rơm nếp, lá tre, lá trúc
đốt vừa độ, nghiền nhá, lóc in lấy ra đun sôi kĩ với hồ nếp sẽ tạo được màu đen
mượt mà.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: