huonguyen_mk
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Mục Lục
Trang
Lời mở đầu 3
I. Những khái niệm chung
1. Khái niệm và các đặc trưng pháp lý của doanh nghiệp 4
2. Phân loại Doanh nghiệp 5
II. Các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện hành
1. Doanh nghiệp tư nhân 6
2. Công ty
a) Công ty hợp danh 9
b) Công ty cổ phần 13
c) Công ty Trách nhiệm hữu hạn 16
( i ) Công ty TNHH một thành viên 17
(ii) Công ty TNHH hai thành viên trở lên 21
3. Doanh nghiệp nhà nước 23
công ty nhà nước 24
4. Hợp tác xã 25
5. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(i) Doanh nghiệp liên doanh 28
(ii) Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài 30
Kết Luận 31
Những từ viết tắt trong bài tập
- Doanh nghiệp nhà nước : DNNN
- Công ty trách nhiệm hữu hạn : Công ty TNHH
- Doanh nghiệp tư nhân : DNTN
- Hợp tác xã : HTX
- Trách nhiệm hữu hạn : TNHH
- Trách nhiệm vô hạn : TNVH
- Doanh nghiệp : DN
Lời mở đầu
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và phát triển, chúng ta vừa gia nhập WTO, các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước đang tìm cho mình những hướng đầu tư vào thị trường Việt Nam. Ở Việt Nam do những điều kiện lịch sử, xã hội đặc thù doanh nghiệp và pháp luật doanh nghiệp hiện này còn nhiều điểm khác biệt lớn so với xu hướng phổ biến trên thế giới; một trong những điểm khác biệt đó là vấn đề loại hình doanh nghiệp. Vì vậy việc chọn mô hình kinh doanh nào là hợp lý, thuận tiện là cho việc kinh doanh là là một vấn đề đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, em xin chọn bài tập: “pháp luật về các hình thứcdoanh nghiệp”
Với quan điểm phân loại doanh nghiệp chủ yếu dựa trên tiêu chí sở hữu, pháp luật hiện hành tại Việt Nam quy định các loại hình doanh nghiệp sau: Doanh nghiệp tư nhân, công ty (được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005), Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (được quy định tại Luật Đầu tư 2005); Doanh nghiệp nhà nước (được quy định tại Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003); Hợp tác xã (được quy định tại Luật Hợp tác xã 2003). Với các loại hình doanh nghiệp trên,em xin được trình bày những đặc điểm pháp lý của từng loại hình doanh nghiệp:
I. Những khái niệm chung
1. Khái niệm và các đặc trưng pháp lý của doanh nghiệp
Theo điều 4 khoản 1 Luật Doanh nghiệp 2005 thì “ Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Trên cơ sở khái niệm về doanh nghiệp như trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm của doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế. Trong đời sống xã hội tồn tại hình loại tổ chức khác nhau, các tổ chức này được hình thành trên cơ sở có sự liên kết của các thành viên trong tổ chức. Sự liên kết đó thông thường được biều hiện dưới những hình thức nhất định như: Điều lệ, nội quy, quy chế, thoả ước. Tổ chức được hình thành bao giờ cũng vì những mục tiêu nhất định. Đối với tổ chức kinh tế, đây là một dạng tổ chức được hình thànht trong đời sống xã hội với mục tiêu chính là tiến hành các hoạt động kinh doanh để có lợi nhuận. Có thể nói, đặc trưng này của các doanh nghiệp cho phép ta phân biệt giữa doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội.
Thứ hai, Doanh nghiệp có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định. Doanh nghiệp với tư cách là một tổ chức kinh tế tham gia hoạt động trên thị trường, doanh nghiệp sẽ phải tham gia vào các mối quan hệ pháp luật một cách độc lập bao gồm: tên gọi riêng, có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch ổn định riêng của doanh nghiệp. Thực ra để có thể tham gia trên trường các doanh nghiệp phải hội tụ nhiều điều kiện, còn những điều kiện trên chỉ là những điều kiện , những dấu hiệu cơ bản nhất mà pháp luật bắt buộc phải có.
Thứ ba, Doanh nghiệp được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật. Đây là dấu hiệu quan trọng thể hiện sự tham gia của doanh nghiệp trên thương trường là hợp pháp và được nhà nước bảo hộ. Tuy vây, không phải bất kì hoạt động nào của doanh nghiệp đã đăng kí kinh doanh đều được coi là hợp pháp. Bởi lẽ, hoạt động của doanh nghiệp chỉ được coi là hợp pháp là khi doanh nghiệp thực hiện các hoạt động trong những ngành nghề lĩnh vực đã đăng kí mà thôi. Thêm vào đó, muốn được coi là hoạt động hợp pháp thì hoạt động đó phải được thực hiện bởi người có thẩm quyền thay mặt cho doanh nghiệp, hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp luật
Thứ tư, Doanh nghiệp được thành lập với mục đich tiến hành các hoạt động kinh doanh. Đặc điểm này thể hiện rõ mục đích của việc thành lập doanh nghiệp. Với bản chất của một tổ chức kinh tế, doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu thu lợi nhuận.
2. Phân loại Doanh nghiệp
- Phân loại theo tính chịu trách nhiệm
+ DN chịu trách nhiệm vô hạn
+ DN chịu trách nhiệm hữu hạn
- Phân loại theo tư cách pháp lý của doanh nghiệp
+ DN có tư cách pháp nhân
+ DN không có tư cách pháp nhân
- Phân loại theo hình thức sở hữu
+ Với hình thức sở hữu toàn dân mà thay mặt chủ sở hữu là nhà nước, chúng ta có thể hình thành các công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà nước, công ty TNHH nhà nước một thành viên, công ty TNHH nhà nước có hai thành viên trở lên. Trong đó vốn tài sản của doanh nghiệp do nhà nước đầu tư 100%.
+ Với hình thức sở hữu tư nhân, chúng ta có thể hình thành doanh nghiệp tư nhân. Vốn tài sản của doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân đầu tư.
+ Với hình thức sở hữu tập thể, chúng ta có thể thấy hình thức sở hữu tập thể có thể hình thành nên các hợp tác xã
+ Với hình thức sở hữu của các tổ chức xã hội hay xã hội nghề nghiệ, đó là sở hữu của cả tổ chức đó nhằm thực hiện mục đích chung của các thành viên được quy định trong điều lệ, có thể hình thành công ty TNHH một thành viên
+ Với hình thức sở hữu hỗn hợp, đó là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận. Hình thức này có thể hình thành nên các doanh nghiệp liên doanh, công ty TNHH hai thành viên trở nên, công ty cổ phần.
+ Với hình thức sở hữu chung, tức là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản, chúng ta có thể hình thành công ty TNHH 2 thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp liên doanh.
- Phân loại theo nguồn luật điều chỉnh:
+ Hiện nay DNTN, công ty TNHH một thành viên,công ty TNHH 2 thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, công ty cổ phần nhà nước, công ty TNHH nhà nước một thành viên, công ty TNHH nhà nước 2 thành viên trở lên sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2005
+ Công ty nhà nước chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003
+ Hợp tác xã chịu sự điều chỉnh của Luật Hợp tác xã 2003
+ Doanh nghiệpcó vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư 2005
II. Các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện hành
1. Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là một loại hình doanh nghiệp thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2005, theo điều 141 “ Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”Bên cạnh những dấu hiệu chung để nhận biết một doanh nghiệp: là một loại hình doanh nghiệp cho nên nó hội tụ được đầy đủ được các đặc điểm của một doanh nghiệp nói chung (có tài sản riêng , có tên gọi riêng, trụ sở, có giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh) và về nguyên tắc doanh nghiệp tư nhân cũng bình đẳng với các loại doanh nghiệp khác về các quyền và nghĩa vụ trong kinh doanh thì doanh nghiệp tư nhân có những nét rất đặc thù mà thông qua đó có thể phân biệt được doanh nghiệp tư nhân với các loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ nhất, Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ.
Vốn, tài sản của doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ. Vốn này do chủ doanh nghiệp tư nhân tự kê khai,; trong quá trình hoạt động tài sản của doanh nghiệp, vốn vay, tài sản thuê phải được phản ảnh trên sổ sác, báo cáo tài chính. Vốn đầu tư này có thể được tăng giảm trong quá trình hoạt động. Đây là đặc điểm quan trọng giúp phân biệt doanh nghiệp tư nhân với các loại doanh nghiệp khác bởi lẽ trong các loại hình doanh nghiệp hiện nay chỉ duy nhất loại hình doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân đầu tư vốn thành lập,các loại hình khác đều được hình thành tư việc góp vốn, hay do một pháp nhân đầu tư toàn bộ. Trong mọi thời điểm, sự thay đổi về mức vốn kinh doanh đều có thể diễn ra, vì thế ranh giới giữa phần tài sản và vốn đưa vào trong kinh doanh và phần tài sản còn lại của chủ doanh nghiệp chỉ tồn tại một cách tạm thời. Hay nói cách khác, không có sự phân biệt rõ ràng giữa hai phần tài sản này. Điều này có ý nghĩa trong việc nhìn nhận về khối tài sản của doanh nghiệp tư nhân, khẳng định vấn đề không thể tách bạch tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân và tài sản của chính doanh nghiệp tư nhân đó.
Thứ hai, Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm về mọi hoạt động, công nợ cuả doanh nghiệp bằng toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của mình. Điều đó có nghĩa doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn. Tài sản mà chủ doanh nghiệp sử dụng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm thuộc tài sản sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân (DNTN) đầu tư kinh doanh + tài sản thuê; Tài sản thuộc sở hữu của chủ DNTN bao gồm tài sản bỏ ra kinh doanh + tài sản không bỏ ra kinh doanh khác. Tuy nhiên khối tài sản đầu tư của chủ doanh nghiệp vào doanh nghiệp và khối tài sản của chủ doanh nghiệp không bỏ ra đầu tư kinh doanh rất khó tách biệt một cách rõ ràng. Chính vì vậy, nếu phải chịu trách nhiệm thì chủ DNTN phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của mình. Chủ DNTN có thể tự mình làm giám đốc hay có thể thuê giám đốc, tuy nhiên người thay mặt theo pháp luật và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp được quy định là chủ doanh nghiệp tư nhân.
Trong trường hợp ,một DNTN không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và lâm vào tình trạng phá sản thì tất cả tài sản thuộc sở hữu của chủ DNTN đều nằm trong diện tài sản phá sản của doanh nghiệp. Ngoài ra, DNTN còn phải chịu một số hạn chế khác như không được phát hành một loại chứng khoán nào và chủ DNTN chỉ được thành lập một DNTN và cho đến khi nào DNTN đã được thành lập đó vẫn cón tồn tại thì cá nhân chủ DNTN không được thành lập thêm một DNTN nào khác.
Thứ ba, DNTN không có tư cách pháp nhân. Theo như quy định của pháp luật (Luật Dân Sự -Điều 84) thì các điều kiện để một tổ chức có tư cách pháp nhân bao gồm 4 điều kiện, trong đó có điều kiện đòi hỏi sự tách biệt rõ ràng về tài sản của doanh nghiệp với tài sản của các cá nhân, tổ chức khác mà điều này trong DNTN không thể đạt được.
2. Công ty
Hiện nay khái niệm công ty còn chưa có sự thống nhất, tuy nhiên dựa trên cơ sở của nhiều khái niệm do các học giả trên thế giới nêu lên, ta có thể hiểu công ty là sự liên kết của hai hay nhiều người cùng góp vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Như vậy, công ty thông thường có những dấu hiệu sau:
- Có sự liên kết của các thành viên
- Sự liên kết của các thành viên được biểu hiện dưới những hình thức pháp lý nhất định như: hợp đồng, điều lệ
Mô hình hợp tác xã đã xuất hiện tử rất sớm, vào khoảng năm 1844 tại nước Anh. Trong gần hai thế kỷ qua, mô hình kinh doanh này đã tồn tại và phát triển rộng rãi ở trên nhiều nước trên thế giới và trở thành một hình thức tổ chức kinh tế phổ biến của nhân dân lao động. Ở nước ta, trong thời kì kế hoạch hoá tập trung bao cấp trước đây, cũng như trong thời kì kinh tế thị trường hiện nay, các hợp tác xã đều có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế đất nước. Sự hình thành và phát triển của HTX ở Việt Nam có thể khát quát thành một số giai đoạn sau:
- Giai đoạn thứ nhất: từ năm 1945 đến năm 1958
- Giai đoạn thứ nhất: từ năm 1959 đến năm 1988
- Giai đoạn thứ nhất: từ năm 1989 đến năm 2003. Đây là thời kì đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, từ quản lý theo cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường có quản lý vĩ mô của nhà nước. HTX được quy định lại với những thay đổi lớn mang tĩnh bản chất để trở thành một hình thức doanh nghiệp tập thể tồn tại độc lập và bình đẳng so với các loại hình thức doanh nghiệp khác trong cơ chế thị trường.
- Giai đoạn thứ nhất: từ năm 2003 đến nay. HTX lại được tiếp tục hoàn thiện để phù hợp với sự thay đổi của pháp luật đối với các loại hình doanh nghiệp khác. Đó là sự hoàn thiện trong việc thành lập, trong bộ máy quản lý của HTX.
Khái niệm HTX được ghi nhận tại Điều 1- Luật hợp tác xã 2003: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật”Trên cơ sở khái niệm về HTX ,chúng ta có thể nhận dạng HTX có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất, HTX là một tổ chức kinh tế tập thể vừa mang tính chất của một tổ chức xã hội vừa là một tổ chức kinh tế như doanh nghiệp. Đây là đặc điểm rất quan trọng để phân biệt giữa HTX với các loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ hai, xã viên có thể là cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân. Trong đó hộ gia đình được hiểu là: các thành viên có tài sản chung trong quan hệ sử dụng đất, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác do pháp luật quy định; pháp nhân là các doanh nghiệp hay các tổ chức khác có đủ điều kiện pháp nhân do pháp luật quy định.
Thứ ba, Điều đặc biệt đối với loại hình này là thành viên có thể đóng góp vốn, góp sức cho HTX. Một thành viên có thể tham gia là xã viên của nhiều HTX nếu Điều lệ HTX không có quy định cấm.
Thứ tư, mục đích của việc thành lập HTX là để phát huy sức mạnh của một tập thể để thực hiện có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
Thứ năm, Vốn tài sản của HTX do các thành viên đóng góp. Khối tài sản này tách biệt so với tài sản của các cá nhân, tổ chức khác và kể cả tài sản riêng của các thành viên góp vốn. Các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về công nợ của HTX trong phạm vi phần vốn đã góp vào HTX. Chính vì vậy, HTX có tính chịu trách nhiệm hữu hạn và có tư cách pháp nhân
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX
- Nguyên tắc tự nguyện: Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của Luật hợp tác xã tán thành Điều lệ HTX đều có quyền gia nhập HTX; xã viên có quyền ra khỏi HTX theo quy định của điều lệ HTX.
- Nguyên tắc dân chủ,bình đẳng công khai: xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát HTX và có quyền ngang nhau trong biểu quyết, thực hiện công khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong điều lệ HTX.
- Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX tự chủ và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh; tự quyết định về phân phối thu nhập. Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của HTX, lãi được trích lại một phần vào các quỹ của HTX, một phần chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX.
- Nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng: xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong HTX, cộng đồng xã hội; hợp tác giữa các HTX trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
5) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(i) Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hay nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hay hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hay là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hay do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn cam kết góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp. Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp Giấy phép đầu tư.
Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án quy có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn, nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp thuận. Tỷ lệ góp vốn của bên hay các bên liên doanh nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận, nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh. Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, công nghệ, thị trường, hiệu quả kinh doanh và các lợi ích kinh tế - xã hội khác của dự án, Cơ quan cấp giấy phép đầu tư có thể xem xét cho phép bên liên doanh nước ngoài có tỷ lệ góp vốn thấp hơn, nhưng không dưới 20% vốn pháp định.
Đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp liên doanh là có sự phối hợp cùng góp vốn đầu tư sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư Việt nam. Tỷ lệ góp vốn của mỗi bên sẽ quyết định tới mức độ tham gia quản lý doanh nghiệp, tỷ lệ lợi nhuận được hưởng cũng như rủi ro mỗi bên tham gia liên doanh phải gánh chịu.
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức doanh nghiệp thực sự đem lại nhiều lợi thế cho cả nhà đầu tư việt nam và nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư việt nam, khi tham gia doanh nghiệp liên doanh, ngoài việc tượng phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp, nhà đầu tư Việt Nam còn có điều kiện tiếp cận với công nghệ hiện đại, phong cách và trình độ quản lý kinh tế tiên tiến. đối với bên nước ngoài, lợi thế được hưởng là được đảm bảo khả năng thành công cao hơn do môi trường kinh doanh, pháp lý hoàn toàn xa lạ nêu không có bên việt nam thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
(ii) Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước đầu tư nước ngoài do Nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư.
Vốn pháp định của Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bán khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp nhận.
Qua những phân tích ở trên, em xin tóm tắt lại những ưu điểm, hạn chế của các loại mô hình doanh nghiệp:
Loại hình Ưu điểm Hạn chế
Doanh nghiệp Tư nhân Một chủ đầu tư, thuận lợi trong việc quyết định các vấn đề của Doanh nghiệp Không có tư cách pháp nhân
Chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản của Chủ Doanh nghiệp
Công ty TNHH Nhiều thành viên cùng tham gia góp vốn, cùng kinh doanh
Có tư cách pháp nhân
Chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản theo tỉ lệ vốn góp Khả năng huy động vốn từ công chúng bằng h́nh thức đầu tư trực tiếp không có
Công ty Cổ phần Nhiều thành viên cùng tham gia góp vốn, cùng kinh doanh
Có tư cách pháp nhân
Chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản theo tỉ lệ vốn góp
Các cổ đông sáng lập có thể mất quyền kiểm soát Công ty Khả năng huy động vốn từ công chúng bằng h́nh thức đầu tư trực tiếp thuận lợi, công chúng có thể dễ dàng tham gia vào công ty bằng h́nh thức mua cổ phiếu của Công ty (tính chất mở của Công ty)
Công ty Hợp danh Nhiều thành viên cùng tham gia góp vốn, cùng kinh doanh
Các thành viên hợp danh có thể hoạt động nhân danh công ty
Công ty hoạt động dựa trên uy tín của các thành viên Các thành viên cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản liên quan đến các hoạt động của Công ty.
Không có tư cách pháp nhân
Hợp tác xă Có tư cách pháp nhân
Xă viên cùng góp vốn, cùng tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh và được nhận lợi nhuận trên cơ Sở hữu manh mún của các xă viên đối tài sản của ḿnh làm hạn chế các quyết định của Hợp tác xă, tính chất làm ăn nhỏ lẻ, canh tác tồn tại.
Công ty Liên doanh Do các bên nước ngoài hay Việt Nam liên kết thành lập
Công ty 100% vốn nước ngoài Do các bên nước ngoài hay bên nước ngoài thành lập.
Kết luận
Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp cho thấy, các loại hình doanh nghiệp đã có những bước phát triển mạnh mẽ trên thực tế và những quy định pháp luật về các loại hình doanh nghiệp đang từng bước hoàn thiện hơn, đáp ứng những yêu cầu khi nước ta tham gia vào WTO. Việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cần dựa trên quan điểm chỉ đạo thống nhất và có những giải pháp cụ thể, khoa học, với một lộ trình hợp lý. Qua những phân tích trên, chúng ta bước đầu cỏ thể hình dung phần nào về bản chất của từng loại hình doanh nghiệp mà pháp luật hiện nay.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
Mục Lục
Trang
Lời mở đầu 3
I. Những khái niệm chung
1. Khái niệm và các đặc trưng pháp lý của doanh nghiệp 4
2. Phân loại Doanh nghiệp 5
II. Các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện hành
1. Doanh nghiệp tư nhân 6
2. Công ty
a) Công ty hợp danh 9
b) Công ty cổ phần 13
c) Công ty Trách nhiệm hữu hạn 16
( i ) Công ty TNHH một thành viên 17
(ii) Công ty TNHH hai thành viên trở lên 21
3. Doanh nghiệp nhà nước 23
công ty nhà nước 24
4. Hợp tác xã 25
5. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(i) Doanh nghiệp liên doanh 28
(ii) Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài 30
Kết Luận 31
Những từ viết tắt trong bài tập
- Doanh nghiệp nhà nước : DNNN
- Công ty trách nhiệm hữu hạn : Công ty TNHH
- Doanh nghiệp tư nhân : DNTN
- Hợp tác xã : HTX
- Trách nhiệm hữu hạn : TNHH
- Trách nhiệm vô hạn : TNVH
- Doanh nghiệp : DN
Lời mở đầu
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và phát triển, chúng ta vừa gia nhập WTO, các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước đang tìm cho mình những hướng đầu tư vào thị trường Việt Nam. Ở Việt Nam do những điều kiện lịch sử, xã hội đặc thù doanh nghiệp và pháp luật doanh nghiệp hiện này còn nhiều điểm khác biệt lớn so với xu hướng phổ biến trên thế giới; một trong những điểm khác biệt đó là vấn đề loại hình doanh nghiệp. Vì vậy việc chọn mô hình kinh doanh nào là hợp lý, thuận tiện là cho việc kinh doanh là là một vấn đề đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, em xin chọn bài tập: “pháp luật về các hình thứcdoanh nghiệp”
Với quan điểm phân loại doanh nghiệp chủ yếu dựa trên tiêu chí sở hữu, pháp luật hiện hành tại Việt Nam quy định các loại hình doanh nghiệp sau: Doanh nghiệp tư nhân, công ty (được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005), Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (được quy định tại Luật Đầu tư 2005); Doanh nghiệp nhà nước (được quy định tại Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003); Hợp tác xã (được quy định tại Luật Hợp tác xã 2003). Với các loại hình doanh nghiệp trên,em xin được trình bày những đặc điểm pháp lý của từng loại hình doanh nghiệp:
I. Những khái niệm chung
1. Khái niệm và các đặc trưng pháp lý của doanh nghiệp
Theo điều 4 khoản 1 Luật Doanh nghiệp 2005 thì “ Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Trên cơ sở khái niệm về doanh nghiệp như trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm của doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế. Trong đời sống xã hội tồn tại hình loại tổ chức khác nhau, các tổ chức này được hình thành trên cơ sở có sự liên kết của các thành viên trong tổ chức. Sự liên kết đó thông thường được biều hiện dưới những hình thức nhất định như: Điều lệ, nội quy, quy chế, thoả ước. Tổ chức được hình thành bao giờ cũng vì những mục tiêu nhất định. Đối với tổ chức kinh tế, đây là một dạng tổ chức được hình thànht trong đời sống xã hội với mục tiêu chính là tiến hành các hoạt động kinh doanh để có lợi nhuận. Có thể nói, đặc trưng này của các doanh nghiệp cho phép ta phân biệt giữa doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội.
Thứ hai, Doanh nghiệp có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định. Doanh nghiệp với tư cách là một tổ chức kinh tế tham gia hoạt động trên thị trường, doanh nghiệp sẽ phải tham gia vào các mối quan hệ pháp luật một cách độc lập bao gồm: tên gọi riêng, có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch ổn định riêng của doanh nghiệp. Thực ra để có thể tham gia trên trường các doanh nghiệp phải hội tụ nhiều điều kiện, còn những điều kiện trên chỉ là những điều kiện , những dấu hiệu cơ bản nhất mà pháp luật bắt buộc phải có.
Thứ ba, Doanh nghiệp được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật. Đây là dấu hiệu quan trọng thể hiện sự tham gia của doanh nghiệp trên thương trường là hợp pháp và được nhà nước bảo hộ. Tuy vây, không phải bất kì hoạt động nào của doanh nghiệp đã đăng kí kinh doanh đều được coi là hợp pháp. Bởi lẽ, hoạt động của doanh nghiệp chỉ được coi là hợp pháp là khi doanh nghiệp thực hiện các hoạt động trong những ngành nghề lĩnh vực đã đăng kí mà thôi. Thêm vào đó, muốn được coi là hoạt động hợp pháp thì hoạt động đó phải được thực hiện bởi người có thẩm quyền thay mặt cho doanh nghiệp, hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp luật
Thứ tư, Doanh nghiệp được thành lập với mục đich tiến hành các hoạt động kinh doanh. Đặc điểm này thể hiện rõ mục đích của việc thành lập doanh nghiệp. Với bản chất của một tổ chức kinh tế, doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu thu lợi nhuận.
2. Phân loại Doanh nghiệp
- Phân loại theo tính chịu trách nhiệm
+ DN chịu trách nhiệm vô hạn
+ DN chịu trách nhiệm hữu hạn
- Phân loại theo tư cách pháp lý của doanh nghiệp
+ DN có tư cách pháp nhân
+ DN không có tư cách pháp nhân
- Phân loại theo hình thức sở hữu
+ Với hình thức sở hữu toàn dân mà thay mặt chủ sở hữu là nhà nước, chúng ta có thể hình thành các công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà nước, công ty TNHH nhà nước một thành viên, công ty TNHH nhà nước có hai thành viên trở lên. Trong đó vốn tài sản của doanh nghiệp do nhà nước đầu tư 100%.
+ Với hình thức sở hữu tư nhân, chúng ta có thể hình thành doanh nghiệp tư nhân. Vốn tài sản của doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân đầu tư.
+ Với hình thức sở hữu tập thể, chúng ta có thể thấy hình thức sở hữu tập thể có thể hình thành nên các hợp tác xã
+ Với hình thức sở hữu của các tổ chức xã hội hay xã hội nghề nghiệ, đó là sở hữu của cả tổ chức đó nhằm thực hiện mục đích chung của các thành viên được quy định trong điều lệ, có thể hình thành công ty TNHH một thành viên
+ Với hình thức sở hữu hỗn hợp, đó là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận. Hình thức này có thể hình thành nên các doanh nghiệp liên doanh, công ty TNHH hai thành viên trở nên, công ty cổ phần.
+ Với hình thức sở hữu chung, tức là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản, chúng ta có thể hình thành công ty TNHH 2 thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp liên doanh.
- Phân loại theo nguồn luật điều chỉnh:
+ Hiện nay DNTN, công ty TNHH một thành viên,công ty TNHH 2 thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, công ty cổ phần nhà nước, công ty TNHH nhà nước một thành viên, công ty TNHH nhà nước 2 thành viên trở lên sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2005
+ Công ty nhà nước chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003
+ Hợp tác xã chịu sự điều chỉnh của Luật Hợp tác xã 2003
+ Doanh nghiệpcó vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư 2005
II. Các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện hành
1. Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là một loại hình doanh nghiệp thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2005, theo điều 141 “ Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”Bên cạnh những dấu hiệu chung để nhận biết một doanh nghiệp: là một loại hình doanh nghiệp cho nên nó hội tụ được đầy đủ được các đặc điểm của một doanh nghiệp nói chung (có tài sản riêng , có tên gọi riêng, trụ sở, có giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh) và về nguyên tắc doanh nghiệp tư nhân cũng bình đẳng với các loại doanh nghiệp khác về các quyền và nghĩa vụ trong kinh doanh thì doanh nghiệp tư nhân có những nét rất đặc thù mà thông qua đó có thể phân biệt được doanh nghiệp tư nhân với các loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ nhất, Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ.
Vốn, tài sản của doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ. Vốn này do chủ doanh nghiệp tư nhân tự kê khai,; trong quá trình hoạt động tài sản của doanh nghiệp, vốn vay, tài sản thuê phải được phản ảnh trên sổ sác, báo cáo tài chính. Vốn đầu tư này có thể được tăng giảm trong quá trình hoạt động. Đây là đặc điểm quan trọng giúp phân biệt doanh nghiệp tư nhân với các loại doanh nghiệp khác bởi lẽ trong các loại hình doanh nghiệp hiện nay chỉ duy nhất loại hình doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân đầu tư vốn thành lập,các loại hình khác đều được hình thành tư việc góp vốn, hay do một pháp nhân đầu tư toàn bộ. Trong mọi thời điểm, sự thay đổi về mức vốn kinh doanh đều có thể diễn ra, vì thế ranh giới giữa phần tài sản và vốn đưa vào trong kinh doanh và phần tài sản còn lại của chủ doanh nghiệp chỉ tồn tại một cách tạm thời. Hay nói cách khác, không có sự phân biệt rõ ràng giữa hai phần tài sản này. Điều này có ý nghĩa trong việc nhìn nhận về khối tài sản của doanh nghiệp tư nhân, khẳng định vấn đề không thể tách bạch tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân và tài sản của chính doanh nghiệp tư nhân đó.
Thứ hai, Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm về mọi hoạt động, công nợ cuả doanh nghiệp bằng toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của mình. Điều đó có nghĩa doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn. Tài sản mà chủ doanh nghiệp sử dụng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm thuộc tài sản sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân (DNTN) đầu tư kinh doanh + tài sản thuê; Tài sản thuộc sở hữu của chủ DNTN bao gồm tài sản bỏ ra kinh doanh + tài sản không bỏ ra kinh doanh khác. Tuy nhiên khối tài sản đầu tư của chủ doanh nghiệp vào doanh nghiệp và khối tài sản của chủ doanh nghiệp không bỏ ra đầu tư kinh doanh rất khó tách biệt một cách rõ ràng. Chính vì vậy, nếu phải chịu trách nhiệm thì chủ DNTN phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của mình. Chủ DNTN có thể tự mình làm giám đốc hay có thể thuê giám đốc, tuy nhiên người thay mặt theo pháp luật và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp được quy định là chủ doanh nghiệp tư nhân.
Trong trường hợp ,một DNTN không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và lâm vào tình trạng phá sản thì tất cả tài sản thuộc sở hữu của chủ DNTN đều nằm trong diện tài sản phá sản của doanh nghiệp. Ngoài ra, DNTN còn phải chịu một số hạn chế khác như không được phát hành một loại chứng khoán nào và chủ DNTN chỉ được thành lập một DNTN và cho đến khi nào DNTN đã được thành lập đó vẫn cón tồn tại thì cá nhân chủ DNTN không được thành lập thêm một DNTN nào khác.
Thứ ba, DNTN không có tư cách pháp nhân. Theo như quy định của pháp luật (Luật Dân Sự -Điều 84) thì các điều kiện để một tổ chức có tư cách pháp nhân bao gồm 4 điều kiện, trong đó có điều kiện đòi hỏi sự tách biệt rõ ràng về tài sản của doanh nghiệp với tài sản của các cá nhân, tổ chức khác mà điều này trong DNTN không thể đạt được.
2. Công ty
Hiện nay khái niệm công ty còn chưa có sự thống nhất, tuy nhiên dựa trên cơ sở của nhiều khái niệm do các học giả trên thế giới nêu lên, ta có thể hiểu công ty là sự liên kết của hai hay nhiều người cùng góp vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Như vậy, công ty thông thường có những dấu hiệu sau:
- Có sự liên kết của các thành viên
- Sự liên kết của các thành viên được biểu hiện dưới những hình thức pháp lý nhất định như: hợp đồng, điều lệ
Mô hình hợp tác xã đã xuất hiện tử rất sớm, vào khoảng năm 1844 tại nước Anh. Trong gần hai thế kỷ qua, mô hình kinh doanh này đã tồn tại và phát triển rộng rãi ở trên nhiều nước trên thế giới và trở thành một hình thức tổ chức kinh tế phổ biến của nhân dân lao động. Ở nước ta, trong thời kì kế hoạch hoá tập trung bao cấp trước đây, cũng như trong thời kì kinh tế thị trường hiện nay, các hợp tác xã đều có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế đất nước. Sự hình thành và phát triển của HTX ở Việt Nam có thể khát quát thành một số giai đoạn sau:
- Giai đoạn thứ nhất: từ năm 1945 đến năm 1958
- Giai đoạn thứ nhất: từ năm 1959 đến năm 1988
- Giai đoạn thứ nhất: từ năm 1989 đến năm 2003. Đây là thời kì đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, từ quản lý theo cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường có quản lý vĩ mô của nhà nước. HTX được quy định lại với những thay đổi lớn mang tĩnh bản chất để trở thành một hình thức doanh nghiệp tập thể tồn tại độc lập và bình đẳng so với các loại hình thức doanh nghiệp khác trong cơ chế thị trường.
- Giai đoạn thứ nhất: từ năm 2003 đến nay. HTX lại được tiếp tục hoàn thiện để phù hợp với sự thay đổi của pháp luật đối với các loại hình doanh nghiệp khác. Đó là sự hoàn thiện trong việc thành lập, trong bộ máy quản lý của HTX.
Khái niệm HTX được ghi nhận tại Điều 1- Luật hợp tác xã 2003: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật”Trên cơ sở khái niệm về HTX ,chúng ta có thể nhận dạng HTX có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất, HTX là một tổ chức kinh tế tập thể vừa mang tính chất của một tổ chức xã hội vừa là một tổ chức kinh tế như doanh nghiệp. Đây là đặc điểm rất quan trọng để phân biệt giữa HTX với các loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ hai, xã viên có thể là cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân. Trong đó hộ gia đình được hiểu là: các thành viên có tài sản chung trong quan hệ sử dụng đất, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác do pháp luật quy định; pháp nhân là các doanh nghiệp hay các tổ chức khác có đủ điều kiện pháp nhân do pháp luật quy định.
Thứ ba, Điều đặc biệt đối với loại hình này là thành viên có thể đóng góp vốn, góp sức cho HTX. Một thành viên có thể tham gia là xã viên của nhiều HTX nếu Điều lệ HTX không có quy định cấm.
Thứ tư, mục đích của việc thành lập HTX là để phát huy sức mạnh của một tập thể để thực hiện có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
Thứ năm, Vốn tài sản của HTX do các thành viên đóng góp. Khối tài sản này tách biệt so với tài sản của các cá nhân, tổ chức khác và kể cả tài sản riêng của các thành viên góp vốn. Các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về công nợ của HTX trong phạm vi phần vốn đã góp vào HTX. Chính vì vậy, HTX có tính chịu trách nhiệm hữu hạn và có tư cách pháp nhân
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX
- Nguyên tắc tự nguyện: Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của Luật hợp tác xã tán thành Điều lệ HTX đều có quyền gia nhập HTX; xã viên có quyền ra khỏi HTX theo quy định của điều lệ HTX.
- Nguyên tắc dân chủ,bình đẳng công khai: xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát HTX và có quyền ngang nhau trong biểu quyết, thực hiện công khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong điều lệ HTX.
- Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX tự chủ và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh; tự quyết định về phân phối thu nhập. Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của HTX, lãi được trích lại một phần vào các quỹ của HTX, một phần chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX.
- Nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng: xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong HTX, cộng đồng xã hội; hợp tác giữa các HTX trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
5) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(i) Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hay nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hay hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hay là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hay do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn cam kết góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp. Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp Giấy phép đầu tư.
Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án quy có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn, nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp thuận. Tỷ lệ góp vốn của bên hay các bên liên doanh nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận, nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh. Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, công nghệ, thị trường, hiệu quả kinh doanh và các lợi ích kinh tế - xã hội khác của dự án, Cơ quan cấp giấy phép đầu tư có thể xem xét cho phép bên liên doanh nước ngoài có tỷ lệ góp vốn thấp hơn, nhưng không dưới 20% vốn pháp định.
Đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp liên doanh là có sự phối hợp cùng góp vốn đầu tư sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư Việt nam. Tỷ lệ góp vốn của mỗi bên sẽ quyết định tới mức độ tham gia quản lý doanh nghiệp, tỷ lệ lợi nhuận được hưởng cũng như rủi ro mỗi bên tham gia liên doanh phải gánh chịu.
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức doanh nghiệp thực sự đem lại nhiều lợi thế cho cả nhà đầu tư việt nam và nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư việt nam, khi tham gia doanh nghiệp liên doanh, ngoài việc tượng phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp, nhà đầu tư Việt Nam còn có điều kiện tiếp cận với công nghệ hiện đại, phong cách và trình độ quản lý kinh tế tiên tiến. đối với bên nước ngoài, lợi thế được hưởng là được đảm bảo khả năng thành công cao hơn do môi trường kinh doanh, pháp lý hoàn toàn xa lạ nêu không có bên việt nam thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
(ii) Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước đầu tư nước ngoài do Nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư.
Vốn pháp định của Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bán khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp nhận.
Qua những phân tích ở trên, em xin tóm tắt lại những ưu điểm, hạn chế của các loại mô hình doanh nghiệp:
Loại hình Ưu điểm Hạn chế
Doanh nghiệp Tư nhân Một chủ đầu tư, thuận lợi trong việc quyết định các vấn đề của Doanh nghiệp Không có tư cách pháp nhân
Chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản của Chủ Doanh nghiệp
Công ty TNHH Nhiều thành viên cùng tham gia góp vốn, cùng kinh doanh
Có tư cách pháp nhân
Chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản theo tỉ lệ vốn góp Khả năng huy động vốn từ công chúng bằng h́nh thức đầu tư trực tiếp không có
Công ty Cổ phần Nhiều thành viên cùng tham gia góp vốn, cùng kinh doanh
Có tư cách pháp nhân
Chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản theo tỉ lệ vốn góp
Các cổ đông sáng lập có thể mất quyền kiểm soát Công ty Khả năng huy động vốn từ công chúng bằng h́nh thức đầu tư trực tiếp thuận lợi, công chúng có thể dễ dàng tham gia vào công ty bằng h́nh thức mua cổ phiếu của Công ty (tính chất mở của Công ty)
Công ty Hợp danh Nhiều thành viên cùng tham gia góp vốn, cùng kinh doanh
Các thành viên hợp danh có thể hoạt động nhân danh công ty
Công ty hoạt động dựa trên uy tín của các thành viên Các thành viên cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản liên quan đến các hoạt động của Công ty.
Không có tư cách pháp nhân
Hợp tác xă Có tư cách pháp nhân
Xă viên cùng góp vốn, cùng tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh và được nhận lợi nhuận trên cơ Sở hữu manh mún của các xă viên đối tài sản của ḿnh làm hạn chế các quyết định của Hợp tác xă, tính chất làm ăn nhỏ lẻ, canh tác tồn tại.
Công ty Liên doanh Do các bên nước ngoài hay Việt Nam liên kết thành lập
Công ty 100% vốn nước ngoài Do các bên nước ngoài hay bên nước ngoài thành lập.
Kết luận
Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp cho thấy, các loại hình doanh nghiệp đã có những bước phát triển mạnh mẽ trên thực tế và những quy định pháp luật về các loại hình doanh nghiệp đang từng bước hoàn thiện hơn, đáp ứng những yêu cầu khi nước ta tham gia vào WTO. Việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cần dựa trên quan điểm chỉ đạo thống nhất và có những giải pháp cụ thể, khoa học, với một lộ trình hợp lý. Qua những phân tích trên, chúng ta bước đầu cỏ thể hình dung phần nào về bản chất của từng loại hình doanh nghiệp mà pháp luật hiện nay.

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: