tamthainguyen81

New Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI

LờI Mở ĐầU.
Sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước ,nước ta bước vào thời kỳ đổi mới đã phải tiếp nhận thực trạng của một cơ cấu kinh tế mang nặng đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu, sau nhiều kế hoạch phát triển kinh tế lần lượt các mô hình cơ cấu kinh tế được hình thành, song đến cuối những năm 80 nền kinh tế cơ bản vẫn là cơ cấu kinh tế cũ, lạc hậu và kém hiệu quả. Mà việc cấu trúc lại không phải là việc đơn giản.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn tạo tiền đề để giải quyết hàng loạt các vấn đề chính trị - xã hội của đất nước, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh hiện đại.
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định phải "đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn" Trong những năm gần đây nhờ có "đổi mới" nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy vậy nông nghiệp hiện nay vẫn đang đứng trước những thách thức to lớn, có nhiều vấn đề về sản xuất và đời sống của nông dân đang nổi lên gay gắt. Do vậy đẩy nhanh tiến độ thực hiện chủ trương này của Đảng và Nhà nước là nhu cầu rất cấp thiết .
Qua hơn 10 năm đổi mới cơ cấu kinh tế bước đầu đã có sự chuyển biến khích lệ, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22, 7%(1990) lên 30%(1995), tỷ trọng nghành dịch vụ từ 38%(1990) lên 44, 2 % (1995) , nước ta dã chuyển sang thời kỳ mới -thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá để đến năm 2020 về cơ bản đất nước ta trở thành nước công nghiệp
Hiện nay ở nước ta nông nghiệp vẫn còn chiếm bộ phận lớn trong kinh tế mà sản xuất nhỏ lại chiếm bộ phận lớn trongh nông nghiệp vì nông nghiệp là nghành cung cấp nguyên liệu và lương thực, đồng thời là một nguồn xuất khẩu quan trọng, nông thôn là thị trừơng tiêu thụ to lớn nhất hiện nay, cho nên cần cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các nghành kinh tế khác. Vì vậy từ nhiều năm nay Đảng và nhà nước ta đã nêu ra vấn đề CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn và coi đây là một nội dung quan trọng có tính quyết định đến thành công của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Nội dung.
Chương I:một số vấn đề lý luận chung về CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn VIệT NAM.
1. Cơ sở lý luận.
CNH- HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hang hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường.
Thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học đưa thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuâts nông nghiệp nhằm nâng cao năng xuất lao động, chất lượng hiệu quả sức cạnh tranh của sản phẩm hang háo trên thị trường.
Xây dựng cơ cấu sản xuất nông nghiệp, đổi mới cơ cấu cây trồng, vầt nuôi, tăng giá trị thu được trên một đơn vị diện tích. Điều chỉnh quy hoạch sản xuất lương thực phù hợp với nhu cầu và khả năng tiêu thụ, nâng cao giá trị và hiệu quả xuất khẩu. Phát triển theo quy hoạch và chú trọng đầu tư thâm canh các vùng cây công nghiệp như cà phê, cao su, chè, điều, hạt tiêu, dừa, dâu tằm hình thành các vùng rau, hoa, quả có giá trị cao gắn với phát triển cơ sở bảo quản, chế biến. Phát triển và nâng cao chất lượng hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm, mở rộng phương pháp nuôi công nghiệp, gắn với chế biến sản phẩm tăng tỷ trọng nghành chăn nuôi trong nông nghiệp. Phát huy lợi thế về thuỷ sản tạo thành một nghành kinh tế mũi nhọn, vươn nên hang đầu trong khu vực. Bảo vệ và phát triển tài nguyên dừng.
Quy hoạch hợp lý và nâng cao hiêu quả sử dụng quỹ đất, nguồn nước, vốn rừng gắn với bảo vệ môi trường.
Từng bước đổi mới quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội trong nông nghiệp để sớm đưa nông nghiệp nước ta nên nền nông nghệp hang hoá lớn, hiện dại, tạo cơ sở để phát triển các nghành kinh tế khác ( công nghiệp, dịch vụ. . )
CNH-HĐH nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các nghành công nghiệp và dịch vụ giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao đôngj nông nghiệp.
Xây dựng nông thôn dân chủ công bằng văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất văn hoá của nhân dân ở nông thôn ( Mục đích là giảm sự chênh lệch giàu cùng kiệt giữa nông thôn và thành thị )
Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, các nghành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp nông thôn. Phát huy tiềm năng của từng vùng nông thôn, khôi phục các làng nghề truyền thống ở các địa phương, chuyển bộ phận quan trọng trong nông nghiệp nông thôn sang công nghiệp dịch vụ, tạo việc làm mới, giảm tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp.
Tiếp tục đầu tư phát triển đểhoàn thiệ hệ thống thuỷ lợi, ngăn mặn, dữ ngọt, kiểm soát lũ. . ở nông thôn đảm bảo tưới tiêu, an toàn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân
Nhiêm vụ của CNH- HĐH nông nghiệp và nhiệm vụ của CNH-HĐH nônh thôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, hoà quyện vào nhau, tác độnh lẫn nhau, trong quá trình phát triển
Vì vậy trong chỉ đạo thực hiện không được chia cắt, tách rời từng nội dung mà phải gắn kết trong một thể thống nhất
2.Tính tất yếu khách quan phải thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp.
a. Vì sao phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp?
Xuất phát từ nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp phổ biến sản xuất nhỏ, lạc hậu và đang ở trình độ thấp, đó là cơ sở vật chất, kỹ thuật còn lạc hậu, lao động xã hội đại bộ phận tập trung trong nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp, tự túc và thu nhập của nông dân thấ, đời sống mọi mặt của họ còn hết sức khó khăn. trong khi đó đến nay nhiều nước trên thế giới đã có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao, mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp đã được cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá. Nhờ đó năng suất ruộng đất, năng xuất lao động của họ đạt rất cao, tạo sự phân công lao động sâu sắc trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Mặt khác do yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhu cầu về nâng cao đời sống con người đó là xã hội càng phát triển, đời sống con người càng được nâng cao thì nhu cầu của con người về lương thực và thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Như vậy chỉ có một nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao mới hy vọng đáp ứng được nhu cầu tăng lên thường xuyên đó.
Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, trước hết là quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá các quan hệ kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất thương mại, trao đổi thông tin khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ... buộc chúng ta phải đẩy nhanh việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp để chúng ta có thể tận dụng vốn, khoa học, kỹ thuật kinh nghiệm quản lý nước ngoài vào trong hoàn cảnh thực tiễn vận dụng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta nhằm để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rơi vào tình trạng "bãi rác công nghiệp" của thế giới, dẫn đến cuộc sống đói nghèo, lệ thuộc kinh tế nước ngoài...v.v.
Như vậy đứng trước những yêu cầu đổi mới đang diễn ra trước mắt ta cần khẳng định trong bối cảnh quốc tế hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển chung của thế giới. trình độ công nghiệp hoá hiện đại hoá biểu hiện trình độ phát triển của xã hội. Vì vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nói riêng là con đường đúng đắn mà đảng ta đã lựa chọn trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của mình, nó là "nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", nó là con đường tất yếu để đưa nước ta thoát khỏi cùng kiệt nàn, lạc hậu và "nguy cơ tụt hậu" xã hơn so với các nước trong khu vực.
b. Cần làm gì để thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp?
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là một quá trình lâu dài cần được tiến hành theo cách tuần tự, không thể nóng vội, không thể tuỳ tiện. Để thực hiện được quá trình này cần có và thực hiện tốt những chương trình mục tiêu, giải quyết từng vấn đề có liên quan sau:
Trước tiên, đó là những chương trình với mục tiêu cụ thể là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách có trọng điểm ở một số vùng. Tinh thần chung là việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở mỗi vùng trước hết phải do dân cư các vùng đó chủ động thực hiện theo hướng của nhà nước. Nhà nước có thể hỗ trợ nhưng không làm thay, và cũng chỉ hỗ trợ trên cơ sở năng lực nội sinh của mỗi vùng. Các địa phương, dù là vùng trọng điểm, cũng không thể trông chờ vào nguồn tài trợ của nhà nước, không thể cố gắng "xin" của nhà nước càng nhiều càng tốt như trước kia. Hơn nữa, các khoản hỗ trợ của nhà nước cũng phải được tính toán, quyết định trên cơ sở hiệu quả cụ thể, rõ ràng cuối cùng của mỗi dự án. Như vậy, các dự án thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể không gắn với lợi ích của các chủ thể có liên quan tới việc thực hiện nó. Tuy nhiên công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp không chỉ là sự nghiệp của riêng dân cư nông thôn và nhà nước, mà mỗi ngành đều có trách nhiệm nhận thức rõ sự cần thiết của nó để có các chương trình hành động cụ thể, thích hợp. Họ cần nhận thức rõ rằng tham gia thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp không phải là để "giúp nông thôn phát triển" mà cũng chính là vì lợi ích của họ. Chương trình phục vụ công nghiệp hoá nông nghiệp của mỗi ngành, mỗi đơn vị phải phù hợp với khả năng của ngành, đơn vị, phải phục vụ những nhu cầu cụ thể của nông nghiệp và nông thôn, đồng thời cố gắng có những địa chỉ áp dụng thu hưởng cụ thể. Chẳng hạn, các viện nghiên cứu, thiết kế và sản xuất đưa ra các thiết bị phục vụ nông nghiệp (làm đất, chăm sóc hoa màu, thu hoạch, bảo quản, chế biến nông sản). Các cơ quan nghiên cứu, chuyển giao công nghệ có thể nghiên cứu, ứng dụng, giới thiệu, chuyển giao các công nghệ mới, kể cả công nghệ sinh học, cây con, công nghệ chế biến, bảo quản nông sản... và thực hiện các dịch vụ kỹ thuật - công nghệ phục vụ nông thôn. Các cơ sở đào tạo các cấp cũng có thể tham gia vào quá trình này vừa bằng cách đào tạo nguồn nhân lực thích hợp cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp vừa hoạt động như một cơ sở tư vấn, phổ biến kiến thức về các lĩnh vực có liên quan tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá thuộc chuyên ngành của mình...
Nhà nước, với chức năng điều phối các hoạt động của toàn xã hội, cần tăng cường hơn nữa các hoạt động riêng rẽ của các ngành, các địa phương, biến các chương trình mục tiêu riêng rẽ thành chương trình mục tiêu liên ngành, đồng bộ, hướng tới những kết quả thiết thựuc cuối cùng, có khả năng giải quyết vấn đề một cách bền vững, tránh sự mất cân đối không cần thiết. Chẳng hạn trong thời gian qua, khi đưa máy móc vào nông nghiệp, vấn đề tạo việc làm chưa được giải quyết tốt, dẫn đến khó khăn trong việc duy trì các hoạt động đó. hay khi đã tạm giải quyết được vấn đề việc làm, các loại máy móc lại chưa được thiết kế một cách thích hợp; trong khi ruộng đất bị chia ngày càng nhỏ, các loại máy nông nghiệp (làm đất, bơm nước) lại chưa đựơc thiết kế thích hợp. Tương tự, khi vận động nông dân trồng các loại cây chuyên canh, công nghiệp chế biến lại chưa đựoc xây dựng kịp thời, dẫn đến sự thua thiệt hay kinh doanh kém hiệu quả (ví dụ các vùng trồng dưa, vải, mận... mà chúng ta đã thấy đề cập nhiều trên báo). Ngược lại, có nơi chủ động xây dựng trước các cơ sở chế biến thì hay nguyên liệu không đủ, hay nguyên liệu không đồng nhất, hay không đáp ứng nhu cầu về chất lượng... làm chúng không hoạt động được.
Nói tóm lại, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là nhiệm vụ to lớn, cấp bách lâu dài và gian khó. Việc thực hiện nó đòi hỏi những nỗ lực chung của toàn xã hội. Sự nghiệp này đòi hỏi chúng ta phải có bước đi, biện pháp và chính sách hợp lý để thực hiện.
Xoá bỏ chế độ giao khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng chuyển sang giao đất có rừng ổn định lâu dài cho dân.
- Chính sách tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư phân bón:
Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước gắn với phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác xã , gắn chức năng tiêu thụ nông sản và cung ứng phân bón làm một, kể cả việc xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón.
Bố trí lại cơ cấu sản xuất trong nước cho phù hợp với lợi thế so sánh của từng vùng và đảm bảo thị trường thống nhất, thông suốt cả nước.
Thực hiện đấu thầu hạn ngạch xuất khẩu gạo, nhập khẩu phân bón, có cơ chế chính sách khuyến khích tìm thị trường xuất khẩu gạo như: xây dựng chế độ môi giới, tổ chức hợp tác xuất khẩu với các nước trong khu vực, tăng cường hoạt động có hiệu quả của các cơ quan thương mại của ta ở nước ngoài để không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá.
- Chính sách đầu tư:
Cần cụ thể hoá luật đầu tư trong nước và nước ngoài bằng các chính sách ưu đãi của nhà nước và hỗ trợ của dân, nhằm khuyến khích động viên các nhà đầu tư bỏ vốn vào lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, kinh tế nông thôn, đặc biệt vào vùng cao, vùng dân tộc ít người, vùng sâu xa trung tâm.
Giảm bớt các thủ tục hành chính, phân cấp mạnh hơn cho chính quyền địa phương xét duyệt các dự án, tăng cường phối hợp chặt chẽ, thống nhất hơn giữa các ngành để nhanh chóng tiếp cận và triển khai thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài.
Tăng tỷ lệ đầu tư của nhà nước cho khu vực nông thôn lên 25% tổng ngân sách nhà nước hàng năm bằng các chương trình, dự án có mục tiêu và được phân bổ, giao ngay từ đầu năm cho các địa phương.
- Chính sách phát triển nguồn nhân lực:
Khắc phục tình trạng thiếu giáo viên, trường lớp học tập, nhất là trong việc phổ cập giáo dục tiểu học. Duy trì và mở rộng trường phổ thông dân tộc nội trú, các trường bán trú để tạo điều kiện cho con em đồng bào dân tộc, vùng xa trung tâm cơ hội đến trường. Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi đối với học sinh cùng kiệt học giỏi, có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng sử dụng nhân tài.
Cùng với việc nhà nước tăng cường mở rộng các trường dạy nghề ở các khu vực nông thôn, cần khuyến khích các cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài mở trường lớp dạy nghề, hướng dẫn phổ biến khoa học kỹ thuật, quản lý, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh cho nông dân.
Xoá xã "trắng" về trạm y tế, nâng cao chất lượng phục vụ của mạng lưới y tế, văn hoá cơ sở, thực hiện xã hội hoá các hoạt động y tế, văn hoá, thể dục thể thao, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em, tăng tuổi thọ bình quân, động viên toàn dân hăng hái tham gia lao động sản xuất, tăng tích luỹ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá...
Kết luận
Qua phân tích toàn diện cả nội dung, biện pháp và thực trạng của quá trình CNH - HĐH nông nghiẹp Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua, ta có thể khẳng định: công nghiệp hoa, hiện đại hoá nông nghiệp Việt Nam là một quá trình hoàn thiện cách tổ chức, quản lý và ứng dụng những thành tựu tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và luôn giữ vững định hướng của Đảng và nhà nước đã đặt ra.
Rút kinh nghiệm từ bài học không thành công của thời bao cấp, trong những năm đổi mới vừa qua vấn đề CNH - HĐH nông nghiệp, đã được điều chỉnh cả về mục tiêu, nội dung, phương pháp và bước đa cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Tuy vậy, tình hình CNH - HĐH trong nông nghiệp nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều vấn đề, chưa hoàn thiện hết. Điều đó cũng dễ hiểu, vì CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn vốn là vấn đề phức tạp, có nhiều nội dung liên quan đến hàng chục triệu hộ nông dân trên địa bàn nông thôn rộng lớn với 80% dân số cả nước, sinh sống. Vì vậy quá trình đó diễn ra phải từ thấp đến cao, từ thí điểm đến mở rộng các mô hình khác nhau và mỗi mô hình đều dựa trên những điều kiện kinh tế và kỹ thuật nhất định của ngành, địa phương hay vùng lãnh thổ, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của thế giới, nhất là các nước trong khu vực đã tiến hành CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn...
Trong điều kiện Việt Nam những năm cuối của thế kỷ 20 này, CNH-HĐH nông nghiệp gắn liền với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng công nghiệp dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Vì vậy vấn đề rất quan trọng mà CNH - HĐH nông nghiệp không thể thiếu là phát triển mạnh ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn, từng bước đô thị hoá nông thôn, áp dụng nhiều phương pháp công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề của lao động nông thôn, tạo thêm công ăn việc làm để tăng thêm thu nhập cho nông dân. Từng bước đưa nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn Việt Nam thoát ra khỏi tình trạng cùng kiệt nàn, lạc hậu.
Như vậy CNH-HĐH nông nghiệp không chỉ là một bộ phận, mà còn là giải pháp quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH nền kinh tế đất nước và đây cũng là chiến lược lâu dài của Đảng và nhà nước ta nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO

- CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
"NXB chính trị quốc gia".
- Địa lý kinh tế Việt Nam của ĐHKTQD _NXB Giáo dục .
- Giáo trình KTCT Mac-Lê Nin tập II của ĐHKTQD-NXB Giáo dục .
- Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết Hội nghị lần III, V khoá IX –NXB chính trị quốc gia-HN .
- Tạp chí cộng sản "Số ra tháng 1/1999".
- Tạp chí phát triển kinh tế "Số 95, tháng 9/1998".
- Sách về thực trạng CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
"NXB thống kê Hà Nội - 1998" .
- Văn kiện Đại hội đại biểu toần quốc lần VIII-NXB chính trị quốc gia –HN .
- Văn kiện Đại hội dại biểu toàn quốc lần IX-NXB chinh trị quốc gia-HN .

MụC LụC
Phần I: Lời mở đầu .
Phần II: Nội dung .
- Chương I: một số vấn đề lý luận chung về CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn VIệT NAM.
- Chương ii: Thực trạng của quá trình CNH- HĐH nông nghiệp Việt Nam hiện nay
- Chương III: Giải pháp phát triển nông nghiệp Việt Nam trong quá trình CNH-HĐH.
Phần III: Kết luận.
Phần IV: Danh mục tài liệu tham khảo .
Phần V: Mục lục .

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Kiến thức bôn ba

Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top