n0_crazy

New Member
Download Đề án Lạm phát và các giải pháp phòng chống lạm phát trong nền kinh tế thị trường

Download Đề án Lạm phát và các giải pháp phòng chống lạm phát trong nền kinh tế thị trường miễn phí





Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát cao sẽ làm cho thu nhập thưc tế của người lao động không ngừng giảm xuống, làm cho đời sống của họ trở nên khó khăn hơn. Với mức lương 500 000VND một tháng hiện nay, người lao động có thể mua được 2 tạ gạo (với giá gạo là 2500VND/kg). Vào năm sau , nếu vẫn số lượng hàng tháng như hiện nay mà tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế tăng thêm 20% so với năm trước. Khi đó giá gạo sẽ tăng lên là 3000 VND/kg. Do đó số tiền lương công nhân trong một tháng chỉ có thể mua được 1.67 tạ gạo. Như vậy lạm phát không chỉ làm giảm gía trị thực của những tài sản không có lãi (tức tiền mặt ) mà nó còn làm hao mòn của những tài sản có lãi ,tức là làm giảm thu nhập thực từ các khoản lãi ,các khoản lợi tức . Khi lạm phát tăng cao ,những người đi vay sẽ tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao ,điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao (mặc dù thuế suất không đổi ) kết quả làm thu nhập ròng ,thu nhập thực mà người cho vay nhận được giảm đi .



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

o rằng lạm phát là hiện tượng kinh tế xã hội của tất cả các nước có sử dụng tiền tệ hiện đại. Hiên tượng đó được thể hiện thông qua sự gia tăng của mặt bằng giá cả.
Còn theo Keynes , lạm phát là một hiện tượng tự nhiên vốn có của nền kinh tế, nó mang tính thường xuyên, vận động mang tính chu kỳ. Như vậy theo ông bản chất của lạm phát chính là một vấn đề kinh tế, không phải là vấn đề chính trị, do đó để có chính sách chống lạm phát phải nghiên cứu từ giác độ kinh tế.
Như vậy mặc dù có nhiều điểm khác nhau về lạm phát , song chung quy lại các quan điểm đều khẳng định , bản chất của lạm phát chính là sự gia tăng mức giá chung của nền kinh tế.
Phân loại lạm phát
Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà ta có thể phân chia lạm phát ra làm các loại khác nhau.
*) Căn cứ về mặt định lượng có thể chia lạm phát ra làm 3 loại:
Lạm phát một con số mỗi năm: Đây là loại lạm phát xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, với mức lạm phát này, những tác động kém hiệu quả của nó là không đáng kể.
Lạm phát hai con số mỗi năm: Khi tỷ lệ tăng, giá đã bắt đầu tăng đến hai chữ số mỗi năm. ở mức lạm phát hai chữ số thấp (10%, 11%, 12%/năm) , nói chug những tác động tiêu cực của nó không đáng kể, vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng lên quá cao, lạm phát sẽ trở thành mối đe doạ đối với sự ổn định kinh tế, là kẻ thù của sản xuất và thu nhập bởi những tác động tiêu cưc của nó.
Siêu lạm phát (hay còn gọi là lạm phát ba con số): Gọi nó là siêu lạm phát bởi lẽ tỷ lạm phát là rất cao và tốc độ tăng rất nhanh. Với siêu lạm phát, những tác động tiêu cực của nó đến đời sống xã hội và nền kinh tế sẽ trở nên rất nghiêm trọng, kinh tế suy xụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế cua người lao động giảm mạnh. Tiêu biểu nhất của siêu lạm phát trong lịch sử là lạm phát ở Đức, giai đoạn 1922-1923: Trong vòng hai năm, kể từ tháng 11/1921 đến tháng 11/1923, giá cả hàng hoá bình quân ở Đức tăng 1500 tỷ lần so với mức trước năm 1914. Điều đó có nghĩa tương đương với việc một con tem mua vào năm 1914 có giá 10 đồng DM, thì đến năm 1923 con tem ấy có giá là 15 000 tỷ đồng DM. Việt Nam cũng đã từng rơi vào tình trạng siêu lạm phát, đó là vào giai đoạn năm 1986-1988, khi đó đỉnh cao nhất của Việt Nam là lạm phát lên tới 487,2% năm 1986. Tuy tình trạng siêu lạm phát không phải là phổ biến, song nếu xảy ra thì nền kinh tế sẽ suy sụp một cách nhanh chóng vì sản xuất không chịu hoạt động hay chỉ hoạt động cầm chừng . Bởi lẽ, họ càng hoạt động sản xuất nhiều thì sẽ càng bị lỗ nhiều do giá vật tư lên nhanh.
*) Căn cứ vào mặt định tính có thể chia lạm phát thành lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng, hay là lạm phát đoán trước hay lạm phát bất thường.
Lạm phát cân bằng: Khi lạm phát tăng thì thu nhập tăng tương ứng, do đó lạm phát không ảnh hưởng tới đời sống của người lao động.
Lạm phát không cân bằng: Tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập, vì thế sẽ ảnh hưởng tới đời sống người lao động. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất. Để hiểu rõ hơn về hai loại lạm phát này, chúng ta đi vào ví dụ sau : Giả sử rằng vào tháng 5 năm 1992, một công nhân Việt Nam với mức lương trung bình 400 000VND/tháng, trường hợp xem xét giá gạo là giá cả thay mặt cho các loại giá khác trên thị trường với giá gạo là 2000VND/kg. Như vậy,một tháng lương người đó mua được 200kg gạo. Giả định tiếp, đúng một tháng sau, giá gạo bị lạm phát 2%. Như vậy, qua một tháng giá gạo đã tăng lên thành :
( 2000VND/kg x 2% ) + 2000VND/kg = 2040VND/kg.
Có 3 tình huống:
Thứ nhất, nếu sau một tháng đó lương của người công nhân vẫn không tăng , vẫn 400 000VND/tháng thì anh ta chỉ có thể mua được 196.08 kg gạo. Do đó vô hình chung ,lạm phát đã làm mất của anh ta gân 4 kg gạo . Rõ ràng anh ta trở lên cùng kiệt hơn một chút so với tháng trước đó.
Thứ hai, có thể Nhà nước tiên liệu trước được tình hình lạm phát nên quyết định tăng lương công nhân trong tháng 6 . Cho rằng hay vô tình nhoăc đôi khi được tính trước , tỷ lệ lương bình quân tăng 2% một tháng. Khi đó, lương tháng 6 của công nhân sẽ là 400 000 x (1 + 2%) = 408 000 VND. Lương này sẽ mua được 200 kg gạo ( với giá 2040 VND/kg). Có thể thấy mưc sống của người công nhân không có gì thay đổi so với tháng trước, lương vẫn đủ đảm bảo cho anh ta mua được ngần ấy hàng hoá. Anh ta không giàu hơn cũng chẳng cùng kiệt đi so vói tháng trước bởi tuy lương tăng lên được 8000 VND thì giá cả cũng tăng lên vừa đủ phần tăng lương này.
Thứ ba, Nhà nước tăng lương công nhân hơi mạnh tay lên đến 107.1% so với mức lương cũ. Khi ấy:
Lương của công nhân trong tháng 6 là:
400 000 x 107.1% = 428 400 VND/tháng.
Số gạo mà toàn bộ lương này mua được là:
428 400 : 2040 = 210kg
Rõ ràng là anh công nhân sẽ sung sướng hơn vì lương của anh ta mua được nhiêù gạo hơn so với tháng trước.
Như vậy có thể thấy trường hợp thứ hai được gọi lạm phát cân bằng. Hai trường hợp thứ nhất và thứ ba là lạm phát không cân bằng. Cân bằng ở đây là cân bằng so với thu nhập. Do đó, có thể hiểu rằng lạm phát được gọi là cân bằng khi nó tăng tương ứng với thu nhập . Ngược lại khi nó tăng không tương ứng với thu nhập được gọi là lạm phát không cân bằng.
Lạm phát đoán trước và lạm phát bất thường:
Khi lạm phát xảy ra liên tục trong một khoảng thời gian dài ( ví dụ trong 10 năm), tâm lý và sự chờ đợi của nhân dân đã trở thành quán tính, người ta đã sống quen dần với lạm phát. Năm thứ 11, hay năm thứ 12 trở đi, việc nền kinh tế sẽ có lạm phát là chuyện bình thường và gần như được đoán trước. Người ta gọi đây là lạm phát đoán trước. Cũng có khi người ta có thể nhìn thấy trước về lạm phát và tin rằng nó sẽ xảy ra bởi các nguyên nhân của nó đã bộc lộ đầy đủ và rõ ràng. Trong trường hợp đó người ta cũng đoán trước được và không bất ngờ khi lạm phát xảy ra.
Nhưng nếu lạm phát bùng ra bất thình lình mà trước đó không hề có và cũng chẳng có dấu hiệu báo trước. Chẳng hạn nền kinh tế đang quen với lạm phát thấp , bỗng nhiên lạm phát vọt lên cao . Khi đó người ta gọi đó là lạm phát bất thường. Lạm phát bất thường dễ gây sốc cho cuộc sống và mọi người bởi vì họ chưa chuẩn bị về mặt tâm lý và tiêu dùng để phù hợp với việc tăng giá đột ngột.
2. Nguyên nhân của lạm phát
Sau khi đã hiểu về bản chất của lạm phát là như thế nào thì đặt ra cho chúng ta câu hỏi tại sao lại có lạm phát ? Nguyên nhân gì đã sinh ra lạm phát ?
Trên thực tế thì lạm phát ở các nước khác nhau ,xãy ra ở những thời kì khác nhau là do những nguyên nhân khác nhau ..Tuy nhiên không vì thế mà lạm phát không có những nguyên nhân cụ thể ,..bằng việc tổng hợp ở nhiều nước trên thế giới và qua nhiều thời kì ,giai đoạn phát triển khác nhau của các nền kinh tế thì theo các nhà kinh tế học hiện đại nguyên nhân của lạm phát được xuất hi
 

Kiến thức bôn ba

Các chủ đề có liên quan khác

Top