Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Triết học phật giáo
I. Thế giới quan Phật giáo.
Thế giới quan Phật giáo chịu ảnh hưởng của hai luận điểm, thể hiện qua 4 luận thuyết cơ bản: thuyết vô thường, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết nhân duyên khởi.
1. Thuyết vô thường.
Vô thường là không thường còn, là chuyển biến thay đổi. Luật vô thường chi phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi không có gì là thường trụ, bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm tưởng sự vật là yên tĩnh, là bất động nhưng thật ra là nó luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến không ngừng. Sự chuyển biến ấy diễn ra dưới hai hình thức.
a) Một là Sátna( Kshana ) vô thường: là một sự chuyển biến rất nhanh, trong một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một niệm, một sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. Phật dùng danh từ Satna để chỉ một khoảng thời gian hết sức ngắn.
b) Hai là: Nhất kỳ vô thường. Là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự vô thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi, thường là ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thường thứ hai. Nhất kỳ vô thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ, chuyển sang một trạng thái mới. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo luật: Thành - Trụ - Hoại - Không.
Vạn vật được cấu thành, trụ một thời gian, sau đó chuyển đến diệt, thành, hoại, không.
Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt.
Một hành tinh, một ngôi sao có thời kỳ vũ trụ kéo dài hàng triệu năm, một cây có thể trụ hàng ngàn năm, một sinh vật có thể trụ được hàng trăm năm, bông hoa phù dung chỉ trụ trong một ngày - sớm nở, chiều tàn. Xung quanh ta sự vật chuyển biến không ngừng. Theo luật vô thường, không phải khi sinh ra mới gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt mà từng phút, từng dây, từng Satna, vạn vật sống để mà chết và chết để mà sống. Sống, chết tiếp diễn liên tục với nhau bất tận như một vòng tròn.
Không những thân ta chuyển biến không ngừng mà tâm ta cũng không ngừng chuyển biến. Như dòng nước thác, như bọt bể, trong Satna này, trong tâm ta nổi lên một ý niệm thiện, chỉ trong Satna sau, trong tâm ta đã có thể khơi lên một ý niệm ác. Tâm ta luôn luôn chuyển biến như thế Phật gọi là tâm phan duyên. Trong kinh Thủ năng Nghiệm quyển một Phật gọi cái tâm phan duyên ấy là cái tâm biết cái này, nghĩ cái khác, cái tâm vọng động do duyên với tiền trần mà có, theo cách trần mà luôn luôn thay đổi, chuyển biến mà không Satna nào ngừng.
Không những tâm, thân ta chuyển biến mà các hình thái xã hội theo thời gian cũng chuyển biến: Xã hội công xã nguyên thuỷ --> Xã hội chiếm hữu nô lệ --> Xã hội phong kiến --> Xã hội tư bản --> Xã hội XHCN. Đó là quy luật xã hội và cũng không phù hợp với thuyết vô thường của Đạo Phật.
Thuyết vô thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là cơ sở của lý luận cho cách sống, cho triết lý sống của những con người tu dưỡng theo giáo lý phật.
Trong thế gian có những người không biết lý vô thường của Phật, có những nhận thức sai lầm về sự vật là thường còn, là không thay đổi, không chuyển biến. Nhận thức sai lầm như thế phật giáo gọi là ảo giác hay huyễn giác. Vì nhận thức thân ta là thường còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự sống để hưởng thụ, để thoả mãn mọi dục vọng. Khi luật vô thường tác động đến bản thân thì sinh ra phiền não đau khổ.
Ngược lại, nếu thấu lý vô thường một cách nông cạn, cho chết là hết, đời người ngắn ngủi, phải mau mau tận hưởng những thú vui vật chất, phải sống gấp, sống vội. Cuộc sống như thế là sống trụy lạc, sa đọa trong vũng bùn của ngũ dục, sống phiền não đau khổ trước sự chuyển biến của sự vật, trước sự sinh- trụ, dị diệt, trước sự thành, trụ hoại không nó diễn ra hàng ngày.
2. Thuyết vô ngã.
Từ thuyết vô thường. Phật nói sang vô ngã. Vô ngã là không có cái ta. Thực ra làm gì cũng có cái ta trường tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi không ngừng, biến chuyển từng phút, từng giờ, từng Satna.
Một câu hỏi được đặt ra vậy cái ta ở giây phút nào là cái ta chân thực, cái ta bất biến ? Cái ta mà Phật nói trong thuyết vô ngã gồm có hai phần:
Cái ta sinh tức thân.
Cái ta tâm lý tức tâm.
Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu tố của bốn đại là: địa , thuỷ, hoả , phong.
* Địa đại là cái đặc cứng như tóc, răng, móng chân, móng tay, da , thịt, các cơ, xương, tủy, tim gan, thận,...
* Thủy đại là những chất lỏng như mật ở trong gan, máu, mồ hôi, bạch huyết, nước mắt,...
* Hoả đại là những rung động của cơ thể như hơi thở, chất hơi ở trong dạ dầy, ở ruột.
Những thứ đó không phải là ta, ta không phải là nhưng thứ đó, những thứ đó không thuộc về ta.
Cái mà ta gọi là cái ta sinh lý chỉ là một khoảng không gian giới hạn bởi sự kết hợp của da thịt, cũng như cái mà ta gọi là túp lều chỉ khoảng không gian giới hạn bởi gỗ, tranh, bùn để trát vách mà thôi.
Tứ đại ( địa, thuỷ, hoả, phong) nêu trên thoáng là của ngoại cảnh, thoáng là của ta. Vậy thực sự nó là của ai ? Vả lại khi bốn yếu tố này rời nhau trở về thể của nó thì không có gì ở lại để có thể gọi là cái ta được nữa. Cho nên cái mà ra gọi là cái ta sinh lý chỉ là một giả tưởng, một nhất hợp sinh lý mà thôi.
Còn cái ta tâm lý gồm : thụ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm này cùng với sắc ấm che lấp trí tuệ làm cho ta không nhận thấy được cái ta chân thực cái ta Phật tính, cái chân ngã của chúng ta. Cái chân lý gồm những nhận thức, cảm giác, suy tưởng, là sự kết hợp của thất tỉnh: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái , nỗ, dục.
Thuyết vô ngã làm cho người ta không còn ai tin là có một linh hồn vĩnh cửu, tồn tại kiếp này sang kiếp khác, đời này qua đời khác. Sự tin có một linh hồn dẫn dắt đến sự cúng tế linh hồn là hành động của sự mê tín.
Quan niệm có một linh hồn bất tử, một cái ta vĩnh cửu là nguồn gốc sinh ra những tình cảm, những tư tưởng ích kỷ, những tham dục vô bờ của những kẻ dựa vào sức mạnh phi nghĩa để làm lợi cho mình, tức là cho cái ta mà họ coi là thường còn, bất biến. Còn đối với những người bị hà hiếp, bị bóc lột thì sự mê tín có cái ta vĩnh cửu dẫn đến tư tưởng tiêu cực, chán đời phó mặc cho số mệnh, hy vọng làm lại cuộc đời ở kiếp sau.
Hai thuyết vô thường, vô ngã là hai thuyết cơ bản trong giáo lý Phật. Chấp ngã chấp có cái ta thường còn là nguồn gốc của vô minh mà vô minh là đầu mối của luân hồi sinh tử sinh ra đau khổ cho con người. Căn cứ trên hai thuyết vô thường và vô ngã Phật đã xây dựng cho đệ tử một cách sống, một triết lý sống lấy vị tha làm lý tưởng cao cả cho cuộc sống của mình, hay nói một cách khác một cuộc sống một người vì mọi người, mọi người vì một người.
3. Thuyết Lý nhân duyên sinh.
Với lý nhân duyên sinh Phật muốn nói tới một định lý. Theo định lý ấy sự vật vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành, sự vật, vạn pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên tan rã.
Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Như cây lúa thì hạt lúa là nhân, nước, ánh sáng mặt trời, công cày bừa gieo trồng là duyên. Nhân duyên đó hội họp sinh ra cây lúa. Tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà hành động. Nói nương nhau có nghĩa là sự vật tác động, kết hợp, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau mà thành. Đó là nhân duyên. Nói về thứ nhân duyên trong kinh Phật có câu:
Nhược sử hữu, tắc bỉ hữu.
Nhược sử sinh, tắc bỉ sinh.
Nhược thử vô, tắc bỉ vô.
Nhược thử diệt, tắc bỉ diệt.
Có nghĩa là:
Cái này có thì cái kia có.
Cái này sinh thì cái kia sinh.
Cái này không thì cái kia không.
Cái này diệt, thì cái kia diệt.
Tất cả các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau, không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối.
Sự vật chỉ “ có “ một cách giả tạo, một cách vô thường.
. Nhân duyên hội họp thì sự vật là “ có “.
. Nhân duyên tan dã thì sự vật là “ Không “.
Người thế gian không tu dưỡng tưởng lầm sự vật, vạn pháp là thực có, là vĩnh viễn nên bám giữ vào các pháp vào sự vật ( sinh mệnh, danh vọng, tiền tài...). Nhưng thực ra các pháp là vô thường, là chuyển biến và khi tan dã thì người thế gian thương tiếc, đau khổ.
Thế giới vũ trụ, vạn pháp đều cấu thành bởi hệ thống nhân duyên trùng trùng điệp điệp. Các pháp không có thực thể, chỉ vì nhân duyên hoà hợp mà có, một cáh giả hợp mà sinh ra. Bởi thế tìm kiếm đến cùng cũng không thấy vạn pháp có “ thủy “ và xét đến muôn đời cũng không thấy vạn pháp có “ chung “. Vạn pháp là vô thủy, cái nguyên nhân đầu tiên của các pháp hay cái chung cùng của sự vật.
Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân duyên hoà hợp, sự vật là hư giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Như vậy con người làm chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình.
Cuộc sống của con người có tươi đẹp hạnh phúc hay phiền não đau khổ là đều do nhân duyên mà con người tạo ra. Với nhận thức như vậy, con người tìm được một cách sống, một cách sống cho ra sống, sống vì hạnh phúc của mọi người, sống an lạc, tự tại, giải thoát.
4. Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả.
Thuyết nhân duyên quả báo gọi là thuyết nhân quả là một trong những thuyết cơ bản của giáo lý Phật. Phật chủ trương không bao giờ tự nhiên mà có, mà sinh ra và cũng cho rằng không một thần quyền nào hay một đấng thiêng liêng nào tạo ra sự vật. Sự vật sinh ra là có nhân nguyên nhân. Cái nguyên nhân một mình cũng không tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên thì mới tạo ra quả được.
Người ta nói rằng: Trồng đậu được đậu.
Trồng dưa được dưa.
Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân sinh ra nó. Quả có thể hơn nhân nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Nhân gặp đủ duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên lại có thể biến thành nhân rồi để sinh ra quả khác.
Trong những năm gần đây, dân tộc Việt Nam đã liên tiếp tiến hành hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thấm nhuần giáo lý Phật nói chung và luật giới sát nói riêng, Phật tử xuất gia ở 2 miền Nam - Bắc đã tham gia trực tiếp chiến đấu hay phục vụ chiến đấu chống giặc một cách anh dũng. Các đệ tử Phật đã nhận thức được đâu là chiến tranh xâm lược, đâu là chiến tranh vệ quốc và đã kiên quyết đứng về phía nhân dân. Đó chính là một việc thiện, một cuộc phóng sinh vĩ đại.
IV. Đạo Phật với vấn đề chính trị.
Kể từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống chính trị xã hội. Ngày nay, người ta nhấn mạnh vai trò chính trị của các nhà sư thời Lý, Trần, nhấn mạnh ý nghĩa chính trị xã hội trong một số hoạt động của phật tử hiện đại.
Dưới triều Lý, Trần, các nhà sư trở thành một tầng lớp phong kiến tăng lữ có thế lực trong xã hội. Nhiều nhà sư tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị và giữ những cương vị quan trọng trong triều đình. Như sư Vạn - Hạnh là người đã vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra triều Lý. Sư Đa - Bảo và Viên - Thông được tham dự, bàn bạc và quyết định các việc trong triều như cố vấn của nhà vua.
Ngày nay, các nhà sư giữ những chức vụ cao trong Giáo hội cũng tham gia vào hoạt động chính trị. Nhưng bên cạnh những công tác phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước thì cũng có một số phần tử đã lợi dụng chức vụ của mình để gây rối. Hay trường hợp của Lê Đình Nhàn ( tức Thích Huyền Quang ) thường xuyên gây phiền nhiễu với các nhà sư khác cùng tu trong chùa. Thêm vào đó, nhiều vụ tự tử của các nhà sư với những nguyên nhân ngoài đạo đã bị cách phe phái phản động đưa tin xấu, coi đó là những hành vi tử vì đạo. Và khi những người thay mặt pháp luật can thiệp thì chúng cho đó là hành vi bắt bố sư sãi, đàn áp Phật giáo.
Để trả lời những thông tin sai lầm đó, chính phủ Việt Nam đã khẳng định luôn luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân nhưng những kẻ lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị cũng sẽ bị xử phạt như bất kỳ một công dân Việt Nam nào khác. Bởi lẽ bất kỳ một sư sãi của tổ chức nào thì trước hết cũng là công dân của nhà nước Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo, những người theo đạo là một bộ phận khăngkhít của khối đại đoàn kết dân tộc đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, đối với Phật giáo, chính phủ Việt Nam là không có lý do gì để phân biệt đối xử Phật tử Việt Nam là những người yêu nước, luôn gắn bó với dân tộc qua mọi bước thăng trầm của lịch sử, luôn đứng về phía Tổ quốc đấu tranh chống ngoại xâm. Đạo Phật đối với Việt Nam không chỉ là một tôn giáo mà còn là một bộ phận của nền văn hoá dân tộc truyền thống.
V. Một số kiến nghị.
Đạo Phật là một đạo không chỉ để người ta học mà chủ yếu cho người ta hành. Thực ra, những cái mà ta học được trong kinh điển mới chỉ là một kiến thức lỏng lẻo có tính chất lý thuyết. Ta mới chỉ nghe thấy nói đến những thuyêt vô thường, vô ngã, sắc không... mà thôi. Còn tu hành là phải gắng sức thực nghiệm những chân lý đó. Hiểu đạo không phải chỉ là nghiệm đạo qua kinh điển mà phải trải qua học đạo, tu đạo, chứng đạo. Thời đại ngày nay là thời đại của phát triển, của khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Để phù hợp với sự phát triển đó, con người cần có tham vọng lớn, năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cảm sáng tạo. Nhưng không vì thế mà con người ngày nay xa rời với con người của Phật giáo: từ, bi, hỷ, xả. Con người có tham vọng nhưng không tham nhũng cái do người khác làm ra, không vun vén lợi ích cho riêng mình biết kết hợp những phẩm chất đạo đức của con người Phật giáo với tư cách, trí tuệ của con người hiện đại là chúng ta tự hoàn thiện mình, cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh, hạnh phúc.
Kết luận:
Qua những vấn đề cơ bản trong Phật học, ta thấy Đạo Phật là một hệ thống tư tưởng thống nhất quy tụ về Nhất Thừa Phật pháp. Tất cả giáo lý Phật là nền tảng cho việc xây dựng con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người từ, bi, hỷ, xả, con người Phật. Vì thế vấn đề nhân vị trong đạo Phật là một vấn đề quan trọng vì đạo Phật cho rằng con người là tất cả, con người quyết định số phận của mình, quyết định hình thái xã hội. Con người ác chỉ biết lợi mình hại người tạo ra một xã hội với áp bức bất công. Con người thiện, sống vị tha xây dựng một xã hội tiến bộ, lành mạnh.
Người học Phật, tu Phật hàng ngày phải sống với đạo, thực nghiệm đạo, không một phút nào xa lìa đạo. Trong mọi hoạt động của thân, khẩu, ý đều phải gắn liền với Đạo, thể hiện Đạo. Với cách sống như thế, người tu hành luôn là người dũng cảm có đủ nghị lực chiến thắng ngũ dục, chiến thắng những bất công áp bức.
Và một đặc điểm lớn nhất của đạo Phật là suốt đời, Phật không bao giờ tự nhận là người duy nhất đem lại sự giải thoát cho loài người. Phật nói: Con người ai ai cũng có Phật tính. Trước người đã có hằng hà sa số Phật.
Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người đều coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.
Như vậy, đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ, bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, còn tập thể.
Trái lại. con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người ấy sẽ là xã hội địa ngục, xã hội áp bức bóc
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Triết học phật giáo
I. Thế giới quan Phật giáo.
Thế giới quan Phật giáo chịu ảnh hưởng của hai luận điểm, thể hiện qua 4 luận thuyết cơ bản: thuyết vô thường, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết nhân duyên khởi.
1. Thuyết vô thường.
Vô thường là không thường còn, là chuyển biến thay đổi. Luật vô thường chi phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi không có gì là thường trụ, bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm tưởng sự vật là yên tĩnh, là bất động nhưng thật ra là nó luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến không ngừng. Sự chuyển biến ấy diễn ra dưới hai hình thức.
a) Một là Sátna( Kshana ) vô thường: là một sự chuyển biến rất nhanh, trong một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một niệm, một sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. Phật dùng danh từ Satna để chỉ một khoảng thời gian hết sức ngắn.
b) Hai là: Nhất kỳ vô thường. Là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự vô thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi, thường là ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thường thứ hai. Nhất kỳ vô thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ, chuyển sang một trạng thái mới. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo luật: Thành - Trụ - Hoại - Không.
Vạn vật được cấu thành, trụ một thời gian, sau đó chuyển đến diệt, thành, hoại, không.
Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt.
Một hành tinh, một ngôi sao có thời kỳ vũ trụ kéo dài hàng triệu năm, một cây có thể trụ hàng ngàn năm, một sinh vật có thể trụ được hàng trăm năm, bông hoa phù dung chỉ trụ trong một ngày - sớm nở, chiều tàn. Xung quanh ta sự vật chuyển biến không ngừng. Theo luật vô thường, không phải khi sinh ra mới gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt mà từng phút, từng dây, từng Satna, vạn vật sống để mà chết và chết để mà sống. Sống, chết tiếp diễn liên tục với nhau bất tận như một vòng tròn.
Không những thân ta chuyển biến không ngừng mà tâm ta cũng không ngừng chuyển biến. Như dòng nước thác, như bọt bể, trong Satna này, trong tâm ta nổi lên một ý niệm thiện, chỉ trong Satna sau, trong tâm ta đã có thể khơi lên một ý niệm ác. Tâm ta luôn luôn chuyển biến như thế Phật gọi là tâm phan duyên. Trong kinh Thủ năng Nghiệm quyển một Phật gọi cái tâm phan duyên ấy là cái tâm biết cái này, nghĩ cái khác, cái tâm vọng động do duyên với tiền trần mà có, theo cách trần mà luôn luôn thay đổi, chuyển biến mà không Satna nào ngừng.
Không những tâm, thân ta chuyển biến mà các hình thái xã hội theo thời gian cũng chuyển biến: Xã hội công xã nguyên thuỷ --> Xã hội chiếm hữu nô lệ --> Xã hội phong kiến --> Xã hội tư bản --> Xã hội XHCN. Đó là quy luật xã hội và cũng không phù hợp với thuyết vô thường của Đạo Phật.
Thuyết vô thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là cơ sở của lý luận cho cách sống, cho triết lý sống của những con người tu dưỡng theo giáo lý phật.
Trong thế gian có những người không biết lý vô thường của Phật, có những nhận thức sai lầm về sự vật là thường còn, là không thay đổi, không chuyển biến. Nhận thức sai lầm như thế phật giáo gọi là ảo giác hay huyễn giác. Vì nhận thức thân ta là thường còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự sống để hưởng thụ, để thoả mãn mọi dục vọng. Khi luật vô thường tác động đến bản thân thì sinh ra phiền não đau khổ.
Ngược lại, nếu thấu lý vô thường một cách nông cạn, cho chết là hết, đời người ngắn ngủi, phải mau mau tận hưởng những thú vui vật chất, phải sống gấp, sống vội. Cuộc sống như thế là sống trụy lạc, sa đọa trong vũng bùn của ngũ dục, sống phiền não đau khổ trước sự chuyển biến của sự vật, trước sự sinh- trụ, dị diệt, trước sự thành, trụ hoại không nó diễn ra hàng ngày.
2. Thuyết vô ngã.
Từ thuyết vô thường. Phật nói sang vô ngã. Vô ngã là không có cái ta. Thực ra làm gì cũng có cái ta trường tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi không ngừng, biến chuyển từng phút, từng giờ, từng Satna.
Một câu hỏi được đặt ra vậy cái ta ở giây phút nào là cái ta chân thực, cái ta bất biến ? Cái ta mà Phật nói trong thuyết vô ngã gồm có hai phần:
Cái ta sinh tức thân.
Cái ta tâm lý tức tâm.
Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu tố của bốn đại là: địa , thuỷ, hoả , phong.
* Địa đại là cái đặc cứng như tóc, răng, móng chân, móng tay, da , thịt, các cơ, xương, tủy, tim gan, thận,...
* Thủy đại là những chất lỏng như mật ở trong gan, máu, mồ hôi, bạch huyết, nước mắt,...
* Hoả đại là những rung động của cơ thể như hơi thở, chất hơi ở trong dạ dầy, ở ruột.
Những thứ đó không phải là ta, ta không phải là nhưng thứ đó, những thứ đó không thuộc về ta.
Cái mà ta gọi là cái ta sinh lý chỉ là một khoảng không gian giới hạn bởi sự kết hợp của da thịt, cũng như cái mà ta gọi là túp lều chỉ khoảng không gian giới hạn bởi gỗ, tranh, bùn để trát vách mà thôi.
Tứ đại ( địa, thuỷ, hoả, phong) nêu trên thoáng là của ngoại cảnh, thoáng là của ta. Vậy thực sự nó là của ai ? Vả lại khi bốn yếu tố này rời nhau trở về thể của nó thì không có gì ở lại để có thể gọi là cái ta được nữa. Cho nên cái mà ra gọi là cái ta sinh lý chỉ là một giả tưởng, một nhất hợp sinh lý mà thôi.
Còn cái ta tâm lý gồm : thụ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm này cùng với sắc ấm che lấp trí tuệ làm cho ta không nhận thấy được cái ta chân thực cái ta Phật tính, cái chân ngã của chúng ta. Cái chân lý gồm những nhận thức, cảm giác, suy tưởng, là sự kết hợp của thất tỉnh: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái , nỗ, dục.
Thuyết vô ngã làm cho người ta không còn ai tin là có một linh hồn vĩnh cửu, tồn tại kiếp này sang kiếp khác, đời này qua đời khác. Sự tin có một linh hồn dẫn dắt đến sự cúng tế linh hồn là hành động của sự mê tín.
Quan niệm có một linh hồn bất tử, một cái ta vĩnh cửu là nguồn gốc sinh ra những tình cảm, những tư tưởng ích kỷ, những tham dục vô bờ của những kẻ dựa vào sức mạnh phi nghĩa để làm lợi cho mình, tức là cho cái ta mà họ coi là thường còn, bất biến. Còn đối với những người bị hà hiếp, bị bóc lột thì sự mê tín có cái ta vĩnh cửu dẫn đến tư tưởng tiêu cực, chán đời phó mặc cho số mệnh, hy vọng làm lại cuộc đời ở kiếp sau.
Hai thuyết vô thường, vô ngã là hai thuyết cơ bản trong giáo lý Phật. Chấp ngã chấp có cái ta thường còn là nguồn gốc của vô minh mà vô minh là đầu mối của luân hồi sinh tử sinh ra đau khổ cho con người. Căn cứ trên hai thuyết vô thường và vô ngã Phật đã xây dựng cho đệ tử một cách sống, một triết lý sống lấy vị tha làm lý tưởng cao cả cho cuộc sống của mình, hay nói một cách khác một cuộc sống một người vì mọi người, mọi người vì một người.
3. Thuyết Lý nhân duyên sinh.
Với lý nhân duyên sinh Phật muốn nói tới một định lý. Theo định lý ấy sự vật vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành, sự vật, vạn pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên tan rã.
Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Như cây lúa thì hạt lúa là nhân, nước, ánh sáng mặt trời, công cày bừa gieo trồng là duyên. Nhân duyên đó hội họp sinh ra cây lúa. Tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà hành động. Nói nương nhau có nghĩa là sự vật tác động, kết hợp, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau mà thành. Đó là nhân duyên. Nói về thứ nhân duyên trong kinh Phật có câu:
Nhược sử hữu, tắc bỉ hữu.
Nhược sử sinh, tắc bỉ sinh.
Nhược thử vô, tắc bỉ vô.
Nhược thử diệt, tắc bỉ diệt.
Có nghĩa là:
Cái này có thì cái kia có.
Cái này sinh thì cái kia sinh.
Cái này không thì cái kia không.
Cái này diệt, thì cái kia diệt.
Tất cả các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau, không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối.
Sự vật chỉ “ có “ một cách giả tạo, một cách vô thường.
. Nhân duyên hội họp thì sự vật là “ có “.
. Nhân duyên tan dã thì sự vật là “ Không “.
Người thế gian không tu dưỡng tưởng lầm sự vật, vạn pháp là thực có, là vĩnh viễn nên bám giữ vào các pháp vào sự vật ( sinh mệnh, danh vọng, tiền tài...). Nhưng thực ra các pháp là vô thường, là chuyển biến và khi tan dã thì người thế gian thương tiếc, đau khổ.
Thế giới vũ trụ, vạn pháp đều cấu thành bởi hệ thống nhân duyên trùng trùng điệp điệp. Các pháp không có thực thể, chỉ vì nhân duyên hoà hợp mà có, một cáh giả hợp mà sinh ra. Bởi thế tìm kiếm đến cùng cũng không thấy vạn pháp có “ thủy “ và xét đến muôn đời cũng không thấy vạn pháp có “ chung “. Vạn pháp là vô thủy, cái nguyên nhân đầu tiên của các pháp hay cái chung cùng của sự vật.
Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân duyên hoà hợp, sự vật là hư giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Như vậy con người làm chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình.
Cuộc sống của con người có tươi đẹp hạnh phúc hay phiền não đau khổ là đều do nhân duyên mà con người tạo ra. Với nhận thức như vậy, con người tìm được một cách sống, một cách sống cho ra sống, sống vì hạnh phúc của mọi người, sống an lạc, tự tại, giải thoát.
4. Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả.
Thuyết nhân duyên quả báo gọi là thuyết nhân quả là một trong những thuyết cơ bản của giáo lý Phật. Phật chủ trương không bao giờ tự nhiên mà có, mà sinh ra và cũng cho rằng không một thần quyền nào hay một đấng thiêng liêng nào tạo ra sự vật. Sự vật sinh ra là có nhân nguyên nhân. Cái nguyên nhân một mình cũng không tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên thì mới tạo ra quả được.
Người ta nói rằng: Trồng đậu được đậu.
Trồng dưa được dưa.
Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân sinh ra nó. Quả có thể hơn nhân nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Nhân gặp đủ duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên lại có thể biến thành nhân rồi để sinh ra quả khác.
Trong những năm gần đây, dân tộc Việt Nam đã liên tiếp tiến hành hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thấm nhuần giáo lý Phật nói chung và luật giới sát nói riêng, Phật tử xuất gia ở 2 miền Nam - Bắc đã tham gia trực tiếp chiến đấu hay phục vụ chiến đấu chống giặc một cách anh dũng. Các đệ tử Phật đã nhận thức được đâu là chiến tranh xâm lược, đâu là chiến tranh vệ quốc và đã kiên quyết đứng về phía nhân dân. Đó chính là một việc thiện, một cuộc phóng sinh vĩ đại.
IV. Đạo Phật với vấn đề chính trị.
Kể từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống chính trị xã hội. Ngày nay, người ta nhấn mạnh vai trò chính trị của các nhà sư thời Lý, Trần, nhấn mạnh ý nghĩa chính trị xã hội trong một số hoạt động của phật tử hiện đại.
Dưới triều Lý, Trần, các nhà sư trở thành một tầng lớp phong kiến tăng lữ có thế lực trong xã hội. Nhiều nhà sư tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị và giữ những cương vị quan trọng trong triều đình. Như sư Vạn - Hạnh là người đã vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra triều Lý. Sư Đa - Bảo và Viên - Thông được tham dự, bàn bạc và quyết định các việc trong triều như cố vấn của nhà vua.
Ngày nay, các nhà sư giữ những chức vụ cao trong Giáo hội cũng tham gia vào hoạt động chính trị. Nhưng bên cạnh những công tác phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước thì cũng có một số phần tử đã lợi dụng chức vụ của mình để gây rối. Hay trường hợp của Lê Đình Nhàn ( tức Thích Huyền Quang ) thường xuyên gây phiền nhiễu với các nhà sư khác cùng tu trong chùa. Thêm vào đó, nhiều vụ tự tử của các nhà sư với những nguyên nhân ngoài đạo đã bị cách phe phái phản động đưa tin xấu, coi đó là những hành vi tử vì đạo. Và khi những người thay mặt pháp luật can thiệp thì chúng cho đó là hành vi bắt bố sư sãi, đàn áp Phật giáo.
Để trả lời những thông tin sai lầm đó, chính phủ Việt Nam đã khẳng định luôn luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân nhưng những kẻ lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị cũng sẽ bị xử phạt như bất kỳ một công dân Việt Nam nào khác. Bởi lẽ bất kỳ một sư sãi của tổ chức nào thì trước hết cũng là công dân của nhà nước Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo, những người theo đạo là một bộ phận khăngkhít của khối đại đoàn kết dân tộc đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, đối với Phật giáo, chính phủ Việt Nam là không có lý do gì để phân biệt đối xử Phật tử Việt Nam là những người yêu nước, luôn gắn bó với dân tộc qua mọi bước thăng trầm của lịch sử, luôn đứng về phía Tổ quốc đấu tranh chống ngoại xâm. Đạo Phật đối với Việt Nam không chỉ là một tôn giáo mà còn là một bộ phận của nền văn hoá dân tộc truyền thống.
V. Một số kiến nghị.
Đạo Phật là một đạo không chỉ để người ta học mà chủ yếu cho người ta hành. Thực ra, những cái mà ta học được trong kinh điển mới chỉ là một kiến thức lỏng lẻo có tính chất lý thuyết. Ta mới chỉ nghe thấy nói đến những thuyêt vô thường, vô ngã, sắc không... mà thôi. Còn tu hành là phải gắng sức thực nghiệm những chân lý đó. Hiểu đạo không phải chỉ là nghiệm đạo qua kinh điển mà phải trải qua học đạo, tu đạo, chứng đạo. Thời đại ngày nay là thời đại của phát triển, của khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Để phù hợp với sự phát triển đó, con người cần có tham vọng lớn, năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cảm sáng tạo. Nhưng không vì thế mà con người ngày nay xa rời với con người của Phật giáo: từ, bi, hỷ, xả. Con người có tham vọng nhưng không tham nhũng cái do người khác làm ra, không vun vén lợi ích cho riêng mình biết kết hợp những phẩm chất đạo đức của con người Phật giáo với tư cách, trí tuệ của con người hiện đại là chúng ta tự hoàn thiện mình, cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh, hạnh phúc.
Kết luận:
Qua những vấn đề cơ bản trong Phật học, ta thấy Đạo Phật là một hệ thống tư tưởng thống nhất quy tụ về Nhất Thừa Phật pháp. Tất cả giáo lý Phật là nền tảng cho việc xây dựng con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người từ, bi, hỷ, xả, con người Phật. Vì thế vấn đề nhân vị trong đạo Phật là một vấn đề quan trọng vì đạo Phật cho rằng con người là tất cả, con người quyết định số phận của mình, quyết định hình thái xã hội. Con người ác chỉ biết lợi mình hại người tạo ra một xã hội với áp bức bất công. Con người thiện, sống vị tha xây dựng một xã hội tiến bộ, lành mạnh.
Người học Phật, tu Phật hàng ngày phải sống với đạo, thực nghiệm đạo, không một phút nào xa lìa đạo. Trong mọi hoạt động của thân, khẩu, ý đều phải gắn liền với Đạo, thể hiện Đạo. Với cách sống như thế, người tu hành luôn là người dũng cảm có đủ nghị lực chiến thắng ngũ dục, chiến thắng những bất công áp bức.
Và một đặc điểm lớn nhất của đạo Phật là suốt đời, Phật không bao giờ tự nhận là người duy nhất đem lại sự giải thoát cho loài người. Phật nói: Con người ai ai cũng có Phật tính. Trước người đã có hằng hà sa số Phật.
Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người đều coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.
Như vậy, đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ, bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, còn tập thể.
Trái lại. con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người ấy sẽ là xã hội địa ngục, xã hội áp bức bóc
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: tiểu luận phật giáo.doc
Last edited by a moderator: