lebaoduc1981
New Member
Download miễn phí Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi tin ở mệnh trời, bởi sự trừng phạt công minh ở đời, bởi trời không khô
khan, cứng nhắc mà trái lại, trời có lòng “hiếu sinh”, có “đạo trời”. Lòng hiếu sinh
và đạo trời lại rất hòa hợp với tâm lý phổ biến và nguyện vọng tha thiết của lòng
người, đó là hạnh phúc, ấm no và thái bình. Ông viết: “Đạo trời ưa sống, lòng người
ghét loạn”(46), “xua mạng người vào trong đám dáo mác, ta sợ rằng lòng hiếu sinh
của Thượng đế tất không để cho làm như thế đâu”(47). Và, ông khuyên người làm
tướng cầm quân “muốn mưu việc lâu dài trên thuận lòng hiếu sinh của trời, dưới
cứu thoát nhân dân từ trong chỗ nước sôi lửa bỏng”(48).
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2014-01-18-ve_tu_tuong_triet_hoc_cua_nguyen_trai.de4YEZK6p2.swf /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-55937/
Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
yền lộc chi hãm tịnh. Điển vật chức thúy cầm chi võng la. Côn trùng thảomộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh
擾民,設玄鹿之陷阱.殄物,織翠禽之罔.昆虫草木,皆不得以遂其生- Nhiễu dân,
đào hầm bẫy hươu đen. Hại vật, chăng lưới bắt chim, cỏ cây sâu bọ, không loài nào
được thỏa sống còn”(6).
Cùng với Nho và Phật, Nguyễn Trãi còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang,
đó là lòng “thanh tĩnh vô vi”, nhàn tản, ung dung tự tại, không màng danh lợi của
ông. Trong Quốc âm thi tập, từ an nhàn, yên phận được ông nhắc đến rất nhiều lần,
chẳng hạn: “Khứ phạ phồn hoa đạp nhuyễn trần. Nhất lê nham bạn khả tàng thân
去怕蘩花踏軟塵,一犁岩畔可藏身 - Bỏ chốn phồn hoa, lánh tục trần. Cày sâu mảnh
VỀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NGUYỄN TRÃI
25
ruộng được yên thân”(7), “Am quê về ở dưỡng nhà chơi, yên phận yên lòng kẻo
tiếng hơi”(8), hay “qua ngày qua tháng dưỡng thân nhàn”(9). Quan niệm của
Nguyễn Trãi về công danh, về cuộc đời cũng rất gần với đạo Lão - Trang: “Nhãn
trung phù thế, tổng phù vân 眼中浮世,總浮雲 - Cõi trần mắt thấy thực phù
vân”(10); “Tùng cúc do tồn quy vị mãn. Lợi danh bất tiển ẩn phương chân
松菊猶存歸未晚.利名不羨隱方真” (11); “Thế thượng hoàng lương nhất mộng
dư 世上黃梁一夢餘 - Cuộc đời là một giấc mơ thôi”(12); “phú quý treo sương
ngọn cỏ”(13)… Song, Nguyễn Trãi không phải là người “công toại danh thoái” như
Lão - Trang. Con người Nguyễn Trãi “bất vị ky sầu tổn cựu hào 不為羇愁損舊豪 -
Không vì mối sầu xa nhà mà sút hào khí cũ đi”(14). Do đó, ông không đi tìm cái an
nhàn ích kỷ, càng không dễ chôn mình trong bi quan, hay bằng lòng an phận như
quan niệm của người đời. Con người Nguyễn Trãi lúc nào cũng “mơ màng việc
quốc gia” và vì thế, “bình sinh độc bão tiên ưu niệm 平生獨抱先憂念 - suốt đời ôm
mãi lòng lo trước”(15). Ông sẵn sàng đáp lời kêu gọi của vua, sẵn sàng “Nhất
tâm báo quốc thượng hoàn hoàn 一心報國尚桓桓- Một lòng báo quốc vẫn còn
hăng”(16).
Trong những tiền đề hình thành tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi, chúng ta không
thể không đề cập tới nhân tố chủ quan của nhân tài Nguyễn Trãi - nhân tố giữ vai
trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng của ông. Bởi vì, tư tưởng bao giờ
(5) Nguyễn Trãi. Ức Trai tập, quyển thượng. Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1972, tr.160.
(6) Sđd., tr.324.
(7) Sđd., tr.95.
(8) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam. Nguyễn Trãi toàn tập. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr.415.
(9) Sđd., tr.11.
(10) Nguyễn Trãi. Ức trai tập, Sđd., tr.121.
(11) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam. Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd., tr.339.
(12) Nguyễn Trãi. Ức Trai tập, Sđd., tr.39.
(13) Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam. Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd., tr.420.
(14) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam. Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd., tr.282.
(15) Nguyễn Trãi. Ức Trai tập, Sđd., tr.108.
(16) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam. Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd., tr.301.
VỀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NGUYỄN TRÃI
26
cũng là sản phẩm của tư duy con người trên cơ sở con người phản ánh sáng tạo và
khái quát hiện thực khách quan. Nguyễn Trãi sinh trưởng trong một gia đình nhà
Nho, ông ngoại và cha của ông là những trí thức uyên bác. Nguyễn Trãi đã học ở
ông và cha những kiến thức sâu rộng và tâm hồn cao đẹp. Ông cũng tiếp thu ở nhiều
nhà Nho trước đó và cùng thời ông tư tưởng suốt đời “báo quốc”, “an dân”. Thiên
tài của Nguyễn Trãi còn thể hiện ở chỗ, ông biết tự đổi mới. Một bậc trí giả như
Nguyễn Trãi, dưới thời phong kiến, vốn dòng dõi thế tộc, chịu sự chi phối của luồng
tư tưởng thống trị lúc bấy giờ, đã từng hấp thụ những kiến thức phức tạp qua sử
sách cũ, nhất là qua Tứ thư, Ngũ kinh… nhưng vốn là một người có bản lĩnh, biết tư
duy độc lập, cho nên ông đã biết chắt lọc, tiếp thu những nhân tố tích cực trong tư
tưởng Nho - Phật - Lão. Tất nhiên, Nguyễn Trãi không thể thoát ly hoàn cảnh ông
đang sống, không thể đoạn tuyệt với tất cả những ràng buộc trong xã hội lúc bấy
giờ, như phong tục, tập quán, luật lệ…, nhưng ông vẫn tìm ra được lối thoát khỏi
những ràng buộc của khuôn khổ phong kiến.
2. Tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi được thể hiện chủ yếu qua quan điểm của
ông về thế giới, về chính trị - xã hội, về luân lý đạo đức và cuộc sống con người.
Trước hết là quan điểm về thiên mệnh, về trời đất và con người. Nguyễn Trãi tự coi
mình là môn đệ của Khổng Tử và vì thế, ông chịu khá nhiều ảnh hưởng quan niệm
về vũ trụ của Khổng Tử, đặc biệt là quan niệm về mệnh trời, vận trời. Khổng Tử tin
rằng, trời là một lực lượng siêu hình, nhưng có sức mạnh, có ý chí, quy định trật tự
xã hội, tự nhiên và số phận con người, đó gọi là thiên mệnh. Trong Luận ngữ,
Khổng Tử viết: “Đắc tội với trời, không thể cầu vào đâu được 獲罪於 天無所禱也
- Hoạch tội ư thiên, vô sở đảo dã”(17); “sống chết do số mệnh, giàu sang tại trời
(17) Luận ngữ, Đoàn Trung Còn dịch, Trí Đức, Sài Gòn, 1950, tr.38.
(18) Sđd., tr.182.
(19) Sđd., tr.262.
(20) Sđd., tr.314.
(21) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam. Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd., tr.122.
VỀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NGUYỄN TRÃI
27
死生有命,富貴在天- tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”(18). Trong tư tưởng của
Khổng Tử, chúng ta không thấy ông nói tới trời đất sinh ra muôn vật và loài người,
chỉ thấy ông nói đến “mệnh”, “mệnh trời”, tin có mệnh, biết mệnh và sợ mệnh.
Khổng Tử khuyên: “Người quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ
lời thánh nhân 君子有三畏:畏天命,畏大人,畏聖人之言 - Quân tử hữu tam úy: úy
thiên mệnh, úy đại nhân, úy thánh nhân chi ngôn”(19); “không biết mệnh, không thể
là người quân tử 不知命無以為君子也 - bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã”(20).
Trong các tác phẩm của mình, Nguyễn Trãi nói rất nhiều đến vũ trụ và trời đất, điển
hình là trong Quân trung từ mệnh tập và Ức Trai thi tập. Chẳng hạn, ông viết:
“Trên có trời đất quỷ thần 上有 天地鬼神 - Thượng hữu thiên địa quỷ thần”(21),
“trời không che riêng ai, đất không chở riêng ai”(22); “Khi thiên võng thượng vị
thiên cao. Thiên võng khôi khôi cánh mạc đào 欺天罔上謂天高. 天罔恢恢更莫逃
- Dối trời lừa vua rồi bảo rằng trời cao. Lưới trời lồng lộng không thể trốn”(23). Đối
với Nguyễn Trãi, trời đất rất linh thiêng. Trong Côn Sơn ca, ông viết: “Thiên khải
thánh hề, địa hưng vương 天啟聖兮,地興王 - Trời mở đường cho thánh. Đất giúp
việc cho vương”(24). Nguyễn Trãi cho thấy rằng, trời là lẽ biến hóa tự nhiên: “trời
đất lòng nào sự biến kinh - trời đất thật vô tình sinh ra sự biến nhiều”(25). Trong
thư gửi cho các tướng giặc là Đả Trung, Lương Nhữ Hốt, Vương Thông, ông viết:
“Vận trời tuần hoàn, đi rồi lại lại - Thiên vận tuần hòan, vô vãng bất phục”(26).
Tư tưởng về thế giới của Nguyễn Trãi rất đa dạng, phong phú, bao gồm nhiều yếu
tố. Có lúc, ông gọi là trời, đất, núi cao, sông dài, biển r