b0ykutepr0
New Member
Download Đề án Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động Việt Nam
Mặc dù chất lượng nhân lực dưới góc độ trình độ văn hoá này càng được nâng lên, kể cả khu vực nông thôn và thành thị. Song tỷ lệ lao động giản đơn còn quá cao, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn rất hạn chế và chuyển biến chậm: 84,48% lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật (năm 2000), chỉ giảm 1,65% so với năm 1999.Theo số liệu điều tra năm 1995 cả nước có khoảng 4,7 triệu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, chiếm 11% lực lượng lao động.Thành phố Hà Nội, nơi lao động có chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ cao nhất cũng chỉ đạt 26,5%. Trong khi đó các nước trong khu vực, tỷ lệ tương ứng là 45 – 50%. Tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” đã nảy sinh ra một cơ cấu lao động bất hợp lý. Theo kinh nghiệm của các nước thành công trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, cơ cấu lao động kỹ thuật phổ biến là 1 đại học, cao đẳng - 4 trung học chuyên nghiệp - 10 công nhân kỹ thuật thì ở nước ta là: năm 1989: 1 - 1,8 – 2,2; năm 1998 - 1999: 1 - 1,3 - 2. Như cả ở thành thị và ở nông thôn, nhưng mức độ tăng và tăng thêm ở thành thị đều vượt xa nông thôn, đặc biệt là số lao động tốt nghiệp phổ thông trung học. ở thành thị số lao động tốt nghiệp phổ thông trung học tăng thêm là 223256 người với tốc độ tăng thêm là 10,31%, trong khi ở nông thôn các chỉ số này là 76231 người với 2,86%.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
II.1.3.3. Công tác đào tạo giáo dục .
Công tác đào tạo giáo dục ở các cơ sở giáo dục đào tạo cũng còn nhiều tồn tại. Trước hết là sự mất cân đối đào tạo (nguyên nhân của sự mất cân đối trong tỷ lệ giữa các loại lao động kỹ thuật hiện nay). Trong những năm qua, số trường đại học (cả công lập và dân lập) đã gia tăng rất nhiều, trong khi các trường đào tạo và dạy nghề càng ít dần: sau 10 năm trong cả nước số trường dạy nghề đã giảm từ 360 xuống còn 174 trường (chủ yếu là giao thông vận tải, in, cơ khí xây dựng hóa chất 244 trường trung cấp chuyên nghiệp và hơn 500 trung tâm dạy nghề ( may mặc , sửa chữa xe máy, ti vi, vi tính , nghiệp vụ văn phòng...)
Với hệ thống các trường và cơ sở dạy nghề như trên, ở đây chưa đề cập tới việc phải tăng thêm số trường lớp hay cơ sở dạy nghề mà cần xem xét lại việc dạy nghề đã gắn với thực trạng đòi hỏi nền kinh tế hay chưa . Trước hết ở khu vực đô thị và khu công nghiệp: có thể thấy rất rõ là khả năng đáp ứng của lực lượng lao động trẻ cho nhu cầu của các khu công nghiệp tập trung còn rất hạn chế . Ví dụ như khu công nghiệp nhà bè, Thủ đức hay Tân thuận (thành phố Hồ chí Minh) , số lao động địa phương mới chỉ đáp ứng được 2/3 , só còn lại phải tuyển nơi khác . hay đa số lao động kỹ thuật đang làm việc ở khu công nghiệp Nội bài, Sài Đồng ( Hà nội) là từ nơi khác đến, trong khi lao động địa phương lại dư thừa do không cótrình độ văn hóa ( tối thiểu là học hết cấp III), chưa được đào tạo nghề và công nghệ tiên tiến để có thể đáp ứng được về lao động kỹ thuật.
Mặt khác, cũng cần có chính sách cụ thể mang tính khuyến khích đối với số lao động trẻ có trình độ tay nghề cao trở về quê nhà hay các vùng nông thôn tham gia lao động sản xuất trong các ngành kinh tế địa phương, góp phần giảm bớt sự tập trung ở các đô thị lớn hiện nay. Thực tế có hàng chục ngàn sinh viên sau khi ra trường không về quê làm việc, như ở Tiền giang từ 1994-1997 có tới 6.070 sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng năm 1995 chỉ có 35 người , năm 1996 chỉ có 12 người về tỉnh công tác số còn lại ở lại thành phố Hồ chí Minh tìm việc làm. Tương tự, ở Bến tre có trên 2.784 sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng chỉ có vài chục người trở về quê, hay ở Bình định từ 1994-1996 cũng chỉ có vài chục về quê làm việc trong tổng số hơn 6000 tốt nghiệp đại học. ở Hà nội nơi tập trung nhiều trường đại học, hàng năm cũng có tới hàng chục nghìn sinh viên tốt nghiệp ở lại tìm việc...
Một số vấn đề khác nữa là việc đào tạo nghề ở nước ta hiện nay còn manh mún. tản mạn, nhưng chưa theo một quy trình mang tính chiến lược lâu dài trong việc tạo lập một đội ngũ lao động kỹ thuật và công nghệ để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế. Mặc dù việc dạy nghề ở các Bộ, ngành vẫn đang tiến hành nhưng khi ra trường vẫn có sự mất cân đối giữa nhu cầu và việc làm. Về khía cạnh tự tạo việc làm một số cơ sở dạy nghề còn đáp ứng được , nhưng khi nhu cầu đòi hỏi có kỹ thuật cao hơn phù hợp với dây chuyền công nghệ hiện đại thì lại hoàn tòan không thỏa mãn hay phải đào tạo lại. Chính việc đào tạo như vậy vừa gây tốn kém cho người học, vừa tốn khoản thời gian của việc dạy nghề mà hiệu quả chưa cao và không thiết thực.
ở khu vực nông thôn: Những đòi hỏi của CNH-HĐH nông thôn cũng đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật và công nghệ. Hiện nay công nghệ và tiểu thủ công nghiệp nông thôn đang có xu hướng phát triển, tuy nhiên quy mô và thiết bị sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm còn nhiều mặt hạn chế , lựcu lượng lao đông , kỹ thuật và công nghệ nông thôn rất cần đào tạo lại vì tổng số 31,8 triệu lao động ở khu vực này hiện có tới 29,4 triệu chưa qua đào tạo. Đa số thợ trong các cơ sở sản xuất là do kèm cặp, tự học và tích lũy kinh nghiệm. Nếu đặt vấn đề là tới đây đổi mới công nghệ quy mô sản xuất hay cải tiến các quy trình công nghệ quy mô sản xuất hay cải tiến các quy trình công nghệ và kỹ thuật tiên tiến hơn hiện đại hơn thì số lao động cũ và mới sẽ đào tạo ở đâu học nghề như thế nào và chương trình dạy nghề cho lao động trẻ nông thôn ra sao? Đây có thể xem là một vấn đề bức xúc trong chương trình dạy nghề cho thanh niên nông thôn trong thời gian tới mà không thể không đề cập. Trong cơ chế thị trường, việc đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật nếu chỉ tập trung vào khu vực kinh tế nhà nước như trước đây thì không thể bảo đảm được do hạn chế kinh phí. Từ thực tế đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật trẻ hiện nay, ta thấy nổi lên một số tình hình sau đây:
Một là, hầu hết số thanh niên có khả năng ( cả về kinh tế lẫn học lực ) đều muốn vào đại học và tiếp tục học cao hơn. Tâm lý chung là không muốn học trung học kỹ thuật. Hậu quả như đã nói là nhiều nơi, nhiều lúc cán bộ có trình độ đại học lại nhiều hơn cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật bậc cao .
Hai là, sự phân biệt giữa hệ thống đào tạo trung cấp và công nhân kỹ thuật còn chưa rõ ràng. Sự không phân biệt đó, hiện ở mức lương gần như tương đồng (thậm chí cán bộ kỹ thuật trung cấp còn thấp hơn công nhân) , ngoài ra công việc đôi khi lại rất giống nhau (trừ một số ngành y dược...) từ đó dẫn đến tâm lý đối với học sinh trẻ là học công nhân kỹ thuật bậc cao hơn là đi trung cấp, vì thời gian đào tạo gần như nhau, công việc đôi khi lại tốt hơn cho bản thân sau khi ra trường và hành nghề.
Ba là, hệ thống quản lý nâng bậc kỹ thuật và đào tạo lại công nhân còn chậm đổi mới và không linh hoạt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường. Vì sự đòi hỏi ở người công nhân hiện đại không chỉ ở tay nghề mà còn ở thể lưc, vì điều đò có liên quan đến chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm .
Bốn là, trong đội ngũ công nhân kỹ thuật và công nghệ của ta hiệnu nay còn có nhiều người mù chữ và chưa có bằng cấp. Thực tế , ở tất cả các nước tiên tiến, mọi công việc dù đơn giản nhất vẫn cần qua đào tạo, chỉ có như vậy mới nâng cao được chất lượng sản phẩm, đồng thời làm tăng chức năng động của đội ngũ lao động, giúp cho họ có cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp.
Năm là, đội ngũ công nhân kỹ thuật và công nghệ của ta, tính đơn nghề còn phổ biến trong khi thực tế muốn có việc làm thường xuyên cần giỏi một nghề và biết nhiều nghề. Điều này có được khắc phục hay không hoàn toàn phù thuộc vào trình độ văn hóa và kỹ năng đào tạo đội ngũ lao động này như thế nào trong thời gian tới .
Điều thách thức lớn hơn còn là điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo, Hiện trạng cả hệ thống dạy nghề, cũng như thương trường , trang bị cơ sở vật chất kỹ tyhuật, đội ngũ giáo viên, giáo trình giáo án ... dều rất thiếu thôn lạc hậu . Công tác đào tạo còn nhiều vấn đề :
Một là, do tâm lý “sính” đại học của dân chúng (bắt nguồn từ tư tưởng l...
Download Đề án Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động Việt Nam miễn phí
Mặc dù chất lượng nhân lực dưới góc độ trình độ văn hoá này càng được nâng lên, kể cả khu vực nông thôn và thành thị. Song tỷ lệ lao động giản đơn còn quá cao, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn rất hạn chế và chuyển biến chậm: 84,48% lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật (năm 2000), chỉ giảm 1,65% so với năm 1999.Theo số liệu điều tra năm 1995 cả nước có khoảng 4,7 triệu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, chiếm 11% lực lượng lao động.Thành phố Hà Nội, nơi lao động có chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ cao nhất cũng chỉ đạt 26,5%. Trong khi đó các nước trong khu vực, tỷ lệ tương ứng là 45 – 50%. Tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” đã nảy sinh ra một cơ cấu lao động bất hợp lý. Theo kinh nghiệm của các nước thành công trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, cơ cấu lao động kỹ thuật phổ biến là 1 đại học, cao đẳng - 4 trung học chuyên nghiệp - 10 công nhân kỹ thuật thì ở nước ta là: năm 1989: 1 - 1,8 – 2,2; năm 1998 - 1999: 1 - 1,3 - 2. Như cả ở thành thị và ở nông thôn, nhưng mức độ tăng và tăng thêm ở thành thị đều vượt xa nông thôn, đặc biệt là số lao động tốt nghiệp phổ thông trung học. ở thành thị số lao động tốt nghiệp phổ thông trung học tăng thêm là 223256 người với tốc độ tăng thêm là 10,31%, trong khi ở nông thôn các chỉ số này là 76231 người với 2,86%.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
am gia đào tạo.II.1.3.3. Công tác đào tạo giáo dục .
Công tác đào tạo giáo dục ở các cơ sở giáo dục đào tạo cũng còn nhiều tồn tại. Trước hết là sự mất cân đối đào tạo (nguyên nhân của sự mất cân đối trong tỷ lệ giữa các loại lao động kỹ thuật hiện nay). Trong những năm qua, số trường đại học (cả công lập và dân lập) đã gia tăng rất nhiều, trong khi các trường đào tạo và dạy nghề càng ít dần: sau 10 năm trong cả nước số trường dạy nghề đã giảm từ 360 xuống còn 174 trường (chủ yếu là giao thông vận tải, in, cơ khí xây dựng hóa chất 244 trường trung cấp chuyên nghiệp và hơn 500 trung tâm dạy nghề ( may mặc , sửa chữa xe máy, ti vi, vi tính , nghiệp vụ văn phòng...)
Với hệ thống các trường và cơ sở dạy nghề như trên, ở đây chưa đề cập tới việc phải tăng thêm số trường lớp hay cơ sở dạy nghề mà cần xem xét lại việc dạy nghề đã gắn với thực trạng đòi hỏi nền kinh tế hay chưa . Trước hết ở khu vực đô thị và khu công nghiệp: có thể thấy rất rõ là khả năng đáp ứng của lực lượng lao động trẻ cho nhu cầu của các khu công nghiệp tập trung còn rất hạn chế . Ví dụ như khu công nghiệp nhà bè, Thủ đức hay Tân thuận (thành phố Hồ chí Minh) , số lao động địa phương mới chỉ đáp ứng được 2/3 , só còn lại phải tuyển nơi khác . hay đa số lao động kỹ thuật đang làm việc ở khu công nghiệp Nội bài, Sài Đồng ( Hà nội) là từ nơi khác đến, trong khi lao động địa phương lại dư thừa do không cótrình độ văn hóa ( tối thiểu là học hết cấp III), chưa được đào tạo nghề và công nghệ tiên tiến để có thể đáp ứng được về lao động kỹ thuật.
Mặt khác, cũng cần có chính sách cụ thể mang tính khuyến khích đối với số lao động trẻ có trình độ tay nghề cao trở về quê nhà hay các vùng nông thôn tham gia lao động sản xuất trong các ngành kinh tế địa phương, góp phần giảm bớt sự tập trung ở các đô thị lớn hiện nay. Thực tế có hàng chục ngàn sinh viên sau khi ra trường không về quê làm việc, như ở Tiền giang từ 1994-1997 có tới 6.070 sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng năm 1995 chỉ có 35 người , năm 1996 chỉ có 12 người về tỉnh công tác số còn lại ở lại thành phố Hồ chí Minh tìm việc làm. Tương tự, ở Bến tre có trên 2.784 sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng chỉ có vài chục người trở về quê, hay ở Bình định từ 1994-1996 cũng chỉ có vài chục về quê làm việc trong tổng số hơn 6000 tốt nghiệp đại học. ở Hà nội nơi tập trung nhiều trường đại học, hàng năm cũng có tới hàng chục nghìn sinh viên tốt nghiệp ở lại tìm việc...
Một số vấn đề khác nữa là việc đào tạo nghề ở nước ta hiện nay còn manh mún. tản mạn, nhưng chưa theo một quy trình mang tính chiến lược lâu dài trong việc tạo lập một đội ngũ lao động kỹ thuật và công nghệ để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế. Mặc dù việc dạy nghề ở các Bộ, ngành vẫn đang tiến hành nhưng khi ra trường vẫn có sự mất cân đối giữa nhu cầu và việc làm. Về khía cạnh tự tạo việc làm một số cơ sở dạy nghề còn đáp ứng được , nhưng khi nhu cầu đòi hỏi có kỹ thuật cao hơn phù hợp với dây chuyền công nghệ hiện đại thì lại hoàn tòan không thỏa mãn hay phải đào tạo lại. Chính việc đào tạo như vậy vừa gây tốn kém cho người học, vừa tốn khoản thời gian của việc dạy nghề mà hiệu quả chưa cao và không thiết thực.
ở khu vực nông thôn: Những đòi hỏi của CNH-HĐH nông thôn cũng đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật và công nghệ. Hiện nay công nghệ và tiểu thủ công nghiệp nông thôn đang có xu hướng phát triển, tuy nhiên quy mô và thiết bị sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm còn nhiều mặt hạn chế , lựcu lượng lao đông , kỹ thuật và công nghệ nông thôn rất cần đào tạo lại vì tổng số 31,8 triệu lao động ở khu vực này hiện có tới 29,4 triệu chưa qua đào tạo. Đa số thợ trong các cơ sở sản xuất là do kèm cặp, tự học và tích lũy kinh nghiệm. Nếu đặt vấn đề là tới đây đổi mới công nghệ quy mô sản xuất hay cải tiến các quy trình công nghệ quy mô sản xuất hay cải tiến các quy trình công nghệ và kỹ thuật tiên tiến hơn hiện đại hơn thì số lao động cũ và mới sẽ đào tạo ở đâu học nghề như thế nào và chương trình dạy nghề cho lao động trẻ nông thôn ra sao? Đây có thể xem là một vấn đề bức xúc trong chương trình dạy nghề cho thanh niên nông thôn trong thời gian tới mà không thể không đề cập. Trong cơ chế thị trường, việc đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật nếu chỉ tập trung vào khu vực kinh tế nhà nước như trước đây thì không thể bảo đảm được do hạn chế kinh phí. Từ thực tế đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật trẻ hiện nay, ta thấy nổi lên một số tình hình sau đây:
Một là, hầu hết số thanh niên có khả năng ( cả về kinh tế lẫn học lực ) đều muốn vào đại học và tiếp tục học cao hơn. Tâm lý chung là không muốn học trung học kỹ thuật. Hậu quả như đã nói là nhiều nơi, nhiều lúc cán bộ có trình độ đại học lại nhiều hơn cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật bậc cao .
Hai là, sự phân biệt giữa hệ thống đào tạo trung cấp và công nhân kỹ thuật còn chưa rõ ràng. Sự không phân biệt đó, hiện ở mức lương gần như tương đồng (thậm chí cán bộ kỹ thuật trung cấp còn thấp hơn công nhân) , ngoài ra công việc đôi khi lại rất giống nhau (trừ một số ngành y dược...) từ đó dẫn đến tâm lý đối với học sinh trẻ là học công nhân kỹ thuật bậc cao hơn là đi trung cấp, vì thời gian đào tạo gần như nhau, công việc đôi khi lại tốt hơn cho bản thân sau khi ra trường và hành nghề.
Ba là, hệ thống quản lý nâng bậc kỹ thuật và đào tạo lại công nhân còn chậm đổi mới và không linh hoạt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường. Vì sự đòi hỏi ở người công nhân hiện đại không chỉ ở tay nghề mà còn ở thể lưc, vì điều đò có liên quan đến chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm .
Bốn là, trong đội ngũ công nhân kỹ thuật và công nghệ của ta hiệnu nay còn có nhiều người mù chữ và chưa có bằng cấp. Thực tế , ở tất cả các nước tiên tiến, mọi công việc dù đơn giản nhất vẫn cần qua đào tạo, chỉ có như vậy mới nâng cao được chất lượng sản phẩm, đồng thời làm tăng chức năng động của đội ngũ lao động, giúp cho họ có cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp.
Năm là, đội ngũ công nhân kỹ thuật và công nghệ của ta, tính đơn nghề còn phổ biến trong khi thực tế muốn có việc làm thường xuyên cần giỏi một nghề và biết nhiều nghề. Điều này có được khắc phục hay không hoàn toàn phù thuộc vào trình độ văn hóa và kỹ năng đào tạo đội ngũ lao động này như thế nào trong thời gian tới .
Điều thách thức lớn hơn còn là điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo, Hiện trạng cả hệ thống dạy nghề, cũng như thương trường , trang bị cơ sở vật chất kỹ tyhuật, đội ngũ giáo viên, giáo trình giáo án ... dều rất thiếu thôn lạc hậu . Công tác đào tạo còn nhiều vấn đề :
Một là, do tâm lý “sính” đại học của dân chúng (bắt nguồn từ tư tưởng l...