LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI
BÀI LÀM
1) Khái niệm quan hệ pháp luật hành chính
Quan hệ pháp luật hành chính được xác định là một dạng cụ thể của quan hệ pháp luật, là kết quả của sự tác động của quy phạm pháp luật hành chính theo phương pháp mệnh lệnh – đơn phương tới các quan hệ quản lí nhà nước.
Để hiểu rõ hơn về quan hệ pháp luật hành chính, chúng ta cần tìm hiểu thêm về các đặc điểm của nó.
2) Đặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính
+ Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh theo yêu cầu hợp pháp của chủ thể quản lí hay đối tượng quản lí hành chính nhà nước.
Chủ thể quản lí hành chính nhà nước có thể là: cơ quan hành chính nhà nước (chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân các cấp); thủ trưởng các cơ quan nhà nước trong mối quan hệ với nhân viên thuộc quyền; các cán bộ công chức được nhà nước trao quyền, các cá nhân nước ngoài được trao quyền quản lí hành chính; các tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền như ban thanh tra nhân dân, công đoàn…
Đối tượng của quản lí hành chính nhà nước là các cá nhân, tổ chức, cơ quan tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính và được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật hành chính.
Trên thực tế, ta thấy rằng các quan hệ quản lí hành chính nhà nước không chỉ nhằm mục đích bảo đảm lợi ích của nhà nước mà còn phải bảo đảm quyền lợi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các đối tượng này có quyền đề nghị cơ quan nhà nước xem xét, giải quyết yêu cầu chính đáng của mình, hay các chủ thể quản lí có thể ra các quyết định hành chính nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước cũng như của xã hội. Trong cả hai trường hợp trên đều làm phát sinh quan hệ pháp luật hành chính.
Ví dụ khi một đôi trai gái muốn trở thành vợ chồng, họ đến ủy ban nhân dân xã để đăng kí kết hôn, như vậy việc này đã làm phát sinh quan hệ pháp luật hành chính theo yêu cầu chính đáng của đối tượng quản lí hành chính nhà nước (trường hợp này là cá nhân).
+ Nội dung của quan hệ pháp luật hành chính là các quyền và nghĩa vụ pháp lí hành chính của các bên tham gia quan hệ đó.
Các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính có thể là cơ quan nhà nước, tổ chức hay cá nhân; có thể nhân danh nhà nước, vì lợi ích của nhà nước hay nhân danh chính mình nhưng họ đều thực hiện các quyền và nghĩa vụ do quy phạm pháp luật hành chính quy định. Việc quy định và thực hiện các quyền và nghĩa vụ này là cần thiết đối với việc xác lập và duy trì trật tự quản lí hành chính nhà nước.
Ví dụ: Pháp luật trao quyền cho cảnh sát giao thông có quyền xử phạt những hành vi vi phạm luật giao thồng, tuy nhiên cảnh sát giao thông chỉ được thực hiện quyền này khi đang thi hành nhiệm vụ, còn những lúc khác không được thực hiện quyền này.
+ Một bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính phải được sử dụng quyền lực nhà nước.
Luật hành chính với phương pháp điều chỉnh đặc thù là phương pháp mệnh lệnh đơn phương, do vậy, để áp đặt được ý chí của mình lên các đối tượng quản lí, các chủ thể quản lí hành chính nhà nước phải được trao một quyền lực đặc biệt, đó là quyền lực nhà nước. Với quyền lực này, các chủ thể quản lí hành chính có quyền yêu cầu các đối tượng quản lí phải thi hành những quyết định, mệnh lệnh mà mình đưa ra. Nếu không được trao quyền lực đặc biệt này, các mệnh lệnh đưa ra sẽ không được thực thi triệt để, do vậy sẽ tạo ra tình trạng hỗn loạn trong xã hội, gây mất ổn định về chính trị…
Như vậy, trong quan hệ pháp luật hành chính, một bên chủ thể được trao quyền lực nhà nước được xác định là chủ thể đặc biệt. Đối tượng quản lí là bên chủ thể không được sử dụng quyền lực nhà nước và có nghĩa vụ phục tùng việc sử dụng quyền lực nhà nước của chủ thể quản lí,các đối tượng này được xác định là chủ thể thường.
Ví dụ: khi một người không đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe môtô, họ đã vi phạm luật giao thông đường bộ. Khi bị cảnh sát giao thông xử phạt hành chính, họ có nghĩa vụ buộc phải tuân theo. Vì trong trường hợp này, cảnh sát giao thông được sử dụng quyền lực nhà nước, buộc các chủ thể khác phải tuân theo.
+ Trong một quan hệ pháp luật hành chính thì quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ “quyền lực – phục tùng”, quan hệ bất bình đẳng về ý chí giữa các bên tham gia. Chủ thể đặc biệt tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính trên cơ sở quyền lực nhà nước và chủ thể thường có nghĩa vụ chấp hành việc sử dụng quyền lực nhà nước của chủ thể đặc biệt. Tuy nhiên, không có nghĩa là trong quan hệ pháp luật hành chính, chủ thể đặc biệt chỉ có quyền và chủ thể thường chỉ có nghĩa vụ. Trong một số trường hợp, các chủ thể thường được thực hiện quyền của mình và điều này làm phát sinh nghĩa vụ tiếp nhận, giải quyết của các chủ thể đặc biệt. Đồng thời, trong các trường hợp khác, khi các chủ thể đặc biệt thực hiện quyền thì chủ thường buộc phải tuân theo.
Việc thực hiện thẩm quyền của chủ thể đặc biệt vừa là quyền vừa là trách nhiệm của chủ thể này. Bên cạnh đó, chủ thể thường tuy có nghĩa vụ chấp hành các mệnh lệnh của chủ thể đặc biệt song cũng có những quyền nhất định xuất phát từ yêu cầu bảo đảm tính khách quan, đúng pháp luật của các hành vi quản lí hành chính nhà nước hay đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Ví dụ: công dân có quyền khiếu nại về các quyết định hành chính của các tổ chức nhà nước, cá nhân có thẩm quyền. Và điều này làm phát sinh nghĩa vụ phải tiếp nhận, giải quyết vụ việc của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan này có nghĩa vụ phải giải quyết việc khiếu nại này nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân.
+ Phần lớn các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính được giải quyết theo thủ tục hành chính.
Điều này là hoàn toàn dễ hiểu, bởi tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực nào sẽ được giải quyết theo thủ tục mà lĩnh vực đó quy định. Ví dụ các tranh chấp phát sinh trong quan hệ dân sự sẽ được Bộ luật dân sự điều chỉnh và giải quyết theo trình tự của bộ luật tố tụng dân sự. Trên thực tế, phần lớn các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính sẽ được giải quyết theo thủ tục hành chính. Tuy nhiên, do tính chất và yêu cầu giải quyết một số tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính mà việc giải quyết chúng có thể được thực hiện bằng cách kết hợp với thủ tục hành chính với thủ tục tố tụng hành chính.
Ví dụ: khi công dân tiến hành khiếu nại hành chính lần đầu nhưng không được giải quyết thỏa đáng thì có quyền kiện ra tòa và tòa án có quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính theo thủ tục tố tụng hành chính.
+ Bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính vi phạm yêu cầu của pháp luật hành chính phải chịu trách nhiệm pháp lí trước nhà nước.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
BÀI LÀM
1) Khái niệm quan hệ pháp luật hành chính
Quan hệ pháp luật hành chính được xác định là một dạng cụ thể của quan hệ pháp luật, là kết quả của sự tác động của quy phạm pháp luật hành chính theo phương pháp mệnh lệnh – đơn phương tới các quan hệ quản lí nhà nước.
Để hiểu rõ hơn về quan hệ pháp luật hành chính, chúng ta cần tìm hiểu thêm về các đặc điểm của nó.
2) Đặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính
+ Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh theo yêu cầu hợp pháp của chủ thể quản lí hay đối tượng quản lí hành chính nhà nước.
Chủ thể quản lí hành chính nhà nước có thể là: cơ quan hành chính nhà nước (chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân các cấp); thủ trưởng các cơ quan nhà nước trong mối quan hệ với nhân viên thuộc quyền; các cán bộ công chức được nhà nước trao quyền, các cá nhân nước ngoài được trao quyền quản lí hành chính; các tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền như ban thanh tra nhân dân, công đoàn…
Đối tượng của quản lí hành chính nhà nước là các cá nhân, tổ chức, cơ quan tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính và được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật hành chính.
Trên thực tế, ta thấy rằng các quan hệ quản lí hành chính nhà nước không chỉ nhằm mục đích bảo đảm lợi ích của nhà nước mà còn phải bảo đảm quyền lợi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các đối tượng này có quyền đề nghị cơ quan nhà nước xem xét, giải quyết yêu cầu chính đáng của mình, hay các chủ thể quản lí có thể ra các quyết định hành chính nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước cũng như của xã hội. Trong cả hai trường hợp trên đều làm phát sinh quan hệ pháp luật hành chính.
Ví dụ khi một đôi trai gái muốn trở thành vợ chồng, họ đến ủy ban nhân dân xã để đăng kí kết hôn, như vậy việc này đã làm phát sinh quan hệ pháp luật hành chính theo yêu cầu chính đáng của đối tượng quản lí hành chính nhà nước (trường hợp này là cá nhân).
+ Nội dung của quan hệ pháp luật hành chính là các quyền và nghĩa vụ pháp lí hành chính của các bên tham gia quan hệ đó.
Các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính có thể là cơ quan nhà nước, tổ chức hay cá nhân; có thể nhân danh nhà nước, vì lợi ích của nhà nước hay nhân danh chính mình nhưng họ đều thực hiện các quyền và nghĩa vụ do quy phạm pháp luật hành chính quy định. Việc quy định và thực hiện các quyền và nghĩa vụ này là cần thiết đối với việc xác lập và duy trì trật tự quản lí hành chính nhà nước.
Ví dụ: Pháp luật trao quyền cho cảnh sát giao thông có quyền xử phạt những hành vi vi phạm luật giao thồng, tuy nhiên cảnh sát giao thông chỉ được thực hiện quyền này khi đang thi hành nhiệm vụ, còn những lúc khác không được thực hiện quyền này.
+ Một bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính phải được sử dụng quyền lực nhà nước.
Luật hành chính với phương pháp điều chỉnh đặc thù là phương pháp mệnh lệnh đơn phương, do vậy, để áp đặt được ý chí của mình lên các đối tượng quản lí, các chủ thể quản lí hành chính nhà nước phải được trao một quyền lực đặc biệt, đó là quyền lực nhà nước. Với quyền lực này, các chủ thể quản lí hành chính có quyền yêu cầu các đối tượng quản lí phải thi hành những quyết định, mệnh lệnh mà mình đưa ra. Nếu không được trao quyền lực đặc biệt này, các mệnh lệnh đưa ra sẽ không được thực thi triệt để, do vậy sẽ tạo ra tình trạng hỗn loạn trong xã hội, gây mất ổn định về chính trị…
Như vậy, trong quan hệ pháp luật hành chính, một bên chủ thể được trao quyền lực nhà nước được xác định là chủ thể đặc biệt. Đối tượng quản lí là bên chủ thể không được sử dụng quyền lực nhà nước và có nghĩa vụ phục tùng việc sử dụng quyền lực nhà nước của chủ thể quản lí,các đối tượng này được xác định là chủ thể thường.
Ví dụ: khi một người không đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe môtô, họ đã vi phạm luật giao thông đường bộ. Khi bị cảnh sát giao thông xử phạt hành chính, họ có nghĩa vụ buộc phải tuân theo. Vì trong trường hợp này, cảnh sát giao thông được sử dụng quyền lực nhà nước, buộc các chủ thể khác phải tuân theo.
+ Trong một quan hệ pháp luật hành chính thì quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ “quyền lực – phục tùng”, quan hệ bất bình đẳng về ý chí giữa các bên tham gia. Chủ thể đặc biệt tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính trên cơ sở quyền lực nhà nước và chủ thể thường có nghĩa vụ chấp hành việc sử dụng quyền lực nhà nước của chủ thể đặc biệt. Tuy nhiên, không có nghĩa là trong quan hệ pháp luật hành chính, chủ thể đặc biệt chỉ có quyền và chủ thể thường chỉ có nghĩa vụ. Trong một số trường hợp, các chủ thể thường được thực hiện quyền của mình và điều này làm phát sinh nghĩa vụ tiếp nhận, giải quyết của các chủ thể đặc biệt. Đồng thời, trong các trường hợp khác, khi các chủ thể đặc biệt thực hiện quyền thì chủ thường buộc phải tuân theo.
Việc thực hiện thẩm quyền của chủ thể đặc biệt vừa là quyền vừa là trách nhiệm của chủ thể này. Bên cạnh đó, chủ thể thường tuy có nghĩa vụ chấp hành các mệnh lệnh của chủ thể đặc biệt song cũng có những quyền nhất định xuất phát từ yêu cầu bảo đảm tính khách quan, đúng pháp luật của các hành vi quản lí hành chính nhà nước hay đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Ví dụ: công dân có quyền khiếu nại về các quyết định hành chính của các tổ chức nhà nước, cá nhân có thẩm quyền. Và điều này làm phát sinh nghĩa vụ phải tiếp nhận, giải quyết vụ việc của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan này có nghĩa vụ phải giải quyết việc khiếu nại này nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân.
+ Phần lớn các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính được giải quyết theo thủ tục hành chính.
Điều này là hoàn toàn dễ hiểu, bởi tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực nào sẽ được giải quyết theo thủ tục mà lĩnh vực đó quy định. Ví dụ các tranh chấp phát sinh trong quan hệ dân sự sẽ được Bộ luật dân sự điều chỉnh và giải quyết theo trình tự của bộ luật tố tụng dân sự. Trên thực tế, phần lớn các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính sẽ được giải quyết theo thủ tục hành chính. Tuy nhiên, do tính chất và yêu cầu giải quyết một số tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính mà việc giải quyết chúng có thể được thực hiện bằng cách kết hợp với thủ tục hành chính với thủ tục tố tụng hành chính.
Ví dụ: khi công dân tiến hành khiếu nại hành chính lần đầu nhưng không được giải quyết thỏa đáng thì có quyền kiện ra tòa và tòa án có quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính theo thủ tục tố tụng hành chính.
+ Bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính vi phạm yêu cầu của pháp luật hành chính phải chịu trách nhiệm pháp lí trước nhà nước.

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: phân tích khái niệm pháp luật, 9. Phân tích khái niệm quan hệ pháp luật hành chính., khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính. ví dụ, hãy phân tích đặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính và lấy ví dụ cụ thể, trong quan hệ pháp luật hành chính, quyền của bên này đồng thời là nghĩa vụ pháp lý tương ứng của bên kia, tiểu luận quan hệ pháp luật hành chính, đặc điểm chung của quan hệ pháp luật hành chính
Last edited by a moderator: