Download miễn phí Đề tài Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa

CHƯƠNG I: CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 8

1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế 8

1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ 8

1.1.2 Các đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 10

1.1.3 Vị trí, vai trò của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ 12

1.1.4 Nhu cầu vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ 16

1.2 Thẩm định tài chính dự án trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ 18

1.2.1 Khái niệm thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ 18

1.2.2 Các chỉ tiêu sử dụng để thẩm định tài chính trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ 28

1.2.3 Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác thẩm định tài chính trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ 33

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thẩm định tài chính trong cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ 34

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐỐNG ĐA 36

2.1 Tổng quan về Ngân hàng Công thương Đống Đa 36

2.1.1 Quá trình hình thành phát triển 36

2.1.2 Cơ cấu tổ chức 37

2.1.3 Tình hình hoạt động trong những năm gần đây 38

2.2 Công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa 46

2.2.1 Xem xét tổng thể DAĐT 46

2.2.2 Dự tính hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của Dự án đầu tư 53

2.3 Ví dụ về thẩm định dự án xây dựng nhà làm việc và phòng máy trung tâm của công ty dịch vụ truyền thanh truyền hình Hà Nội 57

2.3 Đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa 63

2.3.1 Những kết quả đạt được 63

2.3.1 Những hạn chế và nguyên nhân 65

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐỐNG ĐA 70

3.1 Định hướng hoạt động cho vay của Ngân hàng Công thương Đống Đa 70

3.1.1 Định hướng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 71

3.1.2 Định hướng công tác thẩm định tài chính trong cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ 71

3.2 Một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa 72

3.3 Kiến nghị 79

3.3.1 Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam 79

3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước 81

3.3.3 Đối với Nhà nước 82

3.3.4 Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 82

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU

Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta ngày càng giữ vị trị quan trọng trong nền kinh tế. Chiếm trên 96% số doanh nghiệp đăng ký hoạt động, các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc huy động nguồn lực đầu tư phát triển và có ý nghĩa then chốt trong quá trình giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, phát triển đồng đều giữa các khu vực… Tuy nhiên các Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay vẫn ở tình trạng quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ thấp… Để để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Do vậy, Doanh nghiệp vừa và nhỏ cần rất nhiều vốn, mà lượng vốn tự có không thể đáp ứng được nên các doanh nghiệp tìm đến ngân hàng và vay trung và dài hạn nhiều hơn.
Mặt khác, ngoài Ngân hàng Đầu tư và phát triển thì tín dụng trung và dài hạn chỉ mới được các Ngân hàng khác chú ý và kết quả ở lĩnh vực này còn rất khiêm tốn. Trước thực tế đó, đòi hỏi các Ngân hàng không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng mà trọng tâm là chất lượng thẩm định dự án. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng mà còn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã hội, thúc đẩy mở rộng, phát triển hiệu quả cho nền kinh tế. Tuy nhiên, công tác thẩm định dự án ở các Ngân hàng hiện nay chưa được thống nhất đầy đủ về lý luận lẫn thực hành. Chí vì lẽ đó, trong thời gian thực tập ở Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa, tui đã chọn để tài: “Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa”
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và tại Ngân hàng Công thương Đống Đa
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tai Ngân hàng Công thương Đống Đa
Chuyên đề này được hoàn thành với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy PGS.TS Vũ Duy Hào và các cô chú tại Ngân hàng Công thương Đống Đa. tui xin chân thành Thank và kính mong sự góp ý để chuyên đề được hoàn thiện hơn.




CHƯƠNG I
CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ là nói đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô của các doanh nghiệp. Việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) phụ thuộc vào tiêu thức sử dụng quy định giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp. Khái niệm chung nhất về DNVVN có thể phát biểu như sau:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất – kinh doanh có tư cách pháp nhân vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia.
Như vậy có thể nhận thấy một số tiêu thức chung, phổ biến nhất thường xuyên được sử dụng để phân loại là:
 Số lao động thường xuyên
 Vốn sản xuất
 Doanh thu
 Lợi nhuận
 Giá trị gia tăng
Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh quy mô sử dụng các yếu tố đầu vào, còn tiêu thức về doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá quy mô theo kết quả đầu ra. Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và hạn chế riêng. Như vậy, để phân loại DNVVN có thể dùng các yếu tố đầu vào hay các yếu tố đầu ra của doanh nghiệp, hay là sự kết hợp của cả hai loại yếu tố đó.
Việc sử dụng các tiêu thức để phân loại DNVVN ở các nước trên thế giới có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Các nước dùng tiêu thức khác nhau. Trong số các tiêu thức đó, hai tiêu thức được sử dụng nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô vốn và lao động. Tiêu thức đầu ra được ít nước sử dụng hơn.
- Số lượng tiêu thức sử dụng để phân loại cũng không giống nhau. Có nước chỉ dùng một tiêu thức nhưng cũng có nhiều nước sử dụng đồng thời hai hay nhiều tiêu thức để phân loại DNVVN.
- Lượng hóa các tiêu thức này thành các tiêu chuẩn giới hạn cụ thể ở các nước khác nhau không giống nhau. Độ lớn của các tiêu chuẩn giới hạn phụ thuộc vào trình độ, hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế, định hướng chính sách và khả năng trợ giúp cho các DNVVN của mỗi nước. Điều này làm cho số lượng các DNVVN có thể rất lớn hay nhỏ tùy theo giới hạn độ lớn khối lượng vốn và lao động sử dụng ở mỗi nước.
- Khái niệm DNVVN mang tính tương đối, nó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội nhất định và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng nước; từng thời kỳ cụ thể; từng ngành nghề khác nhau…
- Từng thời kỳ, các tiêu thức và tiêu chuẩn giới hạn lại có sự thay đổi cho phù hợp với đường lối, chính sách, chiến lược và khả năng hỗ trợ của mối quốc gia. Những tiêu thức phân loại DNVVN được dùng làm căn cứ thiết lập những chính sách phát triển, hỗ trợ DNVVN của các Chính phủ.
Từ những phân tích khái niệm chung về DNVVN, các tiêu thức và giới hạn tiêu chuẩn, tiêu thức được sử dụng trong phân loại DNVVN trên thế giới kết hợp với điều kiện cụ thể, những đặc điểm riêng biệt về quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần và các chính sách, quy định phát triển kinh tế của nước ta. Chúng ta có thể nêu ra khái niệm như sau:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất – kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hay lao động thỏa mãn các quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Theo Nghị định 90 ngày 23/11/2001: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hay số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.” (Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hay một trong chỉ tiêu nói trên).
1.1.2 Các đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp hiện có trên cả nước, các DNVVN đang hoạt động trong môi trường kinh tế chưa hoàn toàn thuận lợi cả tầm vĩ mô và vi mô. Trong đó gặp nhiều khó khăn về công nghệ sản xuất kinh doanh, mô hình quản lý, tiến độ, kỹ năng của đội ngũ lãnh đạo và tay nghề của người lao động, cách tiếp thị sản phẩm, đặc biệt là sự hạn chế về tiếp cận thông tin và dịch vụ tài chính, vốn đầu tư... Có thể nhận thấy đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và quản lý ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam còn yếu.
Để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Thế nhưng hầu hết công nghệ đang được sử dụng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam hiện được đánh giá là lạc hậu. Công nghệ lạc hậu chếm tỷ trọng rất lớn là đặc điểm khác biệt của DNVVN so với các DNVVN ở các nước phát triển. Đối với các DNVVN trên thế giới, công nghệ trang bị và sử dụng thường rất hiện đại. Chúng chỉ khác so với doanh nghiệp lớn về quy mô vốn đầu tư, số lao động. Do đó, khả năng sản xuất, năng suất và chất lượng sản phẩm do các DNVVN của nước ngoài tạo ra khá cao và là một bộ phận không thể tách rời của các doanh nghiệp lớn, có liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp lớn dưới dạng vệ tinh cung cấp các bộ phận, linh kiện vật tư. Một số khác tồn tại độc lập thì lại có chất lượng cao và tập hợp thành một quần thể như những liên hiệp sản xuất khu vực có chất lượng sản phẩm cao, có thể tham gia cạnh tranh trên thị trường.
Thứ hai, nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trước tiên và chủ yếu là nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình thành và phát triển các thành phần kinh tế ở nước ta, đại bộ phận các DNVVN, theo quy định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ, đều thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Bởi vậy, đặc điểm và tính chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực này mang tính thay mặt cho DNVVN ở Việt Nam. Chẳng hạn, các con số thống kê về tỷ trọng GDP đóng góp trong cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm, số lao động, vốn, đặc điểm về công nghệ, máy móc sử dụng, trình độ quản lý, khả năng về vốn cho đến nay chủ yếu tổng kết cho khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chứ chưa có số liệu điều tra chính thức riêng biệt cho toàn bộ các DNVVN Việt Nam. Các DNVVN chủ yếu bao gồm các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Vị trí, vai trò và tốc độ, xu hướng phát triển của những doanh nghiệp này rất khác nhau.
Thứ ba, Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam khó tiếp cận dịch vụ ngân hàng. Có thể nói hầu hết các dịch vụ ngân hàng (huy động vốn, dịch vụ cho vay, đầu tư, thanh toán, bảo lãnh, cho thuê tài chính, tư vấn, quản lý tài sản...) đã đến với cộng đồng các doanh nghiệp. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất, bức xúc nhất của các DNVVN hiện nay vẫn là thiếu vốn bởi năng lực vốn nội tại của các doanh nghiệp này hạn chế trong khi tiếp cận vốn ngân hàng còn gặp rất nhiều rào cản. Các DNVVN có tính tự chủ cao nhưng quy mô vốn thấp. Ở các doanh nghiệp này, chủ sở hữu cũng thường là người quản lý. Họ phải tự bươn chải để duy trì và phát triển đồng vốn của mình. Do vậy, người quản lý doanh nghiệp thường rất nỗ lực trong kinh doanh. Doanh nghiệp đói vốn, muốn vay vốn nhưng không có điểm tựa tài chính là Nhà nước để dễ dàng được Ngân hàng chấp nhận cho vay như các doanh nghiệp trong khu vực quốc doanh. DNVVN luôn chỉ được vay khi có tài sản đảm bảo. Hơn nữa, đúng kiểu đã cùng kiệt lại gặp cái eo, giá trị tài sản thấp, chủ yếu là đất ở của chủ doanh nghiệp, nên lượng vốn được phép vay cũng nằm trong giới hạn rất khiêm tốn so với nhu cầu vốn.
Thứ tư, lĩnh vực hoạt động của các DNVVN rất đa dạng và phong phú. Các doanh nghiệp này thâm nhập hoạt động vào rất nhiều ngành nghề kinh tế như thương mại dịch vụ, sản xuất, gia công chế biến…. Nhờ vậy, việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp này sẽ giúp Ngân hàng phân tán được rủi ro hay rủi ro gây biến động không lớn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Do quy mô nhỏ bé, nên khi diễn biến thị trường bất lợi, một chủ doanh nghiệp nhanh nhậy sẽ dễ dàng chuyển hướng kinh doanh mới có lợi. Tuy nhiên, nhìn dưới giác độ khác, tính chất “đa dạng, phong phú” lại trở thành “nhỏ lẻ manh mún”. Có những doanh nghiệp mà danh mục các hoạt động đăng ký kinh doanh gồm đến hàng chục khoản mục từ xuất nhập khẩu, cung cấp dịch vụ thiết kế, tư vấn,…nên tính chuyên nghiệp không cao. Không ít các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có định hướng lâu dài trong hoạt động kinh doanh mà hoạt động chạy theo thương vụ, thường xuyên thay đổi cơ cấu mặt hàng, sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhiều về chủng loại nhưng không lớn về số lượng.
1.1.3 Vị trí, vai trò của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước, kể cả các nước có trình độ phát triển cao. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt như hiện nay, các nước đều chú ý hỗ trợ các DNVVN nhằm huy động tối đa các nguồn lực và hỗ trợ cho công nghiệp lớn, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Vị trí, vai trò của các DNVVN đã được khẳng định thể hiện qua các điểm chủ yếu sau:
- Về số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm ưu thế tuyệt đối
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế mỗi nước. Nó là một bộ phận hữu cơ gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, có tác dụng hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển.
- Sự phát triển của các DNVVN góp phần quan trọng trong việc giải quyết những mục tiêu kinh tế - xã hội sau đây:
 Một là, đóng góp đáng kể vào sự phát triển và ổn định kinh tế của đất nước. Việc phát triển DNVVN đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, ổn định xã hội và tăng trưởng GDP.
 Hai là, cung cấp cho xã hội khối lượng hàng hóa đáng kể
 Ba là, thu hút lao động, tạo ra nhiều việc làm với chi phí đầu tư thấp, giảm thất nghiệp.
 Bốn là, tạo ra nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư, góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập các bộ phận dân cư, tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Khả năng sản xuất phân tán, sử dụng lao động tại chỗ vừa tạo việc làm vừa tạo nguồn thu nhập ổn định cho dân cư trong các vùng góp phần quan trọng trong việc giảm bớt khoảng cách thu nhập và mức sống giữa các vùng trong nước.
 Năm là, khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của các địa phương, các nguồn tài chín của dân cư trong vùng.
 Sáu là, hình thành, phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động. Cùng với phát triển các DNVVN là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nhà kinh doanh sáng lập. Đây là lực lượng rất cần thiết để góp phần thúc đẩy sản xuất – kinh doanh ở Việt Nam phát triển. Đội ngũ các nhà kinh doanh ở nước ta còn rất khiêm tốn cả về số lượng và chất lượng do ảnh hưởng của cơ chế cũ để lại. Trong những năm đổi mới đã xuất hiện nhiều gương măt trẻ, điển hình, năng động trong quản lý các DNVVN.
 Bảy là, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sản xuất – kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn. Sự tham gia của rất nhiều các DNVVN vào sản xuất kinh doanh làm cho số lượng và chủng loại sản phẩm tăng lên rất nhanh. Kết quả là làm tăng tính chất cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới. Những yếu tố đó có tác động lớn làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn.
Đối với Việt Nam thì vị trí, vai trò của DNVVN lại càng quan trọng, do những đặc điểm, tình hình và bối cảnh phát triển kinh tế nước ta quy định. Bức tranh thực tế trong phát triển kinh tế nước ta hiện nay cho thấy DNVVN đã và đang chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Toàn bộ khu vực DNVVN tạo khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp hàng năm, 25%- 26% GDP trong toàn quốc. Nếu căn cứ vào tốc độ tăng trưởng GDP của các DNVVN như hiện nay có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng, tiềm năng phát triển để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra trong giai đoạn tới phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của các DNVVN chứ không phải chỉ có phụ thuộc vào các công trình dự án lớn.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút rất nhiều lao động ở Việt Nam. Hàng năm nước ta có khoảng 1 triệu người đến tuổi lao động. Phần lớn DNVVN thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Khu vực này giải quyết khá lớn lượng lao động. Hiện chiếm tới 42,7% chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh là lao động từ khu vực nhà nước chuyển sang trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, góp phần giải quyết việc làm, thu nhập và ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Ước tính của một nghiên cứu cho thấy DNVVN giải quyết khoảng 26% lao động cả nước (không kể lao động trong hộ gia đình, một lực lượng đông đảo nhất Việt Nam hiện nay). Con số này cho thấy vai trò quan trọng của DNVVN lớn hơn 2,5 lần so với các doanh nghiệp nhà nước về số lao động (7,8 triệu so với 3 triệu). Ở Việt Nam theo ước tính có khoảng 7,8 triệu lao động được thu hút vào làm việc trong các DNVVN. Đây là một cách phát triển góp phần giải quyết tốt sức ép thất nghiệp đang ngày càng gia tăng do dân số đông.
Vị trí, vai trò của DNVVN càng tăng lên khi chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong các DNVVN ở Việt Nam vào khoảng 740.000 đồng chỉ bằng 3% trong các doanh nghiệp lớn (trung bình tạo ra một việc làm ở Việt Nam cần 5-10 triệu đồng). Hơn nữa nguồn vốn huy động chủ yếu trong dân cư, trong điều kiện thiếu vốn thì đây là giải pháp rất quan trọng phát huy nội lực. Các DNVVN hoạt động nhờ vay vốn ngân hàng rất nhỏ. Nguồn vốn chủ yếu huy động từ những người thân quen, họ hàng. Trong tình hình đó DNVVN là người tiếp xúc trực tiếp với người cho vay, huy động vốn từ khu vực tư nhân nhanh và có hiệu quả.
Với những lợi ích to lớn đó, việc khuyến khích, hỗ trợ phát triển các DNVVN là một giải pháp quan trọng để thực hiện Chiến lượng phát triển kinh tế - xã hội đến 2010, đặc biệt là thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Đây cũng là một trong các giải pháp bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế nước ta.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và tự do thưong mại như hiện nay, phát triển các DNVVN có nhiều lợi thế như:
- Khả năng linh hoạt cao, dễ thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường thể hiện qua khả năng chuyển đổi mặt hàng nhanh, phù hợp với xu hướng thay đổi nhanh chóng của nhu cầu trên thị trường.
- Đầu tư ít vốn vẫn có khả năng trang bị công nghệ mới và tương đối hiện đại. Hơn nữa khả năng đổi mới sản phẩm nhanh. Nhờ sự phát triển tiến bọ khoa học và công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin tạo ra khả năng to lớn cho việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào trong hoạt động của các DNVVN. Trong điều kiện trang thiết bi công nghệ hiện đại các DNVVN thường đạt được năng suất và chất lượng cao.
- Cần ít diện tích sản xuất tập trung, có khả năng sản xuất phân tán. Khả năng này phát huy được lợi thế về giảm đầu tư ban đầu cho cơ sở vật chất, tạn dụng các nguồn lực phân tán, đồng thời cũng tạo ra tính linh hoạt cao trong tổ chức sản xuất.

 Hoàn thiện phương pháp thẩm định
Các phương pháp thẩm định mà Ngân hàng hiện nay đang áp dụng là NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, một số dự án có tiến hành đánh giá độ nhạy một chiều, rất ít dự án được đánh giá độ nhạy nhiều chiều hay phân tích tình huống nhằm đánh giá toàn diện những rủi ro mà dự án có thể gặp phải. Nhiều dự án phức tạp, hiệu quả tài chính chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố có khả năng biến động lớn nhưng chỉ đánh giá độ nhạy với mức độ biến động thấp hơn nhiều so với khả năng xảy ra.
Ngân hàng cần có quy định cụ thể, thống nhất trong toàn hệ thống về nội dung và phương pháp thẩm định. Quy định này cũng nên linh hoạt, nghĩa là tùy theo tính chất, quy mô, mức độ phức tạp của dự án để lựa chọn các phương pháp thẩm định thích hợp. Đối với những dự án có quy mô lớn, phức tạp cần tiến hành phân tích độ nhạy nhiều chiều. Với những dự án chịu ảnh hưỏng của nhiều yếu tố có khả năng biến động bất thường nên tiến hành cả phân tích tình huống và mô phỏng.
 Hoàn thiện nội dung thẩm định
Khi tiến hành thẩm định một dự án có hai nội dung chính cần hết sức quan tâm:
 Thứ nhất, thẩm định khách hàng vay vốn:
Trước khi tiến hành thẩm định ngân hàng cần xác minh tính trung thực của các số liệu do khách hàng cung cấp. Chẳng hạn, khoản phải thu trong báo cáo tài chính của khách hàng thì có bao nhiêu phần trăm là khó đòi; Trong hàng tồn kho thì có bao nhiêu phần trăm hàng kém phẩm chất, bi ứ đọng; Vốn cố định biểu hiện dưới dạng máy móc, thiết bị lạc hậu hay hiện đại; Trong công nợ có bao nhiêu phần trăm nợ quá hạn… Khi tính toán các chỉ tiêu tài chính, Ngân hàng nên đánh giá, kết hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của lĩnh vực ngành liên quan. Ngoài ra, cần phân tích đánh giá Báo cáo lưu chuyển tiền tệ để đánh giá chính xác năng lực quản lý ngân quỹ cũng như khả năng thanh toán hiện tại và trong tương lai của khách hàng.
Bên cạnh những biện pháp định tính được coi như “kỹ thuật” thẩm định, nên áp dụng các phương pháp định lượng, hay “nghệ thuật” thẩm định. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp Ngân hàng đánh giá một cách khách quan nhất về khách hàng. Nghĩa là, chỉ cần qua tiếp xúc trực tiếp Doanh nghiệp cán bộ tín dụng có thể thu thập được nhiều thông tin hơn so với những gì thể hiện trên giấy tờ.
Tuy nhiên, làm thế nào để không gây khó dễ cho khách hàng mà ngân hàng vẫn có đủ thông tin để đánh giá khách hàng. Sau đây là một số yếu tố có thể giúp ngân hàng có thể đánh giá định tính về khách hàng:
- Năng lực lãnh đạo quản lý doanh nghiệp của ban giám đốc điều hành là yếu tố năng động nhất. Thông thường nói đến khả năng quản lý là nói đến các chính sách và bộ máy quản lý được biểu hiện ở chất lượng quản lý, hiệu quả kinh doanh.
- Hình ảnh, vị trí của doanh nghiệp trên thương trường được khẳng định qua dư luận xã hội trên các phương diện thông tin đại chúng, trong quan hệ với khách hàng, với nhà cung cấp.
 Thứ hai, dự án vay vốn
Một dự án vay vốn đòi hỏi phải được xem xét đầy đủ các nội dung cần thiết để đảm bảo khả năng đánh giá một cách toàn diện và giúp cho việc ra quyết định đầu tư một cách chính xác. Cần nhận thức rằng mọi nội dung của dự án đều có mối quan hệ mật thiết với nhau: Kết quả thẩm định phương diện thị trường là cơ sở để đánh giá việc lựa chọn kỹ thuật, quy mô, công suất của dự án; Kết quả thẩm định phương diện kỹ thuật lại là cơ sở để tính toán các dòng thu nhập, chi phí, xác định nên hiệu quả tài chính của dự án. Trong khi hiệu quả tài chính dự án lại là cơ sở để quyết định phương án cho vay, thu nợ của ngân hàng.
- Khi thẩm định phương diện thị trường, cần thu thập thông tin về: số lượng doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm trong cùng một khu vực thị trường (kể cả những doanh nghiệp bắt đầu thành lập); Mức cầu sản phẩm cùng loại sản phẩm cùng loại trong năm qua (ít nhất là 5 năm) để thấy được tốc độ tăng trưởng tời gian qua, làm cơ sở cho việc dự báo tốc độ tăng trưởng trong thời gian tới; Mức độ tăng trưởng trong thời gian tới… Ngoài ra, còn phải nắm được quy hoạch phát triển do Bộ, ngành công bố để đảm bảo dự án là các công trình được tiến hành theo đúng quy hoạch của Nhà nước.
- Khi tiến hành thẩm định phương diện kỹ thuật; với những dự án phức tạp, vượt ra ngoài khả năng của cán bộ thẩm định thì việc thuê chuyên gia là hết sức cần thiết. Đồng thời ngân hàng cũng phải nghiên cứu, tìm hiểu về những ngành nghề, sản phẩm của dự án mà mình phụ trách.
- Thẩm định phương diện tài chính của dự án luôn được coi là khâu quan trọng nhất, quyết định đến việc ngân hàng có đầu tư cho vay hay không. Khi xem xét phương diện tài chính của dự án cần chú ý các điểm:
 Dự toán vốn đầu tư của dự án: Kiểm tra tính hợp lý về chi phí đầu tư dựa trên cơ sở tham khảo những dự án tương tự điển hình (không nên chỉ dựa vào kế hoạch dự trù chi phí do chủ đầu tư đưa ra như hiện nay nhằm tránh tình trạng tính thừa hay thiếu).
 Vấn đề xác định dòng tiền của dự án: Dòng tiền ròng của dự án cần được tính toán nhất quán theo quan điểm tổng mức vốn đầu tư bao gồm cả vốn chủ sở hữu và vốn vay.
 Về tỷ tỷ lệ chiết khấu: Tỷ lệ chiết khấu, về bản chất là chi phí cơ hội của việc đầu tư vào dự án. Các nhà đầu tư sẽ chỉ thực hiện dự án khi khi lợi nhuận mà họ kỳ vọng thu được sẽ lớn hơn hay bằng chi phí cơ hội của việc thực hiện dự án. Ngân hàng thẩm định tài chính dự án trên cơ sở tổng vốn đầu tư nhằm đánh giá khả năng trả nợ của dự án. Chính vì vậy, tỷ lệ chiết khấu đối với dự án được ngân hàng sử dụng phản ánh mức lợi nhuận trung bình tối thiểu mà ngân hàng và doanh nghiệp kỳ vọng nhận được khi thực hiện dự án.
Về nguyên tắc, tỷ lệ chiết khấu chính là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn để đầu tư theo dự án, thể hiện thông qua chi phí vốn cận biên. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay ở Việt Nam, do thị trường tài chính chưa phát triển mạnh nên việc xác định chi phí vốn cận biên là rất khó khăn, có thể lựa chọn chi phí vốn trung bình để thay thế, tuy nhiên ngân hàng hiện vẫn thường lấy lãi suất cho vay làm tỷ lệ chiết khấu.
 Đánh giá dự án trong điều kiện có lạm phát: Việc thẩm định dự án đầu tư chủ yếu là trong dài hạn mà trong dài hạn luôn có sự thay đổi giá cả tức là ảnh hưởng của lạm phát đối với dự án. Lạm phát dự tính có ảnh hưởng nhất định tới giá trị hiện tại ròng (NPV) của dự án bởi vì nó làm biến đổi dòng tiền kỳ vọng và tỷ lệ chiết khấu. Do vậy, trong khi đánh giá dự án luôn tuân thủ nguyên tắc: tỷ lệ lãi suất danh nghĩa chỉ áp dụng đối với những khoản thu nhập danh nghĩa và tỷ lệ lãi suất thực tế chỉ áp dụng đối với những khoản thu nhập thực tế.
Nếu điều chỉnh lãi suất danh nghĩa theo lạm phát thì các khoản thu nhập và chi phí của dự án thay đổi với cùng một tỷ lệ (thấp hay cao hơn tỷ lệ lạm phát), trừ những khoản dựa trên những chi phí quá khứ là không đổi, vì giá trị tiết kiệm do khấu hao mang lại thể hiện sự ổn định về tiền tệ.
 Đảm bảo tính độc lập trong công tác thẩm định
Công tác thẩm dịnh, xem xét cho vay dự án trong thời gian qua tại các NHTM còn bị động về mặt thời gian, nguồn tài liệu và đôi khi chịu sự chi phối của chính quyền địa phương. Điều đó có ảnh hưởng đến tính độc lập của ngân hàng trong việc thẩm định dự án. Muốn phát huy tính chủ động và độc lập của ngân hàng trong quá trình thẩm định dự án cần thực hiện một số vấn đề sau:
- Bản thân lãnh đạo Ngân hàng phải kiên định, giữ vững vai trò độc lập khi xem xét thẩm định dự án đầu tư.
- Nêu cao vai trò tham mưu của Ngân hàng cho cấp Ủy, chính quyền địa phương trong quá trình xây dựng, thẩm định và lựa chọn dự án.
 Phát huy vai trò tư vấn của Ngân hàng đối với chủ đầu tư
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó là thiếu vốn, thiết bị, công nghệ lạc hậu, thiếu kinh nghiệm quản lý kinh trong nền kinh tế thị trường. Để tồn tại và vươn lên, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành, tăng cường khả năng cạnh tranh. Do đó, vai trò tư vấn của Ngân hàng đối với chủ đầu tư là rất cần thiết, thể hiện ở chỗ: Giúp chủ đầu tư xây dựng một dự án, lựa chọn việc sản xuất sản phẩm gì, cung cấp thông tin về thị trường sản phẩm đó, các phương án kỹ thuật, nhập các thiết bị công nghệ, tính toán nguồn tài trợ cho dự án với lãi suất như thế nào. Bên cạnh đó, cán bộ thẩm định cũng cần giúp chủ đầu tư tính toán hiệu quả kinh tế trên cơ sở dự kiến quá trình kinh doanh, thu lợi nhuận, đồng thời có thông báo đối với chủ đầu tư về những rủi ro mà dự án có thể gặp để chủ đầu tư để ra những biện pháp hạn chế rủi ro, đảm bảo dự án hoạt động hiệu quả, trả nợ cho Ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi.
 Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát đối với công tác thẩm định dự án
Để đảm bảo các quy trình, quy chế thẩm định được tuân thủ đúng đắn, đầy đủ, Ngân hàng cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ. Mục tiêu của việc này là phát hiện ra những hiện tượng bất thường, đảm bảo tính đúng đắn trước khi ra quyết định cho vay.
 Hiện đại hóa máy móc phục vụ cho công tác thẩm định
Trong năm qua, phòng Thông tin điện toán đã trang bị, sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị, làm mới và nâng cấp đường truyền, cải tạo hệ thống mạng của Chi nhánh … để thực hiện việc làm sạch dữ liệu và chuyển đổi thành công từ hệ thống OSFA sang chương trình hiện đại hóa INCAS. Tuy nhiên, Ngân hàng cần đầu tư trang bị mới, mua thêm máy tính có chất lượng tốt để đảm bảo các cán bộ thẩm định đều có máy để làm việc. Ngoài ra, Ngân hàng cũng cần thiết kế thêm các phần mềm để ứng dụng vào việc phân tích thẩm định dự án, tính toán được nhiều chỉ tiêu hơn, chính xác hơn, nhanh chóng hơn. Bên cạnh đó, phải chú ý đến tính hiện đại của công nghệ và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của chi nhánh, vừa đầu tư hiện đại hóa, tin học hóa vừa phải đào tạo con người để sử dụng, ứng dụng được.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top