MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Từ buổi đầu của nền văn minh nhân loại, một số loại thảo mộc và nấm đã được dùng làm thức ăn hay được xem như một vị thuốc trong phòng trị bệnh.
Để tạo nên một món ăn bổ dưỡng hay trong y học cổ truyền để điều trị một căn bệnh nào đó, các loại thảo mộc được phối hợp với nhau thành một bài thuốc khá phức tạp và được ninh hay nấu với nước trong nhiều giờ để chiết tách các hoạt chất chứa trong đó.
Thông thường người ta chỉ chú trọng đến công dụng của vị thuốc hay bài thuốc mà ít khi biết đến các hoạt chất chứa bên trong cũng như tìm ra một biện pháp thích hợp để chiết tách một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, đối với quan niệm của các nước Tây Âu thì dược thảo không được xem là một loại thuốc chữa bệnh mà chỉ có thể được xem như là thực phẩm chức năng mặc dù đôi khi mục đích sử dụng khá giống nhau. Nấm linh chi (Ganoderma lucidum) là một trong những loại dược thảo như thế.
Y học Trung Quốc đã xem linh chi là một vị thuốc có nhiều tác dụng chữa bệnh nhưng linh chi đồng thời cũng được sử dụng một cách rộng rải như một thực phẩm chức năng để hỗ trợ cho sức khỏe và giúp gia tăng tuổi thọ. Ngày nay, nấm linh chi đã trở nên một thực phẩm chức năng khá phổ biến hiện diện trên thị trường khắp thế giới vì được đánh giá là có nhiều lợi ích đối với sức khỏe con người, bao gồm cả khả năng phòng ngừa ung bứu.
Trong hai thập kỉ vừa qua, các phương pháp phân tích hiện đại đã cho phép xác định một số lượng lớn các hợp chất hóa học có trong thân, rễ và cả trong bào tử của nấm linh chi. Chúng bao gồm các hợp chất phenol, steroid, amino acid, lignin, mycin, vitamin, nucleoside, nucleotide, chất khoáng… Trong số những hợp chất này, polysaccharide và triterpene là hai nhóm chất thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu vì được xem là thành phần chính mang nhiều hoạt tính sinh học của nấm. Triterpene là thành phần tạo nên vị đắng và được trích ly bằng các dung môi hữu cơ trong khi đó hầu hết các polysaccharide của nấm lại được trích ly bằng nước nóng, dung dịch muối hay dung dịch dimethyl sulfoxide.
Đa số các sản phẩm từ nấm linh chi thông dụng hiện nay trên thị trường thường ở dạng trà túi lọc hay tai nấm khô cắt lát. Như vậy trong quá trình sử dụng, các hoạt chất trong nấm chỉ được khuếch tán ra ngoài nhờ vào nước nóng.
Nhằm gia tăng hiệu quả sử dụng và tính tiện dụng của nấm linh chi đồng thời bước đầu xây dựng cơ sở khoa học cho việc phát triển sản phẩm mới, chúng tui chọn thực hiện đề tài “Nghiên cứu trích ly các hoạt chất từ nấm linh chi bằng dung môi có hỗ trợ vi sóng và ứng dụng trong chế biến trà hòa tan”.
2. Mục tiêu đề tài
- Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trích ly các hoạt chất từ nấm linh chi (Ganoderma lucidum) bằng dung môi có hỗ trợ vi sóng.
- Ứng dụng dịch chiết từ nấm để chế biến sản phẩm trà hòa tan.
3. Ý nghĩa khoa học
Đề tài sau khi thực hiện sẽ là cơ sở khoa học cho việc tìm hiểu nguyên lý và đánh giá:
- Tác động của dung môi trong quá trình trích ly các hoạt chất từ nấm linh chi.
- Tác động của vi sóng đến khả năng tăng cường hiệu suất ly trích.
4. Ý nghĩa thực tế
- Làm cơ sở cho việc xây dựng quy trình trích ly dịch chiết từ nấm linh chi.
Làm cơ sở cho việc phát triển sản phẩm trà hòa tan từ nấm linh chi.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về nấm linh chi
1.1.1. Nguồn gốc và sự phân bố
Nấm linh chi (Ganoderma lucidum) là một loài nấm thường được tìm thấy ở các nước Á Đông. Từ xưa đến nay, ở Trung Quốc, Nhật Bản và một số nước châu Á khác đã sử dụng nấm linh chi như một loại thảo dược để giúp tăng cường sức khỏe và kéo dài tuổi thọ của con người. Đây là một loại nấm lớn, màu tối, vỏ ngoài nhẵn bóng và nhìn giống như một khúc gỗ. Trong tiếng Latin thì lucidus có nghĩa là «sáng bóng » hay «rực rỡ » và điều này cũng tương thích với hình dáng bên ngoài của nấm linh chi. Nấm được phân bố rộng rãi ở các nước Á Đông và thường mọc trên các thân cây khô hay đã chết. Những loại nấm linh chi được sử dụng rộng rãi trong y học gồm: G. lucidum, G. luteum Steyaert, G. atrum Zhao, Xu and Zhang, G. tsugae Murrill, G. applanatum (Pers.: Wallr.) Pat., G. australe (Fr.) Pat., G. capense (Lloyd) Teng, G. tropicum (Jungh.) Bres., G. tenue Zhao, Xu and Zhang, and G. sinense Zhao, Xu and Zhang.
Ở mỗi nơi nấm linh chi được gọi bằng nhiều tên khác nhau như Reishi (Nhật Bản), Lingzhi (Trung Quốc), Yeongji (Hàn Quốc) và Ling-Chih (Đài Loan). Ngoài ra còn một số tên gọi khác như nấm vạn niên (Nhật bản) hay nấm trường sinh (Trung Quốc). Theo 2 cuốc sách rất nổi tiếng mô tả về các loại dược thảo của Trung Quốc, “Shen Nong Ben Cao Jing” (25- 220 trước Công nguyên, thuộc triều đại Đông Hán) và “Ben Cao Gang Mil” của Li Shi Zhen (1590 trước Công nguyên, thuộc triều đại nhà Minh), có 6 chủng nấm được biết đến tại thời điểm lúc bấy giờ. Trong đó có hơn 250 loại nấm linh chi được đề cập. Tuy nhiên, trong các văn bản cổ chỉ đề cập nhiều đến khả năng chữa bệnh của nấm linh chi đỏ.
Hình 1.1: Nấm linh chi đỏ (Ganoderma lucidum) (A); nấm mọc trong tự nhiên (B) và nấm trồng (C).
Từ thời cổ xưa có rất nhiều nhà nghiên cứu (cả ở Trung Quốc và phương Tây) đã tìm hiểu về loại nấm này và họ cũng đã đưa ra rất nhiều hệ thống để phân loại nấm linh chi. Những nhà nghiên cứu Trung Quốc cổ đại đã chia nấm linh chi thành rất nhiều loại khác nhau dựa vào quả thể cũng như hình dáng bên ngoài của nấm.
Ở phương Tây, theo bảng phân loại của Alexopolus năm 1979, Lingzhi thuộc giống nấm linh chi và là thành viên của họ Myceteae, lớp Basidiomycetes chi Aphyllophorales và thuộc họ Polyporaceae. Đầu năm 1881, Karsten, nhà thực vật học người Phần Lan, đã đưa ra đặc điểm phân loại của nấm linh chi dựa vào lớp biểu bì bên ngoài của nấm. Kể từ đó nấm linh chi đỏ đã trở thành một thay mặt tiêu biểu cho chủng loại nấm này. Về sau, đặc điểm phân loại của nấm linh chi đã được thay đổi bởi một số nhà khoa học khác như Donk, Murrill, Furtano và Steyaert, … sau khi họ đã tìm ra những đặc tính khác của nấm linh chi như các bào tử của nấm linh chi có hình quả trứng, lớp ngoài của thành tế bào tương đối mỏng và trong suốt, ngược lại lớp trong của thành tế bào lại dày, màu vàng nâu và có nhiều nốt nhỏ. Cũng từ đó, nấm linh chi không còn được phân loại dựa vào màu sắc hay hình dạng bên ngoài nữa.
Ngày nay, theo phân loại nấm linh chi của Trung Quốc, nhà nghiên cứu Zhao Jiding, người đã dành gần 50 năm nghiên cứu về lĩnh vực này, đã chia nấm linh chi ra làm 6 loại:
- Nấm linh chi đỏ: còn được gọi là linh chi HgS, thường được tìm thấy ở trên núi Huo. Ganoderma lucidum là thay mặt chính cho loài nấm này. Những đặc điểm của nấm linh chi đỏ chính là nắp nấm có hình dạng giống như quả thận hay hình bán nguyệt, màu nâu đỏ. Thân nấm có dạng giống như một thân cây, cùng màu hay đậm hơn so với nắp nấm.
- Nấm linh chi tím: còn được biết đến với tên gọi là linh chi gỗ. Đặc điểm của loại nấm này là nắp nấm có màu nâu hay nâu tím. Quả thể có màu nâu, bào tử của chúng lớn hơn nấm linh chi đỏ. Ganoderma sinense là thay mặt của loài nấm này.
- Linh chi màu vàng: còn được gọi là hoàng chi. Loại nấm này có màu vàng tím. Một cây nấm lớn có thể nặng khoảng 5 kg hay hơn, còn cây nấm non thì nặng khoảng 1,5 đến 2 kg. Laetiporus sulphureus là thay mặt của loài nấm này. Khi tươi thì nấm này sẽ chứa rất nhiều nước.
- Linh chi trắng: còn được gọi là nấm linh chi ngọc bích. Theo như Bao Puzi mô tả thì đây là loại nấm không có chất béo, Fomitopsis officinalis là thay mặt cho loài nấm này. Loại nấm này có quả thể màu trắng, hình dáng giống như một cái móng ngựa. Một cây nấm lớn có thể nặng đến nhiều kilogram. Loại nấm này thường mọc trên cây thông và một số loại cây lá kim khác.
- Linh chi đen: còn được gọi là nấm linh chi xuân. Loại nấm này thường mọc ở trong những thung lũng, nắp nấm bên ngoài có màu đen bên trong có màu đỏ, thường mọc trên các thân cây, có vị mặn và đắng. Amauroderma rugosum và Polyporus melanopus là 2 thay mặt chính của loài nấm này. Cả cuống và nắp của 2 loại nấm này đều có màu đen.
- Linh chi xanh: còn được gọi là nấm linh chi rồng. Theo Bao Puzi miêu tả thì nấm linh chi xanh có hình dáng giống như những sợi lông của chim bói cá. Coriolus versicolar là thay mặt tiêu biểu cho loài nấm này. Đặc điểm của loài này là mũ nấm cứng và bề mặt được bao phủ bởi những sợi lông ngắn.
Trong mỗi loài nấm linh chi lại được chia ra rất nhiều loại khác nhau. Ví dụ như nấm linh chi đỏ thì có Ganoderma lucidum và Ganoderma tsugae được biết đến nhiều nhất. Đối với linh chi tím thì có Ganoderma neojaponicum và Ganoderma sinense. Tuy nhiên, trong lĩnh vực trồng trọt, y dược và nha khoa, người ta chỉ tập trung nghiên cứu 2 loại đó là linh chi đỏ và linh chi tím. Bảng 1.1 dưới đây mô tả đặc điểm của một số loài nấm linh chi phổ biến ở Đài Loan.
Bảng 1.1: Đặc điểm của một số loại nấm linh chi ở Đài Loan
Tên khoa học | Thân nấm | Bào tử | Nơi sinh trưởng | Tên thông thường |