conangdongdanh.kieuki
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Lời nói đầu
Có thể nói thế kỷ 20 là thế kỷ của những chuyển đổi xã hội quan trọng trong lịch sử nhân loại. Ngay từ đầu thế kỷ, từ một xã hội công nghiệp, kéo dài không đến vài thập kỷ, loài người lại bắt đầu cho một xã hội với một kỷ nguyên mới " kỷ nguyên thông tin". Và thật nhanh chóng nó đã tiếp tục chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn "xã hội nhanh". Thực chất đây là xã hội thông tin hoá cao trong đó công nghệ thông tin bao gồm hai lĩnh vực tin học và viễn thông đóng vai trò chủ đạo cho sự phát triển xã hội mà nguồn lực chủ đạo chung là tri thức và khả năng sáng tạo tưởng tượng. Một vài thế kỷ tưởng chừng như rất chậm chạp nhưng với sự phát triển mạnh mẽ của trí tuệ và công nghệ của nhân loại như ngày nay thì thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ gì ? Xã hội tiếp theo là... ? Chúng ta đã bắt đầu bước sang thế kỷ 21 và theo dự báo của nhiều nhà khoa học thì đây sẽ là thế kỷ của nền văn minh tôn giáo.
Dù nhận định trên có đúng hay không, song trong thực tế nhân loại từ trước đến nay vẫn duy trì và nâng niu những tinh hoa của những giáo lý có từ cổ xưa trong đó có giáo lý của Phật giáo. Giáo lý của Phật giáo rất đồ sộ, theo các đệ tử của Phật giáo gọi là ba tạng ( Tam Tạng Kinh) gồm: bộ Kinh, bộ Luật, bộ Luận ( Tạng Kinh, Tạng Luật, Tạng Luận). Trong Tam Tạng Kinh, đạo Phật nói chung, Thích Ca Mâu Ni - giáo chủ nói riêng- đề cập tới những chân lý và những sự kiện mà tất cả mọi người đều có thể chiêm nghiệm thông qua kinh nghiệm của bản thân. Đạo Phật không truyền dạy những lý thuyết triết học có tính chất cách mạng cũng không có ý định sáng tác ra một nền khoa học mà chỉ giải thích những gì có ở bên trong và cái gì có ngay bên ngoài mỗi một con người có liên quan đến sự giải thoát ra khỏi cảnh đau khổ của kiếp người và vạch ra con đường giải thoát. Mặt khác đạo Phật lại không lấy giáo lý làm trọng, chỉ coi đó là phương tiện đến chân lý cuối cùng. Cái cốt của đạo Phật là sự thực hành của mỗi cá nhân để đạt tới sự tự chứng, sự giác ngộ. Do vậy đạo Phật sâu rộng vô cùng, không thể lấy cái tri thức và cái phép suy luận ra mà bàn luận cho rõ được. Chữ Phật là tiếng gọi tắt của từ Hán Việt: Phật Đà, từ này cũng dịch từ tiếng Phạn ( Boudha). Phật hay Boudha nếu diễn dịch ra, lấy nghĩa chân đế là cái nghĩa chân thực tuyệt đối mà xem xét thì Phật hoàn toàn như không, không sinh, không diệt, không tưởng, không khởi, không hoại, không lưu chuyển, không chỉ tức, không thành, tính không dự tính, không đoạn tận, là không độc nhất vô nhị trong vũ trụ... Cái tính chất đó của Phật thường gọi là pháp thân. Pháp thân là phần sáng tỏ kỳ tình mọi vật nhờ đó mà có, rồi chung quy lại quay về nó. Nhưng theo cái nghĩa chân đế này chỉ có một Phật chứ không có hai. Nhưng xét về mặt đời thường con người luôn nhìn vào sự biến đổi thì lại coi Phật là cái danh hiệu để chỉ những bậc có trí tuệ cực kỳ minh triết siêu phàm, có thể hiểu thấu hết mọi sự diễn biến trong vũ trụ. Những bậc ấy chứng được cái pháp thân chân thực vượt ra ngoài vòng diễn biến, biến hoá sau đó đem dự biết của mình để tuyên truyền cho chúng sinh thoát ra khỏi cái vòng luân chuyển sinh tử đó.
Ba tạng kinh điển Phật giáo với hàng vạn quyển nhưng có hai vấn đề cơ bản và quan trọng nhất gồm: 4 chân lý giải thích về kiếp sống sinh, trụ, dị, diệt và 12 nhân duyên giải thích sự tương quan sinh tồn qua kiếp sống của con người nói riêng và các giai đoạn thành, trụ, hoại, không của muôn vật nói chung ( theo phạm trù triết học còn gọi là vấn đề nhân sinh và vũ trụ ) đã sớm du nhập vào Việt Nam và có những ảnh hưởng không nhỏ đến văn hoá, kinh tế, chính trị Việt Nam trong nhiều thế kỷ qua. Không những thế Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam đã được người dân bản xứ tiếp nhận tự nhiên và khi hoà nhập đã tạo thành một bản sắc rất riêng cho tôn giáo ở Việt Nam.
Bố cục bài viết như sau:
Lời nói đầu
Phần I. Những hiểu biết chung về Phật giáo
I. Sự ra đời và sự phát triển của Phật giáo
2. Vài nét về người sáng lập ra đạo Phật
3. Con đường truyền đi của đạo Phật
II. Nội dung của đạo Phật
1. Khổ đế
2. Nhân đế hay tập đế
3. Diệt đế
4. Đạo đế
Phần II. Phật giáo du nhập vào Việt Nam và những ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến Việt Nam qua các thời kỳ
I. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
1. Bối cảnh lịch sử
2. Nguồn gốc trung tâm Phật giáo Luy Lâu
II. Những ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến Việt Nam qua các thời kỳ
1. Hai thế kỷ đầu Tây lịch
2.Phật giáo trong các triều đại Việt Nam
Phần III. Kết luận
Phần I:
Những hiểu biết chung về Phật giáo
I. Sự ra đời và phát triển của Phật giáo
1. Phật giáo ra đời
Trong lịch sử triết học của ấn Độ, mà thực chất là lịch sử phát triển của các hệ tư tưởng triết học xen lẫn với tôn giáo, có một thời kỳ là thời kỳ Bàlamôn giáo, Phật giáo ( từ thế kỷ VI trước công nguyên đến thế kỷ thứ VI sau công nguyên).
ở thời kỳ này, mặc dù nền kinh tế đã phát triển hơn trước, nhưng nó vẫn bị kìm hãm bởi tính chất tổ chức kiên cố của công xã nông thôn, bởi sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt và sự thống trị của nhà nước trung ương tập quyền.
Trong lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, các trào lưu triết học, mà thực chất là các hệ tư tưởng của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, xuất hiện đa dạng nhưng chia thành hai hệ thống chính đối lập nhau: chính thống và không chính thống. Hệ tư tưởng chính thống với thế giới quan duy tâm, tôn giáo của kinh Veda và giáo lý Bàlamôn trở thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Nhưng hệ tư tưởng không chính thống với đạo Phật, đạo Jaina và phong trào đòi tự do tư tưởng, đòi bình đẳng xã hội ở vùng Đông ấn lại ăn sâu vào mọi tầng lớp nhân dân.
Đạo Phật đã hình thành ở ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên, người sáng lập là thái tử Sidharta ( Tất Đạt Đa) ( Cồ - đăm), với tư cách là một trong những hệ tư tưởng tiên phong chống phân chia giai cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nỗi khổ của nhân dân ấn Độ nói riêng, với con người nói chung.
2. Vài nét về người sáng lập đạo Phật:
Thái tử Tất Đạt Đa ( Sidharta) là con vua Tịnh Phạn ( Sudhodana) nước Ca Tỳ La Vệ ( Kapila vastu). Truyền kể vào năm 624 trước công nguyên, hoàng hậu MaDa (Maya) sinh hạ một hoàng tử tuấn tú tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini) dưới gốc cây Ưu Bát La, thường gọi là cây Vô Ưu ( asokaa) có hoa với sắc màu rực rỡ. Thái tử sinh vào ngày trăng tròn tháng Vésaka, nhằm ngày rằm tháng tư âm lịch và được đặt tên là Tất Đạt Đa. Lớn lên, thái tử văn võ toàn tài, vợ là công chúa Da Du Đà La ( Yasodava) con vua Thiện Giác, cuộc sống rất đầy đủ, sung sướng.
Nhưng những điều mắt thấy tai nghe về những nỗi đau khổ của con người đã ám ảnh tâm tư thái tử. Một ngày kia, thái tử ra đi, tương truyền ngài đến dòng A Nô Ma cắt tóc làm đạo sĩ. Ngài rủ năm người đến vùng Uruvela tu khổ hạnh trong 6 năm. Nhưng sau 6 năm học đạo và khổ hạnh, thái tử thấy kẻ hưởng lạc sẽ bê tha thối nát, còn tu hành khổ hạnh chỉ chuốc thêm khổ thân, chỉ có con đường trung đạo mới mong thành chính quả. Bởi thế, Thái tử đã bỏ 5 anh em ông Kiều Trần Như, dùng bát sữa của mục nữ Tu Xá Đề ( Sajata), xuống sông Ni Liên tắm rửa, rồi lên thiền quán dưới gốc cây pipal ( cây Tất Bát La, xứ Ba La Nại) lớn và ngồi dưới gốc cây suy nghĩ. Tương truyền là qua 49 ngày, ngài đã chứng tam minh tức là Túc mạng minh, Thiên nhân minh và Lậu tận minh, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, năm 36 tuổi. Gốc cây chỗ ngài ngồi gọi là Bồ đề đạo dưỡng ( Bodhimanda) hay Kim cương toạ ( Vadjrasana).
Sau đó, ngài tìm 5 người bạn trước đây, giác ngộ cho họ, rồi cùng họ trong suốt 40 năm còn lại của cuộc đời đi truyền bá tư tưởng của mình. Có những câu chuyện đã thành huyền thoại về Phật như Phật đã dừng chân bên vệ đường xâu kim cho bà già mù loà, săn sóc, dọn dẹp ô uế cho người bệnh, nhận cơm thừa của một tiện nữ dâng cúng... Từ những việc nhỏ nhất, tất cả đều thể hiện lòng từ bi bác ái của Ngài và đạo của Ngài.
3. Con đường truyền đi của đạo Phật
Sau Phật Niết bàn, các đệ tử Phật kiết tập 4 lần. Qua cuộc kiết tập lần thứ hai, do quan điểm bất đồng, Phật giáo chia thành hai phái: Thượng toạ bộ và Đại chúng bộ. Thượng toạ bộ chủ trương bảo thủ y nguyên Phật giáo ban đầu, đọc kinh bằng tiếng Pali. Đại chúng bộ có tư tưởng cấp tiến, phóng khoáng đọc kinh bằng tiếng Sanskrit.
Dị biệt tiếp tục phát triển, về sau giáo đoàn Phật giáo cho làm hai hệ là Nam truyền và Bắc truyền. Thượng toạ bộ chi phối Nam ấn và Phật giáo Nam truyền liên tục hưng thịnh. Đại chúng bộ chi phối Bắc ấn, nhưng mãi đến thời Bồ Tát Mã Minh ( Asvaghosha) 5 thế kỷ sau Phật niết bàn, mới mở màn hưng thịnh và sáng rỡ nhất là thời kỳ Bồ Tát Long Thọ ( Nagarjuna) đầu thế kỷ II sau công nguyên.
Phật giáo Nam truyền lan đến các nước phía Nam ấn: Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia và đa số trở thành quốc giáo. Phật giáo Bắc truyền lan đến các vùng phía Bắc ấn ( Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản... ) mà mỗi nước lại có màu sắc riêng. Trung Hoa đã làm cho Phật giáo Bắc truyền thêm rực sáng. Sau này còn gọi Phật giáo Nam truyền là Phật giáo Tiểu Thừa, còn Phật giáo Bắc truyền là Phật giáo Đại Thừa.
Với hai con đường thuỷ và bộ Phật giáo cũng vào Việt Nam những thế kỷ đầu công nguyên.
II. Nội dung của đạo Phật
Thực chất của đạo Phật là một học thuyết về "nỗi khổ " và sự giải thoát. Cốt lõi của học thuyết này là " Tứ diệu đế " ( bốn chân lý kì diệu ) hay " Tứ thánh đế " (bốn chân lý thánh ):
- Khổ đế
- Nhân đế hay Tập đế
- Diệt đế
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Lời nói đầu
Có thể nói thế kỷ 20 là thế kỷ của những chuyển đổi xã hội quan trọng trong lịch sử nhân loại. Ngay từ đầu thế kỷ, từ một xã hội công nghiệp, kéo dài không đến vài thập kỷ, loài người lại bắt đầu cho một xã hội với một kỷ nguyên mới " kỷ nguyên thông tin". Và thật nhanh chóng nó đã tiếp tục chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn "xã hội nhanh". Thực chất đây là xã hội thông tin hoá cao trong đó công nghệ thông tin bao gồm hai lĩnh vực tin học và viễn thông đóng vai trò chủ đạo cho sự phát triển xã hội mà nguồn lực chủ đạo chung là tri thức và khả năng sáng tạo tưởng tượng. Một vài thế kỷ tưởng chừng như rất chậm chạp nhưng với sự phát triển mạnh mẽ của trí tuệ và công nghệ của nhân loại như ngày nay thì thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ gì ? Xã hội tiếp theo là... ? Chúng ta đã bắt đầu bước sang thế kỷ 21 và theo dự báo của nhiều nhà khoa học thì đây sẽ là thế kỷ của nền văn minh tôn giáo.
Dù nhận định trên có đúng hay không, song trong thực tế nhân loại từ trước đến nay vẫn duy trì và nâng niu những tinh hoa của những giáo lý có từ cổ xưa trong đó có giáo lý của Phật giáo. Giáo lý của Phật giáo rất đồ sộ, theo các đệ tử của Phật giáo gọi là ba tạng ( Tam Tạng Kinh) gồm: bộ Kinh, bộ Luật, bộ Luận ( Tạng Kinh, Tạng Luật, Tạng Luận). Trong Tam Tạng Kinh, đạo Phật nói chung, Thích Ca Mâu Ni - giáo chủ nói riêng- đề cập tới những chân lý và những sự kiện mà tất cả mọi người đều có thể chiêm nghiệm thông qua kinh nghiệm của bản thân. Đạo Phật không truyền dạy những lý thuyết triết học có tính chất cách mạng cũng không có ý định sáng tác ra một nền khoa học mà chỉ giải thích những gì có ở bên trong và cái gì có ngay bên ngoài mỗi một con người có liên quan đến sự giải thoát ra khỏi cảnh đau khổ của kiếp người và vạch ra con đường giải thoát. Mặt khác đạo Phật lại không lấy giáo lý làm trọng, chỉ coi đó là phương tiện đến chân lý cuối cùng. Cái cốt của đạo Phật là sự thực hành của mỗi cá nhân để đạt tới sự tự chứng, sự giác ngộ. Do vậy đạo Phật sâu rộng vô cùng, không thể lấy cái tri thức và cái phép suy luận ra mà bàn luận cho rõ được. Chữ Phật là tiếng gọi tắt của từ Hán Việt: Phật Đà, từ này cũng dịch từ tiếng Phạn ( Boudha). Phật hay Boudha nếu diễn dịch ra, lấy nghĩa chân đế là cái nghĩa chân thực tuyệt đối mà xem xét thì Phật hoàn toàn như không, không sinh, không diệt, không tưởng, không khởi, không hoại, không lưu chuyển, không chỉ tức, không thành, tính không dự tính, không đoạn tận, là không độc nhất vô nhị trong vũ trụ... Cái tính chất đó của Phật thường gọi là pháp thân. Pháp thân là phần sáng tỏ kỳ tình mọi vật nhờ đó mà có, rồi chung quy lại quay về nó. Nhưng theo cái nghĩa chân đế này chỉ có một Phật chứ không có hai. Nhưng xét về mặt đời thường con người luôn nhìn vào sự biến đổi thì lại coi Phật là cái danh hiệu để chỉ những bậc có trí tuệ cực kỳ minh triết siêu phàm, có thể hiểu thấu hết mọi sự diễn biến trong vũ trụ. Những bậc ấy chứng được cái pháp thân chân thực vượt ra ngoài vòng diễn biến, biến hoá sau đó đem dự biết của mình để tuyên truyền cho chúng sinh thoát ra khỏi cái vòng luân chuyển sinh tử đó.
Ba tạng kinh điển Phật giáo với hàng vạn quyển nhưng có hai vấn đề cơ bản và quan trọng nhất gồm: 4 chân lý giải thích về kiếp sống sinh, trụ, dị, diệt và 12 nhân duyên giải thích sự tương quan sinh tồn qua kiếp sống của con người nói riêng và các giai đoạn thành, trụ, hoại, không của muôn vật nói chung ( theo phạm trù triết học còn gọi là vấn đề nhân sinh và vũ trụ ) đã sớm du nhập vào Việt Nam và có những ảnh hưởng không nhỏ đến văn hoá, kinh tế, chính trị Việt Nam trong nhiều thế kỷ qua. Không những thế Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam đã được người dân bản xứ tiếp nhận tự nhiên và khi hoà nhập đã tạo thành một bản sắc rất riêng cho tôn giáo ở Việt Nam.
Bố cục bài viết như sau:
Lời nói đầu
Phần I. Những hiểu biết chung về Phật giáo
I. Sự ra đời và sự phát triển của Phật giáo
2. Vài nét về người sáng lập ra đạo Phật
3. Con đường truyền đi của đạo Phật
II. Nội dung của đạo Phật
1. Khổ đế
2. Nhân đế hay tập đế
3. Diệt đế
4. Đạo đế
Phần II. Phật giáo du nhập vào Việt Nam và những ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến Việt Nam qua các thời kỳ
I. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
1. Bối cảnh lịch sử
2. Nguồn gốc trung tâm Phật giáo Luy Lâu
II. Những ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến Việt Nam qua các thời kỳ
1. Hai thế kỷ đầu Tây lịch
2.Phật giáo trong các triều đại Việt Nam
Phần III. Kết luận
Phần I:
Những hiểu biết chung về Phật giáo
I. Sự ra đời và phát triển của Phật giáo
1. Phật giáo ra đời
Trong lịch sử triết học của ấn Độ, mà thực chất là lịch sử phát triển của các hệ tư tưởng triết học xen lẫn với tôn giáo, có một thời kỳ là thời kỳ Bàlamôn giáo, Phật giáo ( từ thế kỷ VI trước công nguyên đến thế kỷ thứ VI sau công nguyên).
ở thời kỳ này, mặc dù nền kinh tế đã phát triển hơn trước, nhưng nó vẫn bị kìm hãm bởi tính chất tổ chức kiên cố của công xã nông thôn, bởi sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt và sự thống trị của nhà nước trung ương tập quyền.
Trong lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, các trào lưu triết học, mà thực chất là các hệ tư tưởng của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, xuất hiện đa dạng nhưng chia thành hai hệ thống chính đối lập nhau: chính thống và không chính thống. Hệ tư tưởng chính thống với thế giới quan duy tâm, tôn giáo của kinh Veda và giáo lý Bàlamôn trở thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Nhưng hệ tư tưởng không chính thống với đạo Phật, đạo Jaina và phong trào đòi tự do tư tưởng, đòi bình đẳng xã hội ở vùng Đông ấn lại ăn sâu vào mọi tầng lớp nhân dân.
Đạo Phật đã hình thành ở ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên, người sáng lập là thái tử Sidharta ( Tất Đạt Đa) ( Cồ - đăm), với tư cách là một trong những hệ tư tưởng tiên phong chống phân chia giai cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nỗi khổ của nhân dân ấn Độ nói riêng, với con người nói chung.
2. Vài nét về người sáng lập đạo Phật:
Thái tử Tất Đạt Đa ( Sidharta) là con vua Tịnh Phạn ( Sudhodana) nước Ca Tỳ La Vệ ( Kapila vastu). Truyền kể vào năm 624 trước công nguyên, hoàng hậu MaDa (Maya) sinh hạ một hoàng tử tuấn tú tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini) dưới gốc cây Ưu Bát La, thường gọi là cây Vô Ưu ( asokaa) có hoa với sắc màu rực rỡ. Thái tử sinh vào ngày trăng tròn tháng Vésaka, nhằm ngày rằm tháng tư âm lịch và được đặt tên là Tất Đạt Đa. Lớn lên, thái tử văn võ toàn tài, vợ là công chúa Da Du Đà La ( Yasodava) con vua Thiện Giác, cuộc sống rất đầy đủ, sung sướng.
Nhưng những điều mắt thấy tai nghe về những nỗi đau khổ của con người đã ám ảnh tâm tư thái tử. Một ngày kia, thái tử ra đi, tương truyền ngài đến dòng A Nô Ma cắt tóc làm đạo sĩ. Ngài rủ năm người đến vùng Uruvela tu khổ hạnh trong 6 năm. Nhưng sau 6 năm học đạo và khổ hạnh, thái tử thấy kẻ hưởng lạc sẽ bê tha thối nát, còn tu hành khổ hạnh chỉ chuốc thêm khổ thân, chỉ có con đường trung đạo mới mong thành chính quả. Bởi thế, Thái tử đã bỏ 5 anh em ông Kiều Trần Như, dùng bát sữa của mục nữ Tu Xá Đề ( Sajata), xuống sông Ni Liên tắm rửa, rồi lên thiền quán dưới gốc cây pipal ( cây Tất Bát La, xứ Ba La Nại) lớn và ngồi dưới gốc cây suy nghĩ. Tương truyền là qua 49 ngày, ngài đã chứng tam minh tức là Túc mạng minh, Thiên nhân minh và Lậu tận minh, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, năm 36 tuổi. Gốc cây chỗ ngài ngồi gọi là Bồ đề đạo dưỡng ( Bodhimanda) hay Kim cương toạ ( Vadjrasana).
Sau đó, ngài tìm 5 người bạn trước đây, giác ngộ cho họ, rồi cùng họ trong suốt 40 năm còn lại của cuộc đời đi truyền bá tư tưởng của mình. Có những câu chuyện đã thành huyền thoại về Phật như Phật đã dừng chân bên vệ đường xâu kim cho bà già mù loà, săn sóc, dọn dẹp ô uế cho người bệnh, nhận cơm thừa của một tiện nữ dâng cúng... Từ những việc nhỏ nhất, tất cả đều thể hiện lòng từ bi bác ái của Ngài và đạo của Ngài.
3. Con đường truyền đi của đạo Phật
Sau Phật Niết bàn, các đệ tử Phật kiết tập 4 lần. Qua cuộc kiết tập lần thứ hai, do quan điểm bất đồng, Phật giáo chia thành hai phái: Thượng toạ bộ và Đại chúng bộ. Thượng toạ bộ chủ trương bảo thủ y nguyên Phật giáo ban đầu, đọc kinh bằng tiếng Pali. Đại chúng bộ có tư tưởng cấp tiến, phóng khoáng đọc kinh bằng tiếng Sanskrit.
Dị biệt tiếp tục phát triển, về sau giáo đoàn Phật giáo cho làm hai hệ là Nam truyền và Bắc truyền. Thượng toạ bộ chi phối Nam ấn và Phật giáo Nam truyền liên tục hưng thịnh. Đại chúng bộ chi phối Bắc ấn, nhưng mãi đến thời Bồ Tát Mã Minh ( Asvaghosha) 5 thế kỷ sau Phật niết bàn, mới mở màn hưng thịnh và sáng rỡ nhất là thời kỳ Bồ Tát Long Thọ ( Nagarjuna) đầu thế kỷ II sau công nguyên.
Phật giáo Nam truyền lan đến các nước phía Nam ấn: Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia và đa số trở thành quốc giáo. Phật giáo Bắc truyền lan đến các vùng phía Bắc ấn ( Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản... ) mà mỗi nước lại có màu sắc riêng. Trung Hoa đã làm cho Phật giáo Bắc truyền thêm rực sáng. Sau này còn gọi Phật giáo Nam truyền là Phật giáo Tiểu Thừa, còn Phật giáo Bắc truyền là Phật giáo Đại Thừa.
Với hai con đường thuỷ và bộ Phật giáo cũng vào Việt Nam những thế kỷ đầu công nguyên.
II. Nội dung của đạo Phật
Thực chất của đạo Phật là một học thuyết về "nỗi khổ " và sự giải thoát. Cốt lõi của học thuyết này là " Tứ diệu đế " ( bốn chân lý kì diệu ) hay " Tứ thánh đế " (bốn chân lý thánh ):
- Khổ đế
- Nhân đế hay Tập đế
- Diệt đế
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: