Download Tiểu luận Vai trò vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam miễn phí





MỤC LỤC
Trang
1- Lời mở đầu : 3
2- Phần I : Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và tác dụng của nó đối với phát triển kinh tế Việt Nam.
3- Phần II : Tình hình đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua
4- Phần III : Những khó khăn thách thức và đề xuất kiến nghị. 13
5- Kết lận : 16
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

uế nhập khẩu đối với : Thiết bị, máy móc, phụ tùng , các phương tiện sản xuất kinh doanh (gồm cả phương tiện vận tải) và các vật tư nhập khẩu vào Việt Nam để đầu tư xây dựng cơ bản hình thành xi nghiệp hay để tạo tài sản cố định thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh nguyên liệu , bộ phận rời, phụ tùng và các vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu; Bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật…… Do bên Nước ngoài cùng góp vốn pháp định của Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay dùng làm vốn ban đầu để thực hiện hợp tác kinh doanh .
Luật sửa đổi bổ sung lần thứ nhất được Quốc Hội Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30/6/1990 bao gồm 3 vấn đề lớn :
Một là : Cho phép các tổ chức kinh tế tư nhân có tư cách pháp nhân được trực tiếp hợp tác kinh doanh với nước ngoài.
Hai là : Mở rộng hình thức liên doanh “Hai bên” (Bên Việt nam và bên Nước ngoài) thành liên doanh có nhiều bên; Cho phép nhiều tổ chức cá nhân được đứng thành một bên độc lập trong liên doanh.
Ba là : Cho phép các Xí nghiệp liên doanh sản xuất hàng thay thế nhập khẩu thiết yếu cũng được hưởng các quyền ưu đãi tài chính như các Xi nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Đến ngày 23/12/1992 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại được quốc Hội sửa đổi bổ sung lần thứ hai. Mặc dù là sửa đổi năm 1990 đã cho phép các tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân được hợp tác với nước ngoài nhưng theo định nghĩa các tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân chỉ là Công ty Cổ phần và Công Ty TNHH. Như vậy, các doanh nghiệp tư nhân phải đứng ngoài cuộc. Luật sửa đổi bổ sung tháng 12/1992 đã khắc phục mặt hạn chế đó, cho phép các doanh nhgiệp tư nhân được quyền hợp tác kinh doanh với Nước ngoài.
Quốc Hội cũng đã bổ sung vào luật đầu tư các quy định về đầu tư vào các khu chế xuất, chính thức “luật hoá” hoạt động đầu tư vào các khu chế xuất tại Việt Nam, đồng thời bổ sung thêm một hình thức đầu tư mới, đó là hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT) . Các dự án đầu tư vào khu chế xuất và đầu tư theo hình thức BOT được hưởng những quy chế riêng biệt cả về những mặt quản lý Nhà nước lẫn chính sách ưu đãi tài chính.
Do đặc thù của Việt Nam, các bên Việt Nam, khi bắt đầu tham gia liên doanh thường chỉ có khả năng đóng góp 25 – 30% vốn pháp định. Do đó, đã bổ sung vào luật đầu tư một điều khoản : “Đối với cơ sở kinh tế quan trọng do Chính Phủ quyết định các bên được thoả thuận tăng dần tỷ trọng góp vốn của bên Việt Nam trong vốn pháp định của Xí nghiệp liên doanh” . Đồng thời trên cơ sở thoả thuận với chủ Xí nghiệp 100% vốn Nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam được mua lại từng phần vốn của Xí nghiệp thuộc những cơ sở kinh tế quan trọng .
Để thêm sức cạnh tranh với các nước kinh tế trong khu vực, luật sửa đổi bổ sung tháng 12/1992 quy định thời gian hoạt động tối đa của Xí nghiệp có vốn đầu tư Nước ngoài là 70 năm thay vì 50 năm như trước đây.
Một số liên doanh đã từng gặp khó khăn vì người cho vay không cho phép họ mở tài khoản vốn vay ở Việt Nam, trong lúc Luật pháp Việt Nam lại buộc họ phải mở tài khoản tại Việt Nam, Ngân Hàng liên doanh ở Việt Nam hay Chi nhánh Ngân Hàng Nước ngoài ở Việt Nam. Quy định mới của Luật đã giải toả những vướng mắc này bằng cách cho phép họ mở tài khoản vốn vay ở Nước Ngoài.
Năm 1996 Luật đầu tư nước ngoài một lần nữa tiếp tục được hoàn thiện. Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 khẳng định lại đường lối nhất quán của Chính Phủ Việt Nam trong việc bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi và quy định thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt nam. Tuy nhiên Luật đầu tư sửa đổi lần này lại giảm bớt một số ưu đãi, làm giảm sút động lực kích thích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư.
Sau khi khựng lại năm 1996 và về sau, nhằm khôi phục lại tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư trực tiếp Nước Ngoài, đáp ứng các yêu cầu mới của quá trình mở cửa và hội nhập nhanh với kinh tế Quốc tế, đáp ứng yêu cầu công cuộc CNH – HĐH đất nước, năm 2000 Quốc Hội thông qua “Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư của Nước Ngoài tại Việt Nam”.
Các nội dung sửa đổi của Luật đầu tư Nước Ngoài năm 2000 lần này đã thực sự đưa lại cho hoạt động đầu tư có vốn trực tiếp Nước Ngoài tại Việt Nam một sự ổn định và thông thoáng với nhiều ưu đãi hơn. Ví dụ : Như trong Điều 21 “Các trường hợp thay đổi của Pháp luật Việt Nam làm thiệt hại lợi ích của các Bên và các biện pháp giải quyết thoả đáng của Nhà Nước” ; Điều 33 bổ sung thêm “Quyền được mua ngoại tệ đáp ứng cho các giao dịch vẵng lai , các giao dịch được phép khác theo quy định của Pháp luật về quản lý ngoại hối ……” ; Điều 43 sửa đổi theo hướng “giảm mức thuế trên lợi nhuận chuyển ra Nước Ngoài từ 5%, 7%, 10% (Luật đầu tư Nước Ngoài 1996) giảm còn 3%, 5%, 7% tương ứng” ; Điều 60 sửa đổi “thời hạn cơ quan cấp giấy phép đầu tư xem xét đơn và quyết định cho nhà đầu tư từ 60 ngày (Luật đầu tư Nước Ngoài 1996) còn 30 – 45 ngày” và các sửa đổi bổ sung quan trọng khác.
Có nhà đầu tư Nước Ngoài đã phàn nàn rằng Việt Nam luôn thay đổi các điều khoản của Luật đầu tư làm cho tính pháp lý của nó không ổn định. Đúng là Việt Nam đã có những thay đổi có tính bổ sung và Luật đầu tư nhưng là để làm cho nó thông thoáng hơn có sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư Nước ngoài, chứ không phải là ngược lại.
PHẦN II
TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA NƯỚC NGOÀI
VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
1- Quy mô nhịp độ và cơ cấu đầu tư trong vòng thập kỷ vừa qua, đầu tư trực tiếp Nước ngoài vào Việt nam đã đóng góp khoảng 25% - 30% tổng nguồn vốn đầu tư của toàn Xã hội. Nguồn thu ngân sách từ khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng lên theo từng năm : Năm 2000 đạt 80,8% ; năm 2001 đạt 7,8% ; năm 2002 đạt 8,6%, tình hình tổng thu ngân sách từ khu vực đầu tư này năm 1996 – 2000 ; Việt Nam đạt gần 1,45 tỷ USD tăng gấp 4,5lần giai đoạn năm 1990 – 1995. Nếu tình hình cả nguồn thu từ dầu khí thì tỷ lệ này chiếm đến 30% ngân sách nếu như 2 năm 2001 và 2002 bị coi là dừng lại thì đến năm 2003 đầu tư trực tiếp Nước Ngoài tại Việt Nam có dấu hiệu khởi sắc hơn cả về tình hình thu lẫn tình hình thực hiện.
Những kết quả đầu vào cũng như đầu ra của đầu tư trực tiếp Nước ngoài so với năm 2002 và chuyển biến tích cực trong đó hướng nổi bật nhất là hoạt động đầu tư trực tiếp Nước ngoài hướng vào việc triển khai thực hiện những dự án đã được cấp phép trong 2003, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp Nước ngoài của cả đã đạt được thêm 3,1 tỷ USD tăng gần 20% so với năm 2002. Trong đó, bao gồm 1,95 tỷ USD là vốn đầu tư đăng ký mới của 713 dự án được cấp phép và 1,15 triệu USD với vốn tă...
 

Kiến thức bôn ba

Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top