long_pham982
New Member
Download Tiểu luận Vai trò của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung trên thế giới và ở Việt Nam miễn phí
Đến năm 1990, đánh dấu một mốc quan trọng khi các cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên được tiến hành ở một số nước cộng hòa. Và cũng trong năm này, đa nguyên chính trị được Gorbachev đưa vào và sự độc quyền của Đảng đối với ngành điện lực chấm dứt hoàn toàn vào tháng 2 năm 1990. Đảng Cộng Sản Liên Xô không còn quan tâm đến sự thống trị kinh tế ở Đông Âu nữa bởi vì tình hình Liên Bang Xô Viết đã trở nên nghiêm trọng hơn về mặt kinh tế và chính trị. Quyền lực của Cộng Sản do đó đã có sẵn mầm mống sụp đổ ở Đông Âu bởi vì Cộng Sản có được tính chính thống như vậy là nhờ Liên Bang Nga. Sụp đổ diễn ra đầu tiên với các nước Ba Lan và Hunggary, nơi quyền lực Cộng Sản bị xói mòn nhiều nhất.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
I. Vai trò của kinh tế kế hoạch hóa tập trung:- Có đóng góp quan trọng vào việc cải tạo quan hệ sản xuất, tập trung tư liệu sản xuất vào trong tay nhà nước, do đó có điều kiện tập trung sức sản xuất để nâng cao nâng suất lao động
- Việc tập trung các tư liệu sản xuất và sản xuất có kế hoạch tạo điều kiện tập trung sức lao động và vốn đầu tư vào những ngành trọng điểm, những công trình quan trọng nhằm đưa đến sự thay đổi cơ bản nền kinh tế quốc dân
- Tập trung hóa, kế hoạch hóa cao độ dưới sự lãnh đạo của Nhà nước, như vậy có tác dụng dễ dàng tập trung được nguồn lực quốc gia cho các mục tiêu trọng điểm, những ưu tiên của đất nước. ví dụ điển hình như quá trình Công nghiệp hóa những năm 1930 ở Xô Viết đã thành công bất kể các căng thẳng của nền kinh tế, cũng như các dự án chạy đua vũ trang và các dự án lớn khác của Liên Xô sau này.
- Kinh tế có kế hoạch và tách xa thị trường nên nền kinh tế tránh được lạm phát, tránh được các khủng hoảng và các rủi ro của thị trường như trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá cả có khi được duy trì cố định trong vài chục năm.
- Giá cả cố định trong một thời gian khá dài cộng với thu nhập tăng đều theo kế hoạch điều này là có lợi cho tầng lớp dân cư lớp dưới kém năng động thích được sống bao cấp, sức mua của người dân tăng cao.
II. Sự sụp đổ của mô hình:
Tính không hiệu quả của Mô hình:
Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung có những ưu điểm nhất định, nhưng cũng có nhiều khuyết điểm, nhược điểm, và nó chỉ phát huy được tác dụng tích cực trong thời gian đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và những năm có chiến tranh. Từ giữa những năm 70 trở đi, nền kinh tế ở các nước XHCN châu Âu dần lâm vào tình trạng khó khăn, trì trệ.
Nhịp tăng trưởng kinh tế giảm, biểu hiện qua xu hướng tăng chậm dần của thu nhập quốc dân ở hệ thống các nước XHCN
Tốc độ tăng thu nhập Quốc dân ở Liên Xô và một số nước XHCN Đông Âu :
1961-1965
1966-1970
1971-1975
1976-1980
1980-1985
Bungari
6,7
8,8
7,8
6,1
3,7
Ba Lan
6,2
6,0
9,8
1,2
-0,8
CHDC Đức
3,5
5,2
5,4
4,1
4,5
Hunggary
4,1
6,8
6,5
2,8
1,3
Rumani
9,1
7,7
11,4
7,0
4,4
Liên Xô
6,5
7,8
5,7
4,3
3,5
Tiệp Khắc
4,9
6,9
5,5
3,7
1,7
Nguồn: Tổng cục thống kê, niên giám thống kê, 1985
Qua bảng trên cho thấy, các nước XHCN đều có thu nhập quốc dân giảm, nhất là trong giai đoạn từ 1980-1985, thậm chí nước Ba Lan còn có thu nhập quốc dân âm, điều này cho thấy sự sa sút, khủng hoảng trong cả hệ thống các nước XHCN, chứ không chỉ riêng một vài nước.
Năng suất lao động giảm
Tỷ trọng của Năng suất các yếu tố trong sự tăng trưởng sản lượng:
Thời kỳ
Tỷ lệ thay đổi hàng năm
Tỷ trọng của năng suất yếu tố trong sự tăng trưởng sản lượng
Sản lượng
Năng suất yếu tố sản xuất
Tiệp Khắc
1960-1975
3,0
1,0
0,33
1976-1980
2,2
0,7
0,29
1981-1988
1,4
0,1
0,07
Ba Lan
1960-1976
5,1
2,4
0,47
1976-1980
0,7
-0,6
──
1981-1988
0,8
0,2
0,40
Liên Bang Xô Viết
1960-1975
4,6
1,2
0,26
1976-1980
2,3
0,5
0,22
1981-1988
1,9
0,5
0,13
Nguồn:[ 2 ]
Sự so sánh giữa Đông Đức và Tây Đức cho chúng ta cái nhìn rõ ràng hơn, giữa hai mô hình kinh tế khác nhau với Tây Đức theo mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, còn Đông Đức đi theo con đường XHCN:
Năng suất lao động tại Đông và Tây Đức,1983:
Năng suất lao động trong ngành năng lượng và khai khoáng
Đông Đức
Tây Đức
Đông Đức/Tây Đức(%)
Than nâu được sản xuất/công nhân(tấn)
2699
5905
0,46
Gas được sản xuất/công nhân(1000ccm)
904
2251
0,40
Điện được sản xuất trong các nhà máy nhiệt điện chạy than/công nhân(MWh)
3186
7065
0,45
Nguồn:[2]
Tụt hậu về tiến bộ công nghệ so với Tây Âu.
Để đo lường mức độ tiến bộ công nghệ, có thể xem xét sự phát triển trong các phát minh và đổi mới kỹ thuật, sẽ là minh chứng cho tính ưu việt của hệ thống XHCN nếu như những đổi mới kỹ thuật này được đưa ra đầu tiên ở các nước XHCN, hoặc ta so sánh việc sử dụng các nguồn lực và tỷ lệ giữa đầu vào và đầu ra trong sản xuất của CNXH cổ điển với CNTB.
Nhu cầu sử dụng các nguồn lực lớn hơn cho thấy sự lãng phí về nguyên liệu, sau đó là sự yếu kém về công nghệ mới dẫn đến tốn kém, hao phí nguồn lực lớn như thế.
Tỷ lệ nhu cầu năng lượng và thép:
Nhu cầu năng lượng: năng lượng tính bằng Kg than cần thiết để sản xuất ra 1000USD giá trị đầu ra,1979
Nhu cầu thép; thép sử dụng tính bằng Kg để làm ra giá trị 1000USD đầu ra,1980
Các nước XHCN
Đông Đức
1356
88
Ba Lan
1515
135
Sáu nước khối SEV
1362
111
Các nước TBCN
Pháp
502
42
Italia
655
79
Anh
820
38
Tây Đức
565
52
Nguồn:[2]
Nhu cầu nguyên vật liệu:
Sử dụng đầu vào trung gian trên một đơn vị giá trị gia tăng, cho những năm quanh năm 1975
Nền kinh tế
Công nghiệp và nông nghiệp
Công nghiệp
Công nghiệp chế biến
Trung bình của các nước CNXH
1,47
1,75
1,82
1,95
Trung bình của các nước tư bản
1,03
1,33
1,44
1,55
Nguồn:[2]
Sự lạc hậu trong khu vực nông nghiệp: Hệ thống các nước XHCN cổ điển ưu tiên trong việc phân đầu tư cho các ngành sản xuất tư liệu sản xuất (sản phẩm loại I) hơn so với các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng (sản phẩm loại II), ưu tiên đối với công nghiệp và là công nghiệp nặng, ưu tiên đối với công nghiệp quân sự, với các công trình lớn. Như vậy, nông nghiệp ít được chú ý đầu tư. Các lính vực được phát triển thường là những lĩnh vực trực tiếp tạo ra sản phẩm tăng lên trong vốn cố định: việc sản xuất các tư liệu sản xuất tăng lên để có nhiều vốn cố định hơn, mà nó phải chủ yếu sản xuất ra các tư liệu sản xuất và đến lượt nó lại đóng góp vào sự tăng lên của vốn cố định, và quá trình này cứ thế tiếp diễn. Bởi vậy, có thể nói có một vòng xoáy diễn ra dẫn đến có nhiều đầu tư hơn, nhiều vốn cố định hơn, và cuối cùng là có nhiều tổng sản phẩm hơn.
Với ý tưởng như trên và việc bám chặt vào những ưu tiên nói trên dẫn đến một cơ cấu ngành méo mó, biến dạng và mất cân đối. Vì vậy đã dẫn đến sự trì hoãn của khu vực không được ưu tiên, khu vực nông nghiệp bị lạc hậu.
Mức sống và tiêu thụ thấp: sự so sánh rõ ràng nhất là giữa Đông Đức và Tây Đức:
Tiêu dùng ở Đông và Tây Đức,1970:
Mức tiêu dùng của Đông Đức so với Tây Đức(%)
Hàng tiêu dùng lâu bền, trên 100 hộ
Ti vi
93
Ti vi màu(1973)
7
Tủ lạnh
66
Tủ đá(1973)
14
Máy giặt
89
Máy giặt tự động(1973)
3
Tiêu dùng lương thực và đồ uống đầu người
Thịt
86
Sữa
105
Pho mát
46
Khoai tây
149
Rau
134
Hoa quả
44
Chè
59
Cà phê
51
Rượu, sămpanh
29
Bia
68
Nguồn:[2]
Bảng số liệu trên thể hiện rõ tiêu dùng của người dân dưới chế độ XHCN là thấp s...