Ephrem

New Member
Download Tiểu luận Thi pháp và thi pháp học ứng dụng phân tích thi pháp bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa

Download miễn phí Tiểu luận Thi pháp và thi pháp học ứng dụng phân tích thi pháp bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa





Lịch sử Việt Nam phát triển không bình thường, do chiến tranh liên miên (chống ngoại xâm, nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến). Khoa học kỹ thuật của nước ta chậm phát triển. Trong lao động sản xuất, tuy nhân dân ta đúc kết được một số kinh nghiệm quý báu, nhưng những kinh nghiệm này chưa bao giờ được nâng thành khoa học với đúng nghĩa của nó. Cha ông ta không có truyền thống lý luận, trừ hai bộ môn khoa học gắn liền với sự sống còn của khoa học và sự sống còn của con người là khoa quân sự và khoa y học. Hoàn cảnh lịch sử hướng cha ông ta đi theo con đường tiếp nhận, bắt người Việt xưa chỉ nghĩ những chuyện thực tế, ứng dụng nhanh chóng cái học được để ứng phó với hiểm hoạ ngoại xâm và bị đồng hoá.



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:

Đại học Quốc gia Hà Nội
TRường Đại học xã hội và nhân văn
Khoa văn học
Tiểu luận
Thi pháp và thi pháp học ứng dụng phân tích thi pháp bài ca dao
“Trèo lên cây bưởi hái hoa”
Người hướng dẫn : GS, TS. Nguyễn Xuân Kính
Học viên thực hiện : Nguyễn Ngọc Hưng
Lớp : cao học văn K51
Hà Nội, tháng 5/ 2008
Thi pháp và thi pháp học
Hiện nay về cơ bản chưa có khái niệm thi pháp mà chỉ có giới thuyết. Có người quan niệm thi pháp là sự tổng hợp các thành tố của hình thức nghệ thuật trong tác phẩm ngôn từ. Có người hiểu rộng hơn, thi pháp không chỉ bao gồm những thành tố kể trên mà còn bao gồm cả những vấn đề loại hình, thể tài, những nguyên tắc và phương pháp phản ánh hiện thực và các phạm trù: không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật của tác giả về thế giới và con người. Tóm lại, thi pháp là cái có thật, gồm nhiều thành tố: ngôn ngữ, nhịp và vần, kết cấu, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ
thuật, giọng điệu, biểu tượng nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật của tác giả về cuộc đời và con người. Tuỳ từng thể loại mà mỗi yếu tố trên đậm hay nhạt trong mỗi tác phẩm. Ví dụ thơ mạnh về nhịp và vần, văn xuôi mạnh về cấu trúc.
Ngày nay chúng ta hiểu thi pháp là tổ hợp những đặc tính thẩm mỹ – nghệ thuật và phong cách của một hiện tượng văn học, là cấu trúc bên trong của nó, là hệ thống đặc trưng của những thành tố nghệ thuật và mối quan hệ giữa chúng.
Thi pháp học là khoa học nghiên cứu về thi pháp. Nghiên cứu thi pháp văn học là nhấn mạnh bản chất nghệ thuật của tác phẩm, là xem xét tác phẩm như một chỉnh thể thống nhất các thành tố, các cấp độ nghệ thuật. Nghiên cứu thi pháp nhằm chỉ ra cái hay, cái bản chất nghệ thuật của tác phẩm, chỉ ra lý do tồn tại của hình thức. Do vậy, với người phê bình, cảm thụ văn học, nghiên cứu thi pháp giúp tránh xa nhữg tuỳ tán, mâu thuẫn chủ quan. Còn với người sáng tác, nó giúp rút ngắn con đường tìm tòi, sáng tạo, nhanh chóng đến thành công hơn.
Thi pháp là một tồn tại khách quan, là cái có trước, nó xuất hiện từ khi con người biết sáng tạo nghệ thuật một cách tự giác. Thi pháp học là cái có sau vì là khoa học nghiên cứu về thi pháp. Thi pháp học và thi pháp thuộc vào số những thuật ngữ được sử dụng sớm nhất và có sức sống lâu dài nhất của khoa nghiên cứu văn học.
Vấn đề nghiên cứu thi pháp ở nước ta.
Về cơ bản cho đến nay việc nghiên cứu thi pháp ở nước ta vẫn chưa nhiều thành tựu.
Thuật ngữ thi pháp đã có từ rất sớm, đầu tiên tại Hi Lạp. Công trình về thi pháp tiêu biểu có thể kể đến là Nghệ thuật thi ca của Arixtot. Từ thi ở đây là chỉ chung tất cả các thể loại vì thời kỳ đó tất cả các sáng tác văn chương đều viết dưới dạng thơ. Arixtot sống khoảng năm 384 đến năm 322 trước công nguyên. Do vây, có thể nói, đây là công trình nghiên cứu công phu, khoa học đầu tiên của nhân loại về thi pháp. Trong cuốn sách này, Arixtot đã đưa ra những kiến giải sâu sắc, toàn diện về đặc trưng thi pháp của các thể loại tự sự, trữ tình, kịch khi mà trình độ nhận thức của con người vẫn còn nhiều sự ngây thơ, mộc mạc và những thành tựu của văn học nhân loại vẫn chưa nhiều.
Sau Hi Lạp có thể kể đến là Trung Quốc. Đỉnh cao của lý luận văn học nghệ thuật Trung Quốc có thể kể đến là công trình Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp. Lưu Hiệp hiện vẫn chưa rã năm sinh năm mất nhưng nhiều người cho rằng ông sống khoảng từ năm 465 đến 520. Cuốn sách được xác định ra đời vào khoảng năm 496 đến 501. Sống trong thời đại văn chương hoa lệ, phù phiếm, không vừa ý với tình hình văn học đương thời, xuất phát từ lập trường Nho gia, ông đã khổ công viết Văn tâm điêu long trong vòng 30 năm với khát vọng thay đổi thứ văn chương phù phiếm của thời đại. Ông bàn nhiều đến mục đích, chức năng của văn học, nguồn gốc của cái đẹp, đề ra những tiêu chuẩn với tác phẩm văn học và những yêu cầu đối với nhà văn. ông còn viết về công việc phê bình văn học. Theo ông, nội dung và hình thức là hai yếu tố không thể tách rời trong tác phẩm văn học, trong đó nội dung giữ vai trò quyết định. Tác giả phản đối những tác phẩm nặng về hình thức hoa mỹ mà coi nhẹ nội dung. Ông viết: “Nếu có phong cách mà thiếu vẻ đẹp, thì cũng như con chim ưng trong rừng bút; nếu có vẻ đẹp mà thiếu phong cách, thì cũng như con gà rừng nhảy ở vườn văn. Chỉ có ai văn đẹp mà lại bay cao, thì mới là con phượng hoàng cất tiếng trên văn đàn”. Chính vì coi trọng hình thức nghệ thuật trong mối liên hệ hữu cơ với nội dung, Lưu Hiệp đã dành nhiều trang viết bàn về kỹ thuật viết văn với các vấn đề như: hư cấu, tưởng tượng, kết cấu, sử dụng ngôn ngữ…
Tiếp sau Lưu Hiệp, ở thế kỷ VI các công trình như Thi phẩm của Chung Vinh, Văn tuyển của Tiêu Thống là những thành tựu lớn của thi pháp học ở Trung Quốc.
Đến thời Bạch Cư Dị, thi pháp học Trung Quốc lại phát triển thêm một bước với các tác phẩm như: lời tựa cho hai tập thơ Tần trung ngâm và Tân nhạc phủ, Thư gửi Nguyên Chẩn. Trong đó tác giả đưa ra những quan điểm về vai trò, nhiệm vụ, mục đích của công việc sáng tác văn chương cũng như tư tưởng, tình cảm, nội dung, hình thức… của tác phẩm văn học.
Đến đời nhà Tống lý luận phê bình văn học tiếp tục phát triển, đặc biệt là sự nở rộ của thể thi thoại với các tác phẩm như : Lục Nhất thi thoại của Âu Dương Tu, ẩm Băng Thất thi thoại của Lương Khải Siêu, Tuỳ Viên thi thoại của Thanh Viên Mai.
Có thể nói, từ rất sớm những hiểu biết về thi pháp của người Trung Quốc là rất phong phú và sâu sắc.
Ở châu Âu ngoài Hi Lạp như đã trình bày ở trên thì thi pháp học cũng rất phát triển ở nhiều nước. ở Pháp như : Nghệ thuật thơ của Boa lô. ở Đức với các tên tuổi như Lét-xing, Vin-ken-man, Hec-đơ, Đi-đơ-rô, Gơt, Si-lơ…
Cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới Việt Nam có nền văn học hình thành và phát triển rất sớm gắn liền với sự phát triển trong tư duy của con người. Từ văn học dân gian đến văn học viết chúng ta đều đạt được rất nhiều thành tựu. Chúng ta có cả một kho tàng truyện cổ tích, ca dao, dân ca của văn học truyền miệng. Văn học trung đại chứng kiến những thành tựu rực rỡ của thơ văn Lý – Trần, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Du…Văn học hiện đại với những sáng tác của Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Xuân Diệu…Theo đúng lôgíc thì lý luận phê bình sẽ phát triển song hành cùng với sáng tác văn chương. Tuy nhiên cho đến nay có thể thấy công tác lý luận phê bình nói chung và nghiên cứu thi pháp học nói chung ở nước ta vẫn chưa nhiều thành tựu.
Có thể nói, việc nghiên cứu thi pháp học ở nước ta chịu nhiều ảnh hưởng của thi pháp học Trung Quốc, tiếp đến là Pháp, Nga và nhiều nước Châu Âu khác. Điều này có nguyên nhân do lịch sử để lại. Chúng ta phải chịu ách áp bức và chính sách nô dịch về chính sách văn hoá suốt hơn một nghìn năm. Từ khi nền văn học viết ra đời các tác phẩm của chúng ta đều sáng tác bằng chữ Hán, nền khoa cử nho học…Ngay cả khi chữ Nôm ra đời...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top