mjviet2008
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
LỜI MỞ ĐẦU.
Cho đến nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp chậm phát triển quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số cao. Thời kỳ Hùng Vương dựng nước, dân số Việt Nam mới khoảng một triệu người. Nhưng trong thế kỷ 20, dân số nước ta tăng rất nhanh. Năm 1945 mới có 23 triệu người; 1960: 30 triệu người; 1979: gân 53 triệu; 1989: trên 64 triệu; 1999: trên 76 triệu và đến nay đã trên 80 triệu. “Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế – xã hội, gây khó khăn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá và thể lực của giống nòi. Nếu xu thế này cứ tiếp tục diễn ra thì tương lai không xa đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí gây ra những nguy cơ về nhiều mặt”. Các quan điểm trên thế giới hầu hết đều cho rằng giữa dân số và kinh tế luôn có mối quan hệ tương tác theo cả hai chiều. Trong hoàn cảnh này thì dân số tăng sẽ có lợi về kinh tế những trong hoàn cảnh khác thì ngược lại vì phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần dựa vào nguồn nhân lực.
Dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu dùng. Bởi vậy, quy mô, cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn đến quy mô, cơ cấu sản xuất tiêu dùng và tích luỹ của xã hội.
PHẦN I : THỰC TRẠNG DÂN SỐ VIỆT NAM
Ngày dân số thế giởi năm nay đến với nước ta trong niềm tự hào và phấn khởi bởi những thành tựu của sự nghiệp đổi mới. Đúng vào lúc dân số thế giới đạt tới con số 3 tỷ người và dân số Việt Nam vừa vượt qua con số 30 triệu người thì Chính phủ Việt Nam ban hành quyết định số 216/CP ngày 26/12/1961 về việc sinh đẻ có hướng dấn với mục đích: “Vì sức khoẻ của bà mẹ, vì hạnh phúc và hoà thuận trong gia đình và để nuôi dạy con cái được chu đáo, việc sinh đẻ của nhân dân cần được hướng dẫn chu đáo”. Ngày 26/12/1961 trở thành một mốc lịch sử quan trọng của chương trình dân số Việt Nam, ngày Việt Nam chính thức tuyên bố tham gia chương trình dân số toàn cầu, đánh dấu sự khởi đầu về nhận thức được ý nghĩa của mối quan hệ giữa dân số và phát triển trong tiếng chuông báo động về tình hình gia tăng dân số quá nhanh trên thế giới.
Sau nhiều năm phán đấu kiên trì và gian khổ, công tác dân số kế hoạch hoá gia đình ( DS - KHHGĐ) ở nước ta đã có chuyển biến đáng kể và đạt kết quả đáng khích lệ. Nhiều mục tiêu nêu ra trong chiến lược DS – KHHG đến năm 2000 về mặt giảm mức sinh, về quy mô dân số và thực hiện kế hoạch hoá gia đình đã được thực hiện vượt mức. Số con trung bình của một phụ nữ Việt Nam ở tuổi sinh đẻ (từ 15 đến 49) ngày càng giảm. Lấy năm 1960 làm mốc, lúc đó số con trung bình của họ và 6,39 con (tương đương với mức sinh tiềm năng) đến năm 1975, tức sau 14 năm thực hiện sinh đẻ có kế hoạch là 5,25 con; năm 1985 là 3,95 con; năm 1994 là 3,1 con, năm 1999 là 2,3 con và năm 2002 là 2,28 con.
Tỷ lệ sinh con cũng ngày càng giảm. Năm 1960, tỷ lệ sinh ở miền Bắc là 43,9%, đến năm 1975 giảm xuống còn 33,2%. Sau khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, tỷ lệ sinh giảm rất nhanh, năm 1994 giảm còn 2,53%; năm 2000 còn 1,90%. Tỷ lệ sinh con thứ 3 cũng giảm dần nhưng chưa ổn định.
Như vậy, thực hiện cuộc vận động kế hoạch hoá gia đình, chúng ta đã giảm được mức sinh đáng kể. Tuy nhiên, quy mô dân số của nước ta vân lớn và có chiều hướng ngày càng lớn. Năm 1921 dân số Việt Nam mới có 15,58 triệu người, sau 40 năm là 30,17 triệu và hiện nay khoảng 80,5 triệu người. Dân số tăng nhanh, trong khi diện tích đất đai của Việt Nam không tăng, chỉ có 33,1 triệu KM2, do đó, mật độ dân số tăng rất nhanh. Đến nay, mật độ dân số nước ta là 243 ngươi/km2 và gấp 6 lần mật độ dân số chuẩn của quốc tế.
Do quy mô dân số lớn, mật độ dân số cao, kinh tế còn nghèo, nên chất lượng dân số của Việt Nam còn thấp. Các tổ chất về thể lực của người Việt Nam hiện nay còn hạn chế, đặc biêt là chiều cao, cân nặng, sức bền. Năm 1998, tỷ lệ trẻ em sơ sinh cân nặng dưới 2500 gam chiếm 8%. Năm 1999, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng cao chiếm 36,7%. Đáng lưu ý là vẫn còn 1,5% số dân bị thiểu năng về trí lực và thể lực. Tính đến ngày 1/4/1999 cả nước vẫn còn 6,8 triệu người từ 10 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường, trong đó có 5,3 triệu người không hoàn toàn biết chữ. Tỷ lệ số người đã qua đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn kỹ thuật chiếm 7,6% dân số từ 13 tuổi trở lên, trong đó có 2,3% là công nhân kỷ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng cấp, 2,8% có trình độ trung học chuyên nghiệp; 0,7% cao đẳng; 1,7% đại học và 0,1% có trình độ trên đại học. Tuy nhiện, cũng cần thấy rằng những kết quả đạt được của công tác dân số kế hoạch hoá gia đình còn chưa thực sự vững chắc, thể hiện ở việc giảm chẩm tỷ lệ sinh con thứ 3, cơ cấu sử dụng các biện pháp tránh thai còn chưa hợp lý, chất lượng dịch vụ kế hoạch hoá gia đình còn chưa cao, do đó dẫn đến tỷ lệ nạo phá thai còn cao, tỷ lệ tai biến và thất bại còn ở mức đáng lo ngại.
Từ đó, chúng ta có thể rút ra đặc điểm cơ bản của dân số nước ta là:
- Quy mô dân số quá lớn với 87 triệu dân, nước ta xếp thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Mật độ dân số thì nước ta còn gấp đôi thế giới, gấp 6 lần mật độ mà các nhà khoa học thế giới đánh giá là hợp lý. Dân số nước ta lại phát triển nhanh, từ năm 1921 đến 1975, dân số nước ta tăng gấp 5 lần, trong khi thế giới tăng khoảng 3 lần.
- Cơ cấu dân số trẻ: hiện nay tỷ lệ trẻ em 14 tuổi trở xuống của nước ta chiếm 33% trong khi Nhật Bản khoảng 16%.
- Dân số phân bố không đều và chủ yếu tập trung ở nông thôn, chỉ có 23% dân số sông ở đô thị.
- Quy mô dân số lớn nên lực lượng lao động dồi dào, Việt Nam vừa có khả năng phát triển toàn diện các ngành kinh tế, vừa có thể chuyên môn hoá lao đông sâu sắc, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy xã hội phát triển. Lực lượng lao động của nước ta vào loại trẻ, dễ chuyển dịch và tạo ra chức năng động cao trong hoạt động kinh tế.
Với 80,5 triệu dân cũng là 80,5 triệu người tiêu dùng. Đây là một thị trường rộng lớn, hấp dẫn đầu tư, kích thích sản xuất, phát triển kinh tế. Tuy nhiên, những đặc điểm dân số nói trên cũng có tác động tiêu cực đến sự nghiệp phát triển kinh tế. Điều này có thể tập trung xem xét trên các khía cạnh, tác động của dân số đến nguồn lao động, việc làm tăng trưởng kinh tế, tiêu dùng và tích luỹ.
1. Dân số với lao động và việc làm:
PHẦN III : LIÊN HỆ VỚI TÌNH HÌNH ĐỊA PHƯƠNG
Thanh Trì có 3,56 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 1,89 triêu người, chiếm 53,2% dân số của huyện. Tỷ lệ lao động tăng bình quân hàng năm thời kỳ 1996 – 2000 là 3%. Tuy số lượng lao động đông nhưng chất lượng còn thấp, tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp tiểu học là 8,9%, chưa biết chữ là 1,7%, tốt nghiệp tiểu học là 25,6%, tốt nghiệp THCS là 43,4% và tốt nghiệp PTTH là 20,4%. Trong 5 năm qua, bình quân mỗi năm huyện đã tạo ra được 32 vạn chỗ làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị từ 6,6% năm 1996 xuông còn 6,32% năm 2000, đồng thời nâng tổng quỹ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn từ 66,7% lên 74,3%.
Hiện nay, Thanh Trì có 1.503.000 người đang làm việc trong các ngành kinh tế. Trong đó, lao động ngành nông lâm, ngư nghiệp chiếm 81,3%; công nghiệp – xây dựng 8,6%; thương mại dịch vụ 10,1%. Cơ cấu phân theo địa giới hành chính, thành phố, thị xã chiếm 8%, vùng đồng băng duyên hải 68,6% và vung trung du miền núi 23,4%. Phân theo thành phần kinh tế: kinh tế quôc doanh là 6,45%; ngoài quốc doanh là 932,52% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 0,03%. Nguôn lao động lại phân bổ không đồng đều và tập trung chủ yếu trong các ngành nông lâm ngư nghiệp (trên 83%). Lao động làm việc trong các ngành thương mại, du lịch – dịch vụ đã thấp (4%) nhưng lại có xu hướng không ổn định. Lao động làm việc trong khu vực quốc doanh chỉ chiếm gần 7% và đang có xu hướng giảm sút. Điều đáng quan tâm là cơ cấu lao động phân bổ theo khu vực chưa hợp lý, ở trung du miền núi, diện tích đất tự nhiên chiếm 2/3 toàn huyện, nhưng lao động chỉ có 23,45%.
Hàng năm, toàn huyện có hơn 3 vạn người đến tuổi lao động chưa có việc làm (chưa kể số lao động chưa có việc làm những năm trước chuyển sang), số lao động thất nghiệp ở thành thị còn cao (năm 1996: 6,16%; năm 1998: 6,42%), tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn còn phổ biến (mới sử dụng 70% quỹ thời gian làm việc trong năm.
Giải quyết việc làm và tạo ra sự tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội đang là vấn đề bức xúc trong quá trình phát triển. Trong 3 năm 1996 – 1998, Thanh Trì đã tạo thêm viêc làm mới cho hơn 9 vạn lao động và hàng vạn lao động có việc làm đầy đủ hơn, nâng hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn từ 66,7% năm 1996 lên 72,6% năm 1998.
Thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thư 10, trong 2 năm 1999-2000 Thanh Trì phấn đấu giải quyết việc làm cho khoảng 7 vạn lao động,giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị từ 6,42% năm 1998 xuống 5% vào năm 2000, nâng cao tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động trong năm ở nông thôn lên 75% và phấn đấu tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trên 2%.
Dự báo dân số Thanh Trì năm 2005 là 3,77 triệu người, tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm thời kỳ 2001 – 2005 là 1,13%. Nguồn nhân lực đến năm 2005 có khoảng 2,14 triệu người, chiếm 56,65% dân số. Để phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, đồng thời có đủ khả năng tiếp cận kỹ thuật tiên tiến và công nghệ hiện đại đủ sức cạnh tranh trên thị trường lao động trong khu vực và quốc tế theo hướng CNH- HĐH cần tập trung vào một số giải pháp:
Tăng cường đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Đồng thời gắn chương trình phát triển kinh tế – xã hội với chương trình giải quyết việc làm.
Đẩy mạnh hơn nữa công tác dạy nghề, đào tạo nhiều công nhân kỹ thuật, trang bị kiến thức thiết thực cho người lao động.
Tăng cường các hoạt động dịch vụ việc làm trên cơ sở củng cố và tăng cường các trung tâm dịch vụ việc làm trên địa bàn huyện, nhằm tư vấn cho người lao động chọn nghề học mình thích...
Hỗ trợ trực tiếp cho người lao động tạo thêm việc làm ở cả nông thôn và thành thị.
Có chính sách ưu tiên khuyến khích phát triển sản xuất như tạo điều kiện cho thuê mướn địa điểm, tổ chức sản xuất, cho vay vốn với lãi suất thấp, miễn giảm trong thời gian đầu ...
KẾT LUẬN
Giữa dân số và phát triển có mối quan hệ biện chứng gắn bó hữu cơ với nhau. Đây là hai quá trình kinh tế – xã hội trong nghiên cứu nhận thức và trong điều khiển chúng và có thể tách ra, song thực tế chúng hoà quyện vào nhau như hai mặt của chỉnh thể thống nhất. Khi nói tới quá trình phát triển kinh tế – xã hội đã hàm chứa tăng trưởng kinh tế và công bằng, tiến bộ xã hội. Mục tiêu của phát triển là vì con người, mà ở góc độ đang xét, đó chính là dân số – lao động. Mặt khác, động lực của sự phát triển cũng chính là con người, hay nói hẹp hơn lao động là yếu tố năng động nhất, quyết định nhất đến sự tăng trưởng kinh tế. Đó là xét ở góc nhìn dân số tác động đến phát triển.
Ngước lại, quá trình phát triển lại tạo ra tiền đề và điều kiện để phát triển dân số theo đúng định hướng do Đảng và Nhà nước ta đề ra. Sự phát triển kinh tế – xã hội mang lại của cải vật chất cà giá trị tinh thần để nâng cao dân sinh, dân trí và dân chủ cho người dân. Chính trong điều kiện đó từng người dân, từng gia đình sẽ tự ý thức và tự hành động trng quá trình dân số.
Nhận thấy đầy đủ và sâu sắc về mối quan hệ biện chứng, khách quan nêu trên là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc hoạch định hệ thống chính sách kinh tế – xã hội nói chung, chính sách dân số và phát triển môi trường nói riêng, chiến lược về dân số và phát triển, dó đó, đã chín muồi.
Nhận thức rõ tác động to lớn của dân số đối với phát triển kinh tế – xã hội, chúng ta cần đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số nhằm sớm hạ thấp mức sinh, ổn định quy mô dân số, phân bố dân cư hợp lý và nâng cao chất lượng dân số nhằm phát triển bền vững đất nước..
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1 :THỰC TRẠNG DÂN SỐ VIỆT NAM 2
1. Dân số với lao động và việc làm: 4
a/ Đặc điểm dân số với lao động, việc làm: 4
b/ Giải pháp 12
2/ Gia tăng dân số và phát triển kinh tế – xã hội: 13
a/ Gia tăng dân số ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế: 14
b/ Gia tăng dân số và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 17
3/ Ảnh hưởng của dân số đến tiêu dùng và tích luỹ: 18
a/ Ảnh hưởng của dân số đến tiêu dùng: 18
b/ Ảnh hưởng của dân số đến tích luỹ 20
PHẦN II : MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ VẤN ĐỀ DÂN SỐ 21
PHẦN III : LIÊN HỆ VỚI TÌNH HÌNH Ở ĐỊA PHƯƠNG 23
KẾT LUẬN 25
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
LỜI MỞ ĐẦU.
Cho đến nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp chậm phát triển quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số cao. Thời kỳ Hùng Vương dựng nước, dân số Việt Nam mới khoảng một triệu người. Nhưng trong thế kỷ 20, dân số nước ta tăng rất nhanh. Năm 1945 mới có 23 triệu người; 1960: 30 triệu người; 1979: gân 53 triệu; 1989: trên 64 triệu; 1999: trên 76 triệu và đến nay đã trên 80 triệu. “Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế – xã hội, gây khó khăn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá và thể lực của giống nòi. Nếu xu thế này cứ tiếp tục diễn ra thì tương lai không xa đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí gây ra những nguy cơ về nhiều mặt”. Các quan điểm trên thế giới hầu hết đều cho rằng giữa dân số và kinh tế luôn có mối quan hệ tương tác theo cả hai chiều. Trong hoàn cảnh này thì dân số tăng sẽ có lợi về kinh tế những trong hoàn cảnh khác thì ngược lại vì phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần dựa vào nguồn nhân lực.
Dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu dùng. Bởi vậy, quy mô, cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn đến quy mô, cơ cấu sản xuất tiêu dùng và tích luỹ của xã hội.
PHẦN I : THỰC TRẠNG DÂN SỐ VIỆT NAM
Ngày dân số thế giởi năm nay đến với nước ta trong niềm tự hào và phấn khởi bởi những thành tựu của sự nghiệp đổi mới. Đúng vào lúc dân số thế giới đạt tới con số 3 tỷ người và dân số Việt Nam vừa vượt qua con số 30 triệu người thì Chính phủ Việt Nam ban hành quyết định số 216/CP ngày 26/12/1961 về việc sinh đẻ có hướng dấn với mục đích: “Vì sức khoẻ của bà mẹ, vì hạnh phúc và hoà thuận trong gia đình và để nuôi dạy con cái được chu đáo, việc sinh đẻ của nhân dân cần được hướng dẫn chu đáo”. Ngày 26/12/1961 trở thành một mốc lịch sử quan trọng của chương trình dân số Việt Nam, ngày Việt Nam chính thức tuyên bố tham gia chương trình dân số toàn cầu, đánh dấu sự khởi đầu về nhận thức được ý nghĩa của mối quan hệ giữa dân số và phát triển trong tiếng chuông báo động về tình hình gia tăng dân số quá nhanh trên thế giới.
Sau nhiều năm phán đấu kiên trì và gian khổ, công tác dân số kế hoạch hoá gia đình ( DS - KHHGĐ) ở nước ta đã có chuyển biến đáng kể và đạt kết quả đáng khích lệ. Nhiều mục tiêu nêu ra trong chiến lược DS – KHHG đến năm 2000 về mặt giảm mức sinh, về quy mô dân số và thực hiện kế hoạch hoá gia đình đã được thực hiện vượt mức. Số con trung bình của một phụ nữ Việt Nam ở tuổi sinh đẻ (từ 15 đến 49) ngày càng giảm. Lấy năm 1960 làm mốc, lúc đó số con trung bình của họ và 6,39 con (tương đương với mức sinh tiềm năng) đến năm 1975, tức sau 14 năm thực hiện sinh đẻ có kế hoạch là 5,25 con; năm 1985 là 3,95 con; năm 1994 là 3,1 con, năm 1999 là 2,3 con và năm 2002 là 2,28 con.
Tỷ lệ sinh con cũng ngày càng giảm. Năm 1960, tỷ lệ sinh ở miền Bắc là 43,9%, đến năm 1975 giảm xuống còn 33,2%. Sau khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, tỷ lệ sinh giảm rất nhanh, năm 1994 giảm còn 2,53%; năm 2000 còn 1,90%. Tỷ lệ sinh con thứ 3 cũng giảm dần nhưng chưa ổn định.
Như vậy, thực hiện cuộc vận động kế hoạch hoá gia đình, chúng ta đã giảm được mức sinh đáng kể. Tuy nhiên, quy mô dân số của nước ta vân lớn và có chiều hướng ngày càng lớn. Năm 1921 dân số Việt Nam mới có 15,58 triệu người, sau 40 năm là 30,17 triệu và hiện nay khoảng 80,5 triệu người. Dân số tăng nhanh, trong khi diện tích đất đai của Việt Nam không tăng, chỉ có 33,1 triệu KM2, do đó, mật độ dân số tăng rất nhanh. Đến nay, mật độ dân số nước ta là 243 ngươi/km2 và gấp 6 lần mật độ dân số chuẩn của quốc tế.
Do quy mô dân số lớn, mật độ dân số cao, kinh tế còn nghèo, nên chất lượng dân số của Việt Nam còn thấp. Các tổ chất về thể lực của người Việt Nam hiện nay còn hạn chế, đặc biêt là chiều cao, cân nặng, sức bền. Năm 1998, tỷ lệ trẻ em sơ sinh cân nặng dưới 2500 gam chiếm 8%. Năm 1999, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng cao chiếm 36,7%. Đáng lưu ý là vẫn còn 1,5% số dân bị thiểu năng về trí lực và thể lực. Tính đến ngày 1/4/1999 cả nước vẫn còn 6,8 triệu người từ 10 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường, trong đó có 5,3 triệu người không hoàn toàn biết chữ. Tỷ lệ số người đã qua đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn kỹ thuật chiếm 7,6% dân số từ 13 tuổi trở lên, trong đó có 2,3% là công nhân kỷ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng cấp, 2,8% có trình độ trung học chuyên nghiệp; 0,7% cao đẳng; 1,7% đại học và 0,1% có trình độ trên đại học. Tuy nhiện, cũng cần thấy rằng những kết quả đạt được của công tác dân số kế hoạch hoá gia đình còn chưa thực sự vững chắc, thể hiện ở việc giảm chẩm tỷ lệ sinh con thứ 3, cơ cấu sử dụng các biện pháp tránh thai còn chưa hợp lý, chất lượng dịch vụ kế hoạch hoá gia đình còn chưa cao, do đó dẫn đến tỷ lệ nạo phá thai còn cao, tỷ lệ tai biến và thất bại còn ở mức đáng lo ngại.
Từ đó, chúng ta có thể rút ra đặc điểm cơ bản của dân số nước ta là:
- Quy mô dân số quá lớn với 87 triệu dân, nước ta xếp thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Mật độ dân số thì nước ta còn gấp đôi thế giới, gấp 6 lần mật độ mà các nhà khoa học thế giới đánh giá là hợp lý. Dân số nước ta lại phát triển nhanh, từ năm 1921 đến 1975, dân số nước ta tăng gấp 5 lần, trong khi thế giới tăng khoảng 3 lần.
- Cơ cấu dân số trẻ: hiện nay tỷ lệ trẻ em 14 tuổi trở xuống của nước ta chiếm 33% trong khi Nhật Bản khoảng 16%.
- Dân số phân bố không đều và chủ yếu tập trung ở nông thôn, chỉ có 23% dân số sông ở đô thị.
- Quy mô dân số lớn nên lực lượng lao động dồi dào, Việt Nam vừa có khả năng phát triển toàn diện các ngành kinh tế, vừa có thể chuyên môn hoá lao đông sâu sắc, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy xã hội phát triển. Lực lượng lao động của nước ta vào loại trẻ, dễ chuyển dịch và tạo ra chức năng động cao trong hoạt động kinh tế.
Với 80,5 triệu dân cũng là 80,5 triệu người tiêu dùng. Đây là một thị trường rộng lớn, hấp dẫn đầu tư, kích thích sản xuất, phát triển kinh tế. Tuy nhiên, những đặc điểm dân số nói trên cũng có tác động tiêu cực đến sự nghiệp phát triển kinh tế. Điều này có thể tập trung xem xét trên các khía cạnh, tác động của dân số đến nguồn lao động, việc làm tăng trưởng kinh tế, tiêu dùng và tích luỹ.
1. Dân số với lao động và việc làm:
PHẦN III : LIÊN HỆ VỚI TÌNH HÌNH ĐỊA PHƯƠNG
Thanh Trì có 3,56 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 1,89 triêu người, chiếm 53,2% dân số của huyện. Tỷ lệ lao động tăng bình quân hàng năm thời kỳ 1996 – 2000 là 3%. Tuy số lượng lao động đông nhưng chất lượng còn thấp, tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp tiểu học là 8,9%, chưa biết chữ là 1,7%, tốt nghiệp tiểu học là 25,6%, tốt nghiệp THCS là 43,4% và tốt nghiệp PTTH là 20,4%. Trong 5 năm qua, bình quân mỗi năm huyện đã tạo ra được 32 vạn chỗ làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị từ 6,6% năm 1996 xuông còn 6,32% năm 2000, đồng thời nâng tổng quỹ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn từ 66,7% lên 74,3%.
Hiện nay, Thanh Trì có 1.503.000 người đang làm việc trong các ngành kinh tế. Trong đó, lao động ngành nông lâm, ngư nghiệp chiếm 81,3%; công nghiệp – xây dựng 8,6%; thương mại dịch vụ 10,1%. Cơ cấu phân theo địa giới hành chính, thành phố, thị xã chiếm 8%, vùng đồng băng duyên hải 68,6% và vung trung du miền núi 23,4%. Phân theo thành phần kinh tế: kinh tế quôc doanh là 6,45%; ngoài quốc doanh là 932,52% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 0,03%. Nguôn lao động lại phân bổ không đồng đều và tập trung chủ yếu trong các ngành nông lâm ngư nghiệp (trên 83%). Lao động làm việc trong các ngành thương mại, du lịch – dịch vụ đã thấp (4%) nhưng lại có xu hướng không ổn định. Lao động làm việc trong khu vực quốc doanh chỉ chiếm gần 7% và đang có xu hướng giảm sút. Điều đáng quan tâm là cơ cấu lao động phân bổ theo khu vực chưa hợp lý, ở trung du miền núi, diện tích đất tự nhiên chiếm 2/3 toàn huyện, nhưng lao động chỉ có 23,45%.
Hàng năm, toàn huyện có hơn 3 vạn người đến tuổi lao động chưa có việc làm (chưa kể số lao động chưa có việc làm những năm trước chuyển sang), số lao động thất nghiệp ở thành thị còn cao (năm 1996: 6,16%; năm 1998: 6,42%), tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn còn phổ biến (mới sử dụng 70% quỹ thời gian làm việc trong năm.
Giải quyết việc làm và tạo ra sự tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội đang là vấn đề bức xúc trong quá trình phát triển. Trong 3 năm 1996 – 1998, Thanh Trì đã tạo thêm viêc làm mới cho hơn 9 vạn lao động và hàng vạn lao động có việc làm đầy đủ hơn, nâng hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn từ 66,7% năm 1996 lên 72,6% năm 1998.
Thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thư 10, trong 2 năm 1999-2000 Thanh Trì phấn đấu giải quyết việc làm cho khoảng 7 vạn lao động,giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị từ 6,42% năm 1998 xuống 5% vào năm 2000, nâng cao tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động trong năm ở nông thôn lên 75% và phấn đấu tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trên 2%.
Dự báo dân số Thanh Trì năm 2005 là 3,77 triệu người, tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm thời kỳ 2001 – 2005 là 1,13%. Nguồn nhân lực đến năm 2005 có khoảng 2,14 triệu người, chiếm 56,65% dân số. Để phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, đồng thời có đủ khả năng tiếp cận kỹ thuật tiên tiến và công nghệ hiện đại đủ sức cạnh tranh trên thị trường lao động trong khu vực và quốc tế theo hướng CNH- HĐH cần tập trung vào một số giải pháp:
Tăng cường đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Đồng thời gắn chương trình phát triển kinh tế – xã hội với chương trình giải quyết việc làm.
Đẩy mạnh hơn nữa công tác dạy nghề, đào tạo nhiều công nhân kỹ thuật, trang bị kiến thức thiết thực cho người lao động.
Tăng cường các hoạt động dịch vụ việc làm trên cơ sở củng cố và tăng cường các trung tâm dịch vụ việc làm trên địa bàn huyện, nhằm tư vấn cho người lao động chọn nghề học mình thích...
Hỗ trợ trực tiếp cho người lao động tạo thêm việc làm ở cả nông thôn và thành thị.
Có chính sách ưu tiên khuyến khích phát triển sản xuất như tạo điều kiện cho thuê mướn địa điểm, tổ chức sản xuất, cho vay vốn với lãi suất thấp, miễn giảm trong thời gian đầu ...
KẾT LUẬN
Giữa dân số và phát triển có mối quan hệ biện chứng gắn bó hữu cơ với nhau. Đây là hai quá trình kinh tế – xã hội trong nghiên cứu nhận thức và trong điều khiển chúng và có thể tách ra, song thực tế chúng hoà quyện vào nhau như hai mặt của chỉnh thể thống nhất. Khi nói tới quá trình phát triển kinh tế – xã hội đã hàm chứa tăng trưởng kinh tế và công bằng, tiến bộ xã hội. Mục tiêu của phát triển là vì con người, mà ở góc độ đang xét, đó chính là dân số – lao động. Mặt khác, động lực của sự phát triển cũng chính là con người, hay nói hẹp hơn lao động là yếu tố năng động nhất, quyết định nhất đến sự tăng trưởng kinh tế. Đó là xét ở góc nhìn dân số tác động đến phát triển.
Ngước lại, quá trình phát triển lại tạo ra tiền đề và điều kiện để phát triển dân số theo đúng định hướng do Đảng và Nhà nước ta đề ra. Sự phát triển kinh tế – xã hội mang lại của cải vật chất cà giá trị tinh thần để nâng cao dân sinh, dân trí và dân chủ cho người dân. Chính trong điều kiện đó từng người dân, từng gia đình sẽ tự ý thức và tự hành động trng quá trình dân số.
Nhận thấy đầy đủ và sâu sắc về mối quan hệ biện chứng, khách quan nêu trên là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc hoạch định hệ thống chính sách kinh tế – xã hội nói chung, chính sách dân số và phát triển môi trường nói riêng, chiến lược về dân số và phát triển, dó đó, đã chín muồi.
Nhận thức rõ tác động to lớn của dân số đối với phát triển kinh tế – xã hội, chúng ta cần đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số nhằm sớm hạ thấp mức sinh, ổn định quy mô dân số, phân bố dân cư hợp lý và nâng cao chất lượng dân số nhằm phát triển bền vững đất nước..
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1 :THỰC TRẠNG DÂN SỐ VIỆT NAM 2
1. Dân số với lao động và việc làm: 4
a/ Đặc điểm dân số với lao động, việc làm: 4
b/ Giải pháp 12
2/ Gia tăng dân số và phát triển kinh tế – xã hội: 13
a/ Gia tăng dân số ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế: 14
b/ Gia tăng dân số và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 17
3/ Ảnh hưởng của dân số đến tiêu dùng và tích luỹ: 18
a/ Ảnh hưởng của dân số đến tiêu dùng: 18
b/ Ảnh hưởng của dân số đến tích luỹ 20
PHẦN II : MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ VẤN ĐỀ DÂN SỐ 21
PHẦN III : LIÊN HỆ VỚI TÌNH HÌNH Ở ĐỊA PHƯƠNG 23
KẾT LUẬN 25
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: giải pháp cho dân số ở đô thị, nguyên nhân dẫn đến quy mô dân số không đều ở nươc ta và các tỉnh miền núi, Phân tích thực trạng về trình độ chuyên môn kỹ thuật của dân số từ 15 tuổi trở lên phân theo theo loại đô thị, theo khu vực nông thôn – đô thị tại thời điểm năm 2019., nội dung CHIẾN LƯỢC DÂN SỐ ĐẾN NĂM 2000, Dân Số Việt Nam từ năm 2000 đến nay” chính sách, thực trạng, giải pháp., chính sách dân số việt nam từ năm 2000 đến nay, Tiểu luận cao cấp chính trị về đánh giá chất lượng dân số và giải pháp, giải pháp tăng thu nhập nâng cao đời sống của người công nhân lao động ở nước ta hiện nay, lời mở đầu cho đặc điểm dân cư, giải pháp về vấn đề dân số
Last edited by a moderator: