nguyenreport
New Member
Link tải miễn phí Luận văn: Motip Kitô giáo trong anh em nhà Karamazov của F. Dostoevsky : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 30
Nhà xuất bản: ĐHKHXH & NV
Ngày: 2009
Chủ đề: Kitô giáo
Văn học Nga
Văn học nước ngoài
Miêu tả: 103 tr. + CD-ROM
Luận văn ThS. Văn học nước ngoài -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009
Khái quát về Kitô giáo, chính thống giáo trong hệ thống giáo hội, kinh thánh và văn học Nga, chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX - chủ nghĩa hiện thực Kitô giáo. Trình bày các quan điểm đạo đức – thẩm mỹ và tôn giáo của Dostoevsky về “bản chất” con người, về Quỷ, Thượng đế, sự bất tử. Giới thiệu về vai trò của Thánh kinh trong việc hình thành ý đồ tư tưởng và cấu trúc nghệ thuật của “anh em nhà Karamazov”. Tìm hiểu và phân tích những thủ pháp đưa Kinh thánh vào cấu trúc nghệ thuật của tiểu thuyết “anh em nhà Karamazov” bao gồm: tính chất hai bình diện không gian, thời gian và cốt truyện; vay mượn trực tiếp cốt truyện và huyền thoại của Thánh kinh; những ám gợi và song chiếu của hình tượng nghệ thuật trong mối liên hệ với Kinh Thánh; những chi tiết dáng nhân vật; biểu tượng và châm ngôn của Kinh Thánh trong diễn ngôn của nhân vật…
MỤC LỤC
Mở đầu…………………………………………………………………… 3
Chƣơng 1: Chính thống giáo và chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ
XIX………………………………………………………………………… 10
1.1.1. Kitô giáo…………………………………………………………….
1.1.2. Chính thống giáo trong hệ thống giáo hội………………………….
10
16
1.1.3. Kinh thánh và văn học Nga………………………………………. 27
1.1.4. Chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX – chủ nghĩa hiện thực Kitô
giáo?……………………………………………………………………… 33
Chƣơng 2. Hệ thống quan điểm triết-mỹ của F. Dostoevsky………….. 44
2.1. Các quan điểm đạo đức-thẩm mỹ và tôn giáo của Dostoevsky về “bản
chất” con người, về Quỷ, Thượng Đế, sự bất tử………………………….. 45
2.2. Vаi trò của Thánh kinh trong việc hình thành ý đồ tư tưởng và cấu
trúc nghệ thuật của “Anh em nhà Karamazov”………………………………. 59
Chƣơng 3. Những thủ pháp đƣa Kinh thánh vào cấu trúc nghệ thuật
của tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov………………………………… 65
3.1. Tính chất hai bình diện không-thời gian và cốt truyện; …………….. 65
3.2. Vay mượn trực tiếp cốt truyện và huyền thoại của Thánh kinh…….. 69
3.3. Những ám gợi và song chiếu của hình tượng nghệ thuật trong mối
liên hệ với Kinh Thánh………………………………………………….. 77
3.4. Sử dụng trực tiếp hình tượng từ Kinh thánh………………………. 83
3.5. Những chi tiết dáng nhân vật ………………………………..... 85
3.6. Biểu tượng và châm ngôn của Kinh thánh trong diễn ngôn của nhân
vật…………………………………………………………………………. 91
Kết luận…………………………………………………………………… 97
Tài liệu tham khảo………………………………………………………... 99
Phụ lục…………………………………………………………………….. 1044
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Sau hai thế kỷ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự bất ổn xã hội, văn học
Nga đã bước vào thời kỳ phát triển vượt trội ở thế kỷ XIX đem tới cho văn
học thế giới những tên tuổi nổi bật như A.Pushkin, M.Lermontov, N.Gogol,
L.Tolstoy, F.Dostoevsky, Ivan Turgenev… Chưa khi nào, trong lịch sử, văn
học Nga lại có sự nỗ lực cách tân sâu rộng và toàn diện trên tất cả các thể loại
như ở thời kỳ này. Gorky tự hào viết: “Trong lịch sử phát triển của nền văn
học châu Âu, nền văn học trẻ tuổi của chúng ta là một hiện tượng kì lạ;”
“không có nơi nào mà chỉ trong non một thế kỉ đã hiện lên cả một quầng sao
rực rỡ của những tên tuổi vĩ đại như ở Nga và cũng không nơi nào đông đảo
những nhà văn tuẫn đạo như ở nước ta” [23, 10]. Sau một thế kỷ vàng son,
văn học Nga đã góp vào kho tàng văn chương thế giới rất nhiều tác phẩm lớn
mang hơi thở thời đại như Những linh hồn chết, Chiến tranh và hòa bình, Tội
ác và trừng phạt… Văn học Nga thế kỷ XIX có sự gắn bó chặt chẽ với sự vận
động và tiến lên của xã hội Nga, phản ánh kịp thời và sâu sắc những biến
động lớn lao trong đời sống nhân dân Nga. Vì thế, hơn tất cả những thời kỳ
khác, nhà văn Nga được nhân dân tin yêu tuyên xưng với những tên gọi cao
quý như “người chiến sĩ”, “nhà lãnh tụ”, “người bảo vệ nhân dân” và là “nhà
tư tưởng” của dân tộc Nga.
Trong lĩnh vực tiểu thuyết, L.Tolstoy và F.Dostoevsky là hai nhà văn
lớn nhất và được nhiều học giả coi là hai tiểu thuyết gia vĩ đại nhất của mọi
thời đại. Tư tưởng của họ không những có ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống
văn học trong và ngoài nước Nga mà còn khơi nguồn sáng tạo cho những trào
lưu văn học mới xuất hiện ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Tác phẩm của5
F.Dostoevsky đặc biệt ghi dấu sự đấu tranh giữa các học thuyết xã hội chủ
nghĩa mới đang hình thành và phát triển trong lòng xã hội Nga cũng như châu
Âu với truyền thống văn hóa của một nước Nga cổ. Nếu L.Tolstoy là nhà văn
của nhân dân Nga thì Dostoevsky là nhà văn của tư tưởng Nga, luôn tuyên
xưng một nước Nga mới trong vị thế của một dân tộc được Chúa tuyển chọn.
Ở Dostoevsky, tinh thần Nga thể hiện đầy đủ và toàn vẹn nhất ngay cả ở
những khía cạnh dị thường nhất của nó. Dostoevsky không chỉ là nhà tư
tưởng mà còn là “người quy tụ trái tim Nga” [31, 295], là một người Nga
chính thống với truyền thống tinh thần và lý tưởng gắn liền với niềm tin yêu
vô tận đối với Chúa Jesus và Con người.
F.Dostoevsky tham gia văn đàn Nga với tác phẩm đầu tiên “Những kẻ
bất hạnh” (1845) mang bóng dáng của “con người nhỏ bé” trong các tác
phẩm của Pushkin và Gogol. Tác phẩm ngay lập tức thu hút sự chú ý của dư
luận xã hội. Nước Nga biết đến một chiều sâu tâm hồn bên trong của những
“con người nhỏ bé” mà trước đó, ở các tác phẩm Puskin hay Gogol, nó chưa
toàn vẹn. Tiếp đó, những năm 40 của thế kỷ này, Dostoevsky viết “Trường ca
Peterburg”, “Người hai mặt” khắc họa sâu thêm bi kịch cuộc đời của những
con người ở tầng đáy xã hội. Đến “Bút ký từ ngôi nhà chết” (1861-1862), thế
giới của những “con người biến chất” bắt đầu được khai mở, vấn đề Thiện –
Ác được miêu tả trong một diễn trình tâm lý phức tạp. Ghersen từng gọi “Bút
ký từ ngôi nhà chết” là “cuốn sách rợn người” chẳng khác tác phẩm “Địa
ngục” của Dante hay bức họa “Ngày phán xử cuối cùng” của Mikenlange. Ở
tác phẩm “Tội ác và trừng phạt” (1866), Dostoevsky đã miêu tả không chỉ sự
vận động và biến đổi của một nước Nga tư bản mà còn cả những trường tư
tưởng mới vừa xuất hiện trong lòng xã hội châu Âu. Bên cạnh hình tượng
“con người nhỏ bé” hay “con người biến chất”, đến tác phẩm này, Dostoevsky
đã khái quát trọn vẹn hình tượng “con người nổi loạn” với đầy đủ các góc6
cạnh tâm lý cũng như động cơ của nó. Cái Ác và kẻ đồng lõa của nó là nỗi
thống khổ, một lần nữa, bị lên án gay gắt, bị kết tội rồi bị trừng phạt bằng sự
sám hối ăn năn trong chính bản thể chứa đựng nó.
Năm 1880, tác phẩm Anh em nhà Karamazov ra đời mang tới cho thế
giới dáng toàn vẹn của kiểu “con người hoài nghi” nổi loạn chống lại
chính đức tin của mình. Đây là tác phẩm cuối cùng và là một kiệt tác xuất sắc
nhất của Dostoevsky. Tác phẩm thể hiện đỉnh cao tài năng của nhà văn trong
việc gắn kết những yếu tố nghệ thuật khác loại, nâng tầm khái quát hiện thực
lên tầm cao tư tưởng triết lý nhân loại. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết có kết
cấu minh bạch nhất, giàu chi tiết nhất của ông, nói như Sigmund Freud “đây
cuốn tiểu thuyết tráng lệ nhất”, là cuốn tiểu thuyết “triết lí” của nhà văn dâng
hiến cho lý tưởng tôn vinh Con người. Bằng tiểu thuyết và thông qua tiểu
thuyết, Dostoevsky giải đáp những câu hỏi lớn về vấn đề Đức tin của con
người trước Đấng tối cao, số phận, bản thân con người, trước quan niệm về sự
sống, cái chết, cõi thiên đường hay địa ngục trong trường thuyết lý tôn giáo –
đạo đức sâu sắc. Vì thế chúng tui lựa chọn và phân tích vấn đề “Motip Kitô
giáo trong “Anh em nhà Karamazov” của F.Dostoevsky mong góp thêm một
hướng tiếp cận hữu hiệu đối với kiệt tác này cũng như đối với phong cách
nghệ thuật tuyệt vời của Dostoevsky.
2. Ý nghĩa của đề tài
Việc chỉ ra những thủ pháp nghệ thuật đem Kinh Thánh vào tiểu thuyết
“Anh em nhà Karamazov”, không chỉ góp một cách tiếp cận đối với tác phẩm
cuối cùng của Dostoevsky mà còn góp phần xác lập phương pháp nghiên cứu
văn hóa học trong nghiên cứu văn học.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Dostoevsky đột ngột ra đi trong khi vẫn đang còn quá nhiều băn khoăn
day dứt chưa giải đáp hết với cuộc đời. Không lâu sau một ngành khoa học7
nghiên cứu trước tác của nhà văn vĩ đại này bắt đầu hình thành và phát triển
không ngừng. Người ta tìm thấy trong tư tưởng của Dostoevsky những thuyết
lý có tính tiên báo về một thời đại xã hội vượt trước cả thời đại ông và có khi
còn xa hơn cả thời hiện đại. Dostoevsky khiến người ta say mê hơn là ngưỡng
mộ, khiến người ta cảm động hơn là thương cảm. Tìm đến tác phẩm của
Dostoevsky là tìm đến với chính tâm hồn mình, bởi hơn tất cả, lý tưởng vì con
người ở Dostoevsky luôn được đặt ở vị thế cao nhất, đẹp đẽ và vinh quang
nhất.
Khi Dostoevsky xuất hiện, thế giới ngỡ ngàng và thán phục tài năng
của ông. Belinsky - nhà phê bình văn học Nga lỗi lạc – đã từng mỉm cười
hạnh phúc thốt lên những lời ngợi khen sau lần đọc tiểu thuyết đầu tiên của
Dostoevsky. Rồi khi bình tĩnh lại, người ta hoài nghi Dostoevsky như một
người “đến để chia rẽ thế giới” bởi tầm vóc của Dostoevsky quá lớn. Người ta
bắt đầu nghiên cứu tư tưởng của Dostoevsky trong trường Đức tin của ông rồi
bàng hoàng nhận ra ông hiền lành như một thánh hài đến và đem theo lời tiên
cảm tốt đẹp cho loài người. Phương Đông nghiên cứu tư tưởng của ông để
nhận ra mình. Còn phương Tây nghiên cứu ông để nhận ra phần hữu cơ còn
lại của mình. Nhưng lạ kỳ thay ở Dostoevsky không chỉ có phần phương Tây
duy lý và thực tế mà còn có cả phần phương Tây duy cảm và hoài nghi không
ngừng về mọi giá trị của sự tồn tại. Người ta đi đến nhiều sự đồng thuận trong
việc khám phá tư tưởng của Dostoevsky để rồi từ đó tìm đến nhiều sự đồng
thuận trong quan điểm về Đức tin và về loài người.
Cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, một số quan niệm triết học –
lịch sử, tôn giáo – đạo đức và mỹ học về sáng tác của Dostoevsky được nêu
lên trong những công trình nghiên cứu của K.N.Leont’ev, N.A.Berdjaev,
Vjach.I.Ivanov, H.M.Zernovun và những thay mặt khác của tư tưởng triết học
Nga. Những tìm tòi về mặt tôn giáo – đạo đức của Dostoevsky là cái trục mà8
xung quanh nó đã hình thành nền triết lý đạo đức của nước Nga trên ranh giới
giữa hai thế kỷ góp phần tích cực trong sự phục hưng tinh thần Nga ở đầu thế
kỷ sau. Những vấn đề về một nước Nga mới và về giới trí thức Nga trong tư
tưởng của Dostoevsky cũng được phân tích thấu đáo trong trường so sánh đối
chiếu đối với truyền thống văn hóa Kitô giáo, đặc biệt là Chính thống giáo.
Cũng theo hướng tiếp cận văn hóa học như vậy, Ernest J. Simmons trong
cuốn Dostoeski: The making of a novelist và George Pattison, Diane Oenning
Thompson trong cuốn Dostoevsky and the Christian tradition đã chỉ ra những
điểm tương hợp về mặt motip trong các tác phẩm của Dostoevsky và Kinh
Thánh, từ đây khái quát và khẳng định một cách “giải mãi” tư tưởng của ông
trong chiều sâu tư tưởng của triết học tôn giáo. Vì thế, dù Dostoevsky là nhà
văn Nga, định cư và sáng tác trên đất Nga nhưng tư tưởng của ông đã gây ảnh
hưởng sâu rộng đối với một lớp không nhỏ trí thức phương Tây. Dostoevsky
được coi là nhà tiên tri, nhà tư tưởng vĩ đại không chỉ của nước Nga mà còn
của cả phương Tây.
Tuy vậy, lúc sinh thời, Dostoevsky không khi nào nhận mình là một
nhà tư tưởng hay một nhà xã hội chủ nghĩa. Ông chỉ nhận mình là một nhà
văn vì con người. Gắn mình vào dòng chảy bất tận của tín ngưỡng Chính
thống giáo Nga, Dostoevsky rao giảng những tín hiệu về thời đại công bình
mới nơi con người trưởng thành từ cuộc đấu tranh với chính mình chiêm
nghiệm và làm chủ những nguyên tắc đạo đức được gìn giữ trong văn hóa
truyền thống.
Ở Việt nam, tác phẩm Tội ác và trừng phạt là tác phẩm đầu tiên của
Dostoevsky được dịch sang tiếng Việt. Đó là những năm 80, sau khi rất nhiều
tác phẩm của các nhà văn Nga khác như Gogol, L.Tolstoy, Chekhov … được
dịch và đọc rộng rãi trong giới trí thức. Có lẽ thế giới trong văn Dostoevsky
đối với độc giả Việt nam lúc đó còn là quá xa lạ, con người trong văn9
Dostoevsky còn quá kỳ dị mà độc giả thì lại đang quen với văn phong nhẹ
nhàng đậm chất lãng mạn ảnh hưởng từ phong cách Pháp. Tuy vậy, nhiều
người trong giới trí thức đã đọc Dostoevsky và say mê ông từ trước thời kỳ
đó. Nhờ có việc chuyển ngữ, đặc biệt từ hai ngôn ngữ tiếng Pháp và tiếng Nga
và một số các tác phẩm của Dostoevsky được giới thiệu rộng rãi hơn ở Việt
nam. Bên cạnh việc đọc và say mê Dostoevsky, người đọc Việt nam dần được
tiếp cận với những chuyên luận nghiên cứu về thi pháp nghệ thuật
Dostoevsky được dịch ra tiếng Việt như Những vấn đề thi pháp Dostoevsky
(Bakhtin) và Dostoevsky cuộc đời và sự nghiệp (L.Grossman) hay tổng tập
các bài viết, bài nghiên cứu về tư tưởng của Dostoevsky như Sáng tác của
Dostoevski – những tiếp cận từ nhiều phía và Ba bậc thầy Doxtoevxki,
Balzac, Đickenx (Stefan Zweig). Những bài viết về vai trò và tầm ảnh hưởng
sâu rộng của Dostoevsky đối với nước Nga và đối với phương Tây nói chung
cũng được dịch và đăng tải rộng rãi trên các tạp chí chuyên ngành, trong đó,
nổi bật nhất là bản dịch Ba diễn từ tưởng niệm Dostoevsky (Vladimir
Soloviev) của Phạm Vĩnh Cư đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài số 6 năm
2001 và Tâm hồn Nga (N.A.Berdiaev) đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài
số 6 năm 2003. Các tác phẩm của Dostoevsky bắt đầu được giới nghiên cứu
văn học Việt nam quan tâm và phân tích không chỉ bằng phương pháp tự sự
học hay thi pháp học mà gần đây, còn được soi chiếu dưới cái nhìn từ phía
văn hóa học. Tuy chưa có công trình nào được dịch hay được nghiên cứu đi
vào nghiên cứu một tác phẩm cụ thể của Dostoevsky bằng phương pháp văn
hóa học nói trên nhưng những tư tưởng của Dostoevsky về tôn giáo và văn
hóa truyền thống Nga luôn được các nhà nghiên cứu nói tới như một đặc điểm
không thể bỏ qua khi khái lược về phong cách nghệ thuật cũng như cuộc đời
và sự nghiệp của nhà văn vĩ đại này.10
Vì thế, công trình nghiên cứu những ảnh hưởng của truyền thống Kitô
giáo trong tiểu thuyết Nghệ nhân và Magarita của Bulgacov của PGS. TS.
Phạm Gia Lâm đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 2 năm 2007 đã gợi ý
cho chúng tui một cách thức nghiên cứu tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov
trên cơ sở tổng hợp và phân tích những thủ pháp nghệ thuật đưa Thánh Kinh
vào tiểu thuyết như là một phương tiện hữu hiệu nhất để biểu đạt tư tưởng của
Dostoevsky.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ sẽ tập trung vào tổng hợp và phân tích những thủ pháp đưa
Thánh kinh vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm Anh em nhà Karamazov
như không – thời gian, cốt truyện huyền thoại, hình tượng nghệ thuật và cách
sử dụng biểu tượng và châm ngôn Kinh thánh trong diễn ngôn của nhân vật…
qua đó làm rõ hệ thống quan điểm triết học – mỹ của nhà văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tui sẽ áp dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận văn bản như
tiếp cận liên văn bản, văn hóa học, thi pháp học, thi pháp học lịch sử… và
những thao tác cụ thể như so sánh, thống kê… để tìm ra những đặc điểm thi
pháp của Dostoevsky trên cơ sở phân tích những mối liên hệ và ảnh hưởng
của Kinh Thánh đối với cấu trúc của tác phẩm Anh em nhà Karamazov.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu
3 chương:
Chương 1: Chính thống giáo và chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX
Chương 2: Hệ thống quan điểm triết – mỹ của F.Dostoevsky
Chương 3: Những thủ pháp đưa Kinh thánh vào cấu trúc nghệ thuật của
Anh em nhà Karamazov11
Chƣơng 1:
Chính thống giáo và chủ nghĩa hiện thực Nga
thế kỷ XIX
1.1. Chính thống giáo trong hệ thống giáo hội
1.1.1. Kitô giáo
Kitô giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất và lâu đời nhất khởi nguồn
từ Abraham, bên cạnh Do Thái giáo và Hồi giáo.
Abraham, theo truyền thuyết ghi lại trong sách Sáng thế ký của Thánh
Kinh, là tổ phụ của dân Do Thái và dân Ả rập, được chính Thiên Chúa gọi và
phán rằng: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ
cho ngươi” (18, 51). Và ông Abraham đã ra đi theo lời mà Đức Chúa đã phán
với ông, đến vùng đất Canaan – vùng đất mà ở đó Đức Chúa đã xác lập một
giao ước với ông về dòng dõi của ông và vùng đất của họ. Từ đây, dòng dõi
của ông Abraham cũng xác lập một giao ước tôn thờ duy nhất một Thiên
Chúa là Đức Chúa tại vùng Canaan thuộc Palestin thông qua nghi thức cắt bì
nơi bao quy đầu. Điều này có nghĩa rằng, Đức Chúa đã xác lập một tôn giáo
duy nhất lên dòng tộc xuất phát từ Abraham. Điều này cũng có nghĩa rằng các
dân tộc khởi nguồn từ Abraham đã xác quyết một niềm tin tuyệt đối vào Đức
Chúa là Thiên Chúa của mọi tạo vật.
Do Thái giáo là nền tảng cơ bản của Kitô giáo và Hồi giáo và là gốc
đạo của người Do Thái. Do Thái giáo thiết lập niềm tin dựa trên giao ước giữa
Thiên Chúa và ông Abraham trong kinh Cựu Ước và tuyệt đối tôn trọng việc
học hỏi các tín điều đã ghi trong Ngũ thư Kinh thánh hay còn gọi là sách
Torah gồm 5 quyển đầu của Cựu Ước là Sáng thế – Xuất hành – Lê vi – Dân
số – Đệ nhị luật. Ngoài ra, nó còn tiếp nhận một hệ thống văn bản khác làm12
Sách Thánh giúp cho việc định chế các tín luật nghiêm khắc cho cộng đồng
Do Thái.
Vào khoảng năm 33 sau CN, cách Jerusalem – thủ phủ của đạo Do Thái
– không xa, có một người không rõ nguồn gốc, tên là Jesus Christ đã bị chính
quyền La Mã xử tội hành hình với hình thức cao nhất là đóng đinh câu rút lên
cây thập giá về tội truyền bá niềm tin rằng có một Vương quốc Thánh thần –
Vương quốc của Thiên Chúa và có một Đấng cứu tinh chính là Jesus Christ
xuất hiện để lãnh đạo dân tộc Do Thái đứng lên đoạt lại tự do và xây dựng
Vương quốc của Thiên Chúa trên quê hương của họ. Sau cái chết của Jesus,
những tông đồ của Jesus ngỡ ngàng nhận ra rằng Vương quốc mà Thiên Chúa
hứa cho dân tộc Do Thái và những dân tộc khác theo lời Jesus không hề tồn
tại. Tuy vậy, việc Đấng Jesus sống lại vào ngày thứ ba sau cuộc hành hình để
truyền giảng cho các tín đồ của Ngài về Nước Chúa lại củng cố niềm tin cho
họ và giúp họ vượt qua khỏi những bách hại tàn khốc của những người theo
Do Thái giáo khác. Cuộc hành hình và sự phục sinh của đấng Jesus Christ
được thuật lại trong sách Phúc Âm, còn gọi là sách Tân Ước, gồm 4 cuốn Tin
Mừng Mathew, Maco, Luca và Gioan. Từ Jesus Christ, một đạo giáo mới
hình thành gọi là Kitô giáo (Christiany) hay còn gọi là Cơ Đốc giáo.
Người khởi xướng và có công truyền bá đức tin Kitô ra các cộng đồng
khác ngoài Do Thái là Thánh Paul (Saul, Phao – lô, Sứ đồ Phao – lô). Paul là
người Israel thuộc chi phái Benjamin, có quốc tịch La Mã. Paul, cũng như
những tín đồ Do Thái khác đều thất tin ở học thuyết của Đức Jesus nên coi
Kitô giáo như một dị giáo ngoài Do thái giáo. Nhưng chính bản thân Paul,
trên đường đi bức hại những tín đồ Kitô giáo ở thành Damacus, đã trải qua
một cuộc cải hoàn kỳ diệu từ một người mắc chứng mù lòa trở nên sáng mắt
trở lại. Paul coi đây là ơn huệ đặc biệt mà đấng Messiah – Jesus tối cao đã
dành cho ông. Từ đây ông chấp nhận cải đạo Thiên Chúa, chấp nhận Jesus là13
hiện thân xác thịt của Thiên Chúa và là con của Thiên Chúa. Trong Thư gửi
tín hữu Roma, Thánh Paul viết rằng: “tui là Phao-lô, tui tớ của Đức Kitô
Jesus; tui được gọi làm Tông đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của
Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà
hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về con của Người là Đức Jesus
Kitô , Chúa của chúng ta.” Và “Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để
cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do Thái, sau là người Hy Lạp. Vì
trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin
để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được
sống” [18, 1934] “Người (Thiên Chúa) cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại
(ngoài dân Do Thái) nữa, vì chỉ có một Thiên Chúa, Đấng làm cho người
được cắt bì nên công chính vì họ tin, và làm cho người không được cắt bì nên
công chính cũng bởi họ tin” [18, 193]. Bởi người ngoại hay người Do Thái
đều phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa bất kể có Luật Mô-sê, phép cắt bì
hay có lời hứa của Thiên Chúa hay không. Như vậy là người được cắt bì – tín
hữu Do Thái giáo theo Cựu Ước, và người không được cắt bì – tín hữu Kitô
tin vào Chúa Jesus, cũng đều được hưởng đặc ân của Thiên Chúa như nhau
cũng như cùng được Người trao cho niềm tin để trở nên công chính giống như
Người như nhau.
Paul và mười hai sứ đồ đã lãnh nhận trách nhiệm truyền bá đức tin này
ra các cộng đồng ngoài Do Thái và cả đối với cộng đồng Do Thái để ai cũng
được trở nên công chính như Thiên Chúa.
Từ thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên, cùng với hành trình truyền giáo
của các tông đồ Kitô, Kitô giáo tách khỏi Do Thái giáo và nhanh chóng lan
truyền tới những vùng đất mới trong suốt thời kỳ đế chế La Mã, thông qua Ai
Cập đến Bắc Phi, Sudan; thông qua vùng Lưỡng Hà đến Ba Tư, Nội Á, và Ấn
Độ; thông qua Hy Lạp và La Mã đến Châu Âu. Hội thánh nguyên khởi được14
xác lập bởi cộng đồng Do Thái và cộng đồng Hy Lạp. Cộng đồng Do Thái
quy tụ ở Jerusalem muốn duy trì một số tập tục và nghi lễ cổ như lễ cắt bì
nhằm bảo tồn tôn giáo của mình trong khi cộng đồng Hy Lạp lại chủ trương
truyền bá đức tin Jesus Kitô tới những vùng đất khác nhau theo những
phương cách phù hợp hơn. Vì thế mà Kitô giáo, vượt qua khoảng không hạn
hẹp của thành Jerusalem, vươn tới những vùng đất rộng lớn khác và nhanh
chóng trở thành quốc giáo của một quốc gia rộng lớn dưới thời Constantine.
Trong hơn 300 năm đầu đấu tranh để sinh tồn, Kitô giáo đã vấp phải
một làn sóng phản đối tàn bạo tại các nước phương Đông, đứng đầu là La Mã.
Đế quốc La Mã trực tiếp kế thừa đế quốc Hy Lạp do Alexander Đại đế gây
dựng lên từ thế kỷ thứ III trước CN nên văn minh La Mã thực chất vẫn là văn
minh Hy Lạp. Dân chúng La Mã, vì vậy, vẫn thờ cúng toàn thể các thần linh
trong hệ thống các thần Hy Lạp nhất là thần Mặt trời Apolon. Cùng với sự
bành trướng của đế chế La Mã là sự gia nhập của một số thần của người Ai
Cập, Hy Lạp hay Ba Tư khác vào hệ thống các thần được thờ cúng như thần
Mặt trời Mitra của người Ba Tư, Nữ thần phì nhiêu Kibela của Hy Lạp và Nữ
thần tình yêu Ixida của người Ai Cập. Vì thế việc giáo dân Kitô không tuân
theo những nghi lễ tôn kính các thần linh của người La Mã là việc không thể
chấp nhận được. Hoàng đế Neron, năm 60 sau CN, đã quy cho dân theo đạo
Kitô tội đốt thành La Mã, giam cầm giáo dân và giết chết Thánh Pier và Paul.
Cuộc tàn sát này ngầm xác quyết một bản án tử hình cho những người theo
đạo Kitô và mở đầu cho một giai đoạn thanh trừ tôn giáo đẫm máu kéo dài
cho đến thời hoàng đế Constantine I.
Với một Kitô hữu, những đau khổ mà họ nếm trải cũng chỉ giống như
là đấng Jesus tối cao của họ đã nếm trải. Họ tin vào sự phục sinh trở lại cũng
như đấng Jesus đã thực sự phục sinh trở lại. Và như thế, con đường đau khổ
mà cộng đồng Kitô hữu đã đi qua suốt chiều dài 300 năm cũng là con đường15
mà đấng Jesus đã đi, trên đường đến với Nước Chúa, đến với sự Phục Sinh.
Điều đó có nghĩa rằng các cuộc bách hại chỉ là những đau khổ mà họ phải
chịu đựng trên đường tới Nước Chúa mà thôi, giống như dụ ngôn của Thiên
Chúa với ông Abraham: “Ngươi phải biết rằng: dòng dõi của ngươi sẽ trú
ngụ trong một đất không phải của chúng. Chúng sẽ làm tui người ta và người
ta sẽ hành hạ chúng bốn trăm năm. Nhưng Ta sẽ xét xử dân tộc chúng phải
làm tôi, và sau đó chúng sẽ ra đi với nhiều tài sản” [18, 55]
Sự kiện hoàng đế Constantine I cùng với các hoàng đế phương Đông
ký kết chiếu chỉ Milan vào năm 313 đã chấm dứt thời kỳ bách hại khốc liệt
của các bậc đế vương đối với Kitô giáo, xác lập quyền tự do tôn giáo đối với
các tín hữu Kitô trên toàn thế giới. Kitô giáo đã giữ vững được sự đồng thuận
trong cộng đồng tín hữu của mình cũng như các giáo lý nền tảng đến thế kỷ
này không chỉ vì niềm tin duy nhất vào sự thống nhất các dân tộc trên toàn thế
giới dưới quyền năng Thiên Chúa mà còn vì niềm tin vào sự bất diệt của Đạo.
Mỗi cuộc bách hại khốc liệt giáng xuống một cộng đồng Kitô hữu đều cướp
đi sinh mạng của ít nhất là một người truyền giáo. Nhưng sau mỗi cuộc bách
hại, sức mạnh của niềm tin lại càng được gia tăng thêm, vững chắc hơn, bởi
những người tử vì đạo kia là hiện thân cho niềm hy vọng vào sự phục sinh trở
lại. Và bởi vì đấng Jesus Christ chính là minh chứng xác tín nhất cho sự phục
sinh thần thánh đó.
“Vào năm 324, sau khi hoàng đế Constantine I bình định xong phần
phía đông của La Mã và tự công nhận mình là người theo đạo Cơ Đốc (Kitô),
ông đã cho xây dựng trên vùng lãnh thổ Byzantine một thành phố và trong
thành phố này, ông cho xây dựng một nhà thờ thờ thánh Sophia. Bên cạnh đó,
hoàng đế Constantine I còn trao thành phố Constantinople trở thành thành
phố thủ phủ của đạo Cơ Đốc trong vòng 1000 năm. Constantine đã coi việc16
thiết lập sự thống nhất trong hàng ngàn những thần dân theo đạo Cơ Đốc là
trách nhiệm cứu tinh của mình.” [34, 67]
Hoàng đế Constantine I và những đời hoàng đế nối dõi ngài đã dần loại
trừ những tôn giáo khác, đưa Kitô giáo lên vị trí quốc giáo (năm 380), kêu gọi
cộng đồng tín hữu liên kết lại dưới một mái nhà tôn giáo chung cho tất thảy
mọi người.
Đạo Kitô trở nên hấp dẫn như vậy là do ngay từ khi vươn ra khỏi Do
Thái giáo, Kitô giáo đã có xu hướng thu nạp vào nó những giá trị nhân đạo tốt
đẹp, thích ứng với đời sống tình cảm của con người. Người ta tìm thấy ở hình
ảnh Đức Chúa Jesus đau khổ hình ảnh của nỗi thống khổ và đồng thời cũng là
hình ảnh của sự cứu rỗi, rằng đấng Jesus sinh ra để gánh đỡ mọi tội lỗi cho
loài người và cũng là để cứu rỗi loài người. Hoàng đế Constantine I, tuy cải
đạo Kitô nhưng trong tâm trí ông vẫn xảy ra cuộc đấu tranh giữa Thần Mặt
Trời và Chúa su Jesus Christ. Cuối cùng thì ông cũng ra chiếu chỉ phán quyết
rằng ngày lễ Thần Mặt Trời cũng là ngày tháng thích hợp để tổ chức Lễ Giáng
Sinh của Jesus Christ. Trong hệ tư tưởng của đạo Kitô, người ta cũng tìm thấy
tinh thần tôn kính Người Mẹ và niềm hy vọng vào sự trường tồn bất diệt ở
đạo Kibela và Ixida trong hình ảnh của Đức Mẹ Đồng Trinh Maria và đấng
Cứu Thế Jesus Christ.
Trên đỉnh cao của sự tôn vinh đó, một nền khoa học thần học Kitô dần
hình thành. Giáo dục trong hệ nhà thờ không chỉ dừng lại ở việc truyền dạy
giáo lý mà còn truyền dạy cả những khoa học khác như y học, triết học và luật
học. Các cuộc tranh biện thần học tuy có gây ra những cách hiểu khác nhau
về bản thể của Thiên Chúa trong các cộng đồng nhỏ nhưng về cơ bản Kitô
giáo vẫn phát triển theo hướng thống nhất, dựa vào Kinh thánh và giáo luật
được ghi trong Kinh thánh.
Raskolnikov phát điên với cảnh bần hàn của anh ta và lệ thuộc vào học thuyết điên rồ của anh ta rằng tội ác luôn khuyến khích những kẻ bất bình thường đóng vai một kẻ giết người vì tiền. Tiểu thuyết đi sâu vào cuộc đấu tranh bên trong giữa lương tâm của anh ta với các thuyết lý phi đạo đức. Trong Gã khờ (1868) nhân vật chính Myshkin đã thử kết hợp giữa cuộc đời đầy tội lỗi với những phẩm cách của Chúa; ở đấy Dostoevsky đã phân tích sự tan vỡ tâm hồn bên trong “một con người hoàn toàn tốt đẹp”. Chủ đề của cuốn Anh em nhà Karamazov (1879–1880) cũng tái hiện sự tìm kiếm Chúa và niềm tin vào thế giới ám ảnh với vật chất và sự bất kính, thể hiện trong mối xung đột giữa niềm tin tôn giáo và chính bản thân anh ta, khi anh ta chối bỏ thế giới của Chúa bởi vì nó đầy rẫy sự vô cảm với nỗi thống khổ của loài người. Không giống như Dostoevsky, L.Tolstoy luôn là một người dẫn dắt sự thật. Bức tranh đời sống trong sáng tác của Tolstoy luôn mới mẻ, sống động nhờ sự quan sát phong phú và tinh tế của ông trước mọi biến thiên dù là nhỏ nhất trong cuộc sống thực. Những tác phẩm đầu tay của Tolstoy chỉ là đề dẫn cho cuốn tiểu thuyết đồ sộ Chiến tranh và hòa bình (1863–1869). Tác phẩm đậm chất sử thi này tập trung phản ánh mối quan hệ giữa năm gia đình trong khoảng thời gian từ 1805-1820. Cuộc chiến chống Napoleon năm 1812 được trình bày trong phối cảnh tư tưởng xã hội đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ triết học lịch sử, khoa học chiến tranh và các học thuyết về sự tồn tại của con người tự nhiên. Cuốn tiểu thuyết tiếp theo, Anna Karenina (1873–1877), là một trong số những câu chuyện hay nhất về tình yêu và cũng là cuốn tiểu thuyết khắc sâu sự cô độc của con người cá nhân trong xã hội. Tình yêu vị kỷ của nàng Anna Karenina cuối cùng lại đưa tới cho nàng lối giải thoát bằng cái chết chứ không phải một cuộc sống hạnh phúc mà nàng ao ước. L.Tolstoy có vẻ như luôn bị ám ảnh bởi cái chết cũng giống như Dostoevsky luôn bị ám ảnh về sự điên loạn của con người vậy. Nhân vật Andrey trong Chiến hòa bình cũng hơn một lần cảm giác cái chết. Nhân vật Anna Karenina thì có dự cảm về cái chết ngay từ lần đầu tiên nàng chen chân xuống sân ga. Và cả Andrey, cả Anna trước khi chết đều vùng vẫy chống trả lại cuộc sống, cho đến khi bước vào cái chết, họ lại thức tỉnh, ham sống và ý thức được giá trị cao đẹp của cuộc sống. L.Tolstoy đã đạt tới một chủ nghĩa hiện thực của riêng mình, nói như V.Lenin, là thứ “chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo nhất” (27, tr 153) Ở thể loại truyện ngắn, Anton Pavlovich Chekhov (1860–1904) và Maxim Gorky (Aleksey Maksimovich Peshkov) (1868–1936) là hai nhà văn nổi trội nhất về bút pháp hiện thực. Sáng tác của họ tập trung phản ánh những bất công trong xã hội cũng như thân phận tội nghiệp của những con người dưới đáy tầng xã hội. Bút pháp hiện thực trào phúng của Chekhov gần với bút pháp của Gogol hơn là của Gorky. Vẫn là những nhân vật có xuất thân từ nhân dân lao động, nhưng nhân vật của Chekhov dị thường, thô ráp thậm chí còn kệch cỡm trong khi nhân vật của Gorky, cuối thế kỷ XIX, luôn đẹp đẽ, khỏe khoắn, giàu chất thơ và tràn đầy lý tưởng cao cả. Các nhà phê bình cho rằng, ở giai đoạn này, Gorky hoàn toàn sáng tác theo phong cách lãng mạn nên “chất hiện thực” hầu như không thể hiện rõ. Nhưng có lẽ những sáng tác thuộc địa hạt “chủ nghĩa lãng mạn” này lại là tiền đề cho những sáng tác “hiện thực” sau này của Gorky. Gorky là nhà văn của nhân dân từ trong huyết quản. Bởi lẽ tinh thần lạc quan có trong Gorky là tinh thần lạc quan của nhân dân, niềm tin vào sự trường tồn bất diệt của lý tưởng hướng về chân lý, về ánh sáng, về sự thật có trong Gorky cũng là niềm tin của nhân dân vào một thời khắc đất nước khởi sáng. Boris Sushkov nói rằng “Những nét tiêu biểu cho chủ nghĩa lạc quan kiểu Gorky là sự thẳng thắn và sự tỉnh táo trong thái độ đối với thế giới, là xu hướng không muốn lẩn tránh việc tìm hiểu và diễn tả cái bi kịch và cái bi thảm thường xuyên nảy sinh trong cuộc sống con người. Đồng thời đằng sau dòng hỗn loạn của các biến cố, đằng sau những biểu hiện rất khác nhau của sự tàn bạo, sự bất công trong cuộc sống, của những bất hạnh, đau khổ và buồn phiền, nhà văn nhìn thấy sự vận động không ngừng, có tính quy luật của những nguyên nhân và hậu quả chuẩn bị điều kiện cho sự loại trừ những đau khổ, bất hạnh ra khỏi tồn tại xã hội của con người.” [2, 369]. Thế kỷ XIX đã kết thúc với một loạt những cuộc cách mạng về văn hóa, với những thành tựu rực rỡ theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa trong thơ, văn xuôi, kịch và phê bình văn học như thế. Đây là thời đại của chủ nghĩa hiện thực và là thời đại nở rộ của văn học hiện thực Nga hướng về nhân dân, hướng về đất nước Nga rộng lớn và giàu văn hóa. Tính nhân dân là đặc điểm nổi trội nhất trong mọi sáng tác văn học dù tác phẩm đó thuộc về phong cách hiện thực hay phong cách lãng mạn. Tính nhân dân thể hiện không phải ở việc các nhà văn đã gắng công phản ánh hiện thực đời sống nhân dân Nga dưới sự áp bức bóc lột tàn tệ của chính quyền phong kiến chuyên chế hay chính quyền tiền tư sản và tư sản. Tính nhân dân thể hiện cao đẹp và sâu sắc nhất chính là ở những yếu tố văn hóa riêng biệt thuộc phong cách sống của nhân dân Nga, những đặc trưng tâm hồn riêng biệt trong mỗi con người Nga và hơn tất thảy là cuộc đấu tranh giành quyền tự do tuyệt đối của dân tộc Nga. Vậy tại sao lại khẳng định chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX là chủ nghĩa hiện thực Kitô giáo? Trong nhiều chuyên luận, biên khảo, những nhà nghiên cứu hầu hết đều nhìn nhận đặc tính nhân dân là đặc tính lớn nhất và tiêu biểu nhất ở văn học hiện thực Nga thế kỷ XIX. Boris Suchkov viết: sức mạnh đạo đức của văn học Nga, tính nhân đạo và tình yêu nhân dân của nó, sự táo bạo của nó trong việc đặt ra những vấn đề có quan hệ trực tiếp với số phận của con người trong xã hội tư hữu, đã biến nó thành một nền văn học thấm nhuần ý thức của nhân dân, và cùng với sự khởi đầu của sự nghiệp cải tạo xã hội chủ Với Dostoevsky, con người là một thể toàn vẹn và độc lập, có những nguyên nhân tồn tại và tha hóa của nó và không ai khác ngoài nó phải chịu trách nhiệm về hành vi cũng như chính sự tha hóa của mình. “Con người là một bí ẩn. Cần tìm ra bí ẩn ấy, và nếu có tìm suốt đời, thì cũng đừng đánh giá là đã mất thì giờ. tui vật vã với nó, vì tui muốn làm người”. Và Dostoevsky nói, khi 17 tuổi: “tui cảm tưởng, thế gian này là nơi tẩy tội của những linh hồn thiên giới đã mờ đục đi do tư tưởng tội lỗi. tui thiết tưởng, thế giới đã chuốc lấy một ý nghĩa tiêu cực và từ tinh thần thanh cao trang nhã hoá thành một trò châm biếm. Con người sao ươn hèn! Hamlet, Hamlet!” [44] Giống như nhân vật Hamlet của Shakespeare, Dostoevsky luôn dày vò về sự bất hoàn thiện của thế giới và con người, khao khát tìm ra nguồn gốc siêu lí của tội lỗi và cái ác. Bởi con người hiện đại cũng giống như con người ở thời kỳ hỗn mang khi còn ở nơi Nước Chúa, chỉ biết tới sự đam mê của riêng mình. Bởi xã hội hiện đại còn ở thời kỳ hỗn mang có đầy đủ những yếu tố cho thấy sự hiểu biết vô cùng của nó nhưng cũng có đầy đủ những yếu tố cho thấy sự bất hoàn thiện của nó trong tư tưởng. Những học thuyết mới như thuyết vô thần, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tự nhiên… xuất hiện dựa vào những quy luật vận động vật lý của xã hội, với Dostoevsky, có lẽ là chưa đủ để lý giải nguồn cơn của mọi sự biến động gây ra sự suy đồi đạo đức và nhân tính trong xã hội. Dostoevsky tìm kiếm một chân lý toàn vẹn hơn, sâu sa hơn để trả lời những câu hỏi thường trực bên trong con người. Dostoevsky tìm về với tôn giáo. Trước hết, đó là tôn giáo về con người, về niềm tin ở con người. Con người trong sáng tác của Dostoevsky có một vị thế đặc biệt. Nó không chỉ là phương tiện chuyển tải tư tưởng của Dostoevsky về cuộc đời. Nó còn là hiện thân của tư tưởng – một thứ tư tưởng hướng tới cái vô tận. Dostoevsky bao giờ cũng miêu tả con người “trên đường biên khi sắp đưa ra quyết định cuối cùng trong thời điểm khủng hoảng, vào thời điểm bước ngoặt chưa hoàn thành và không được ấn định trước của tâm hồn” [3, 61] nên con người, trong sáng tác của Dostoevsky, là con người không toàn vẹn, đầy khiếm khuyết và luôn luôn có sự tự vấn bên trong bản thân nó, với chính nó và về những vấn đề liên quan tới sự tồn tại của nó. Nếu nhân vật của Balzac, Dickens, Wanter Scot là hiện thân của một tính cách toàn vẹn, có nguyên nhân hình thành và quá trình phát triển cũng như kết cục cuối cùng của tính cách; nếu nhân vật của tiểu thuyết Đức luôn hướng tới sự thống nhất, cân bằng với lí tưởng; nếu nhân vật của L.Tolsoy luôn hướng về sự hoàn thiện vốn có của nó từ khi nó sinh ra; thì nhân vật của Dostoevsky “không tìm và không tìm thấy thái độ của mình trước cuộc sống thực tại” [19, 47]. Các nhân vật của Dostoevsky, con người ấy, chỉ có cảm giác về sự tồn tại mà chưa thực sự đối mặt với sự tồn tại của chính họ. Cho nên hiện thực chỉ là một cái gì đó hay phải vượt qua, hay phải chối bỏ chứ không phải để đương đầu với nó. Hầu hết các nhân vật của F.Dostoevsky đều mang trong nó những bất đồng không thể dàn hòa với xã hội bên ngoài nó. Nó phản biện lại xã hội như thể xã hội là thứ chống lại nó chứ không phải là nó đang chống lại xã hội. Từ đó, nó tìm kiếm chân lý về sự tồn tại cá nhân, chân lý về sự công bằng và tự do cho mọi cá nhân khác. Nhưng nó không tìm thấy lý tưởng của cuộc đời nó. Vì thế nó hoài nghi tất cả. Điều này được biện giải rằng, giống như vị thế của nước Nga đối với hai phần Đông và Tây của thế giới, giống như tinh thần của dân tộc Nga đang loay hoay lựa chọn đồng minh của mình là châu Âu hay châu Á ở thế kỷ XIX khi cái nền của nó - chế độ Nga hoàng - sụp đổ, giống như dân tộc Nga còn chưa tìm thấy con đường đi cho mình nên các nhân vật của Dostoevsky vẫn còn đang băn khoăn do dự lựa chọn cho nó một tư tưởng để theo đến cùng. Các nhân vật của Dostoevsky, như Ivan Karamazov, Raskolnikov, Kirilov, khi nói về các học thuyết xã hội, chủ nghĩa vị tha, chủ
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Nhà xuất bản: ĐHKHXH & NV
Ngày: 2009
Chủ đề: Kitô giáo
Văn học Nga
Văn học nước ngoài
Miêu tả: 103 tr. + CD-ROM
Luận văn ThS. Văn học nước ngoài -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009
Khái quát về Kitô giáo, chính thống giáo trong hệ thống giáo hội, kinh thánh và văn học Nga, chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX - chủ nghĩa hiện thực Kitô giáo. Trình bày các quan điểm đạo đức – thẩm mỹ và tôn giáo của Dostoevsky về “bản chất” con người, về Quỷ, Thượng đế, sự bất tử. Giới thiệu về vai trò của Thánh kinh trong việc hình thành ý đồ tư tưởng và cấu trúc nghệ thuật của “anh em nhà Karamazov”. Tìm hiểu và phân tích những thủ pháp đưa Kinh thánh vào cấu trúc nghệ thuật của tiểu thuyết “anh em nhà Karamazov” bao gồm: tính chất hai bình diện không gian, thời gian và cốt truyện; vay mượn trực tiếp cốt truyện và huyền thoại của Thánh kinh; những ám gợi và song chiếu của hình tượng nghệ thuật trong mối liên hệ với Kinh Thánh; những chi tiết dáng nhân vật; biểu tượng và châm ngôn của Kinh Thánh trong diễn ngôn của nhân vật…
MỤC LỤC
Mở đầu…………………………………………………………………… 3
Chƣơng 1: Chính thống giáo và chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ
XIX………………………………………………………………………… 10
1.1.1. Kitô giáo…………………………………………………………….
1.1.2. Chính thống giáo trong hệ thống giáo hội………………………….
10
16
1.1.3. Kinh thánh và văn học Nga………………………………………. 27
1.1.4. Chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX – chủ nghĩa hiện thực Kitô
giáo?……………………………………………………………………… 33
Chƣơng 2. Hệ thống quan điểm triết-mỹ của F. Dostoevsky………….. 44
2.1. Các quan điểm đạo đức-thẩm mỹ và tôn giáo của Dostoevsky về “bản
chất” con người, về Quỷ, Thượng Đế, sự bất tử………………………….. 45
2.2. Vаi trò của Thánh kinh trong việc hình thành ý đồ tư tưởng và cấu
trúc nghệ thuật của “Anh em nhà Karamazov”………………………………. 59
Chƣơng 3. Những thủ pháp đƣa Kinh thánh vào cấu trúc nghệ thuật
của tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov………………………………… 65
3.1. Tính chất hai bình diện không-thời gian và cốt truyện; …………….. 65
3.2. Vay mượn trực tiếp cốt truyện và huyền thoại của Thánh kinh…….. 69
3.3. Những ám gợi và song chiếu của hình tượng nghệ thuật trong mối
liên hệ với Kinh Thánh………………………………………………….. 77
3.4. Sử dụng trực tiếp hình tượng từ Kinh thánh………………………. 83
3.5. Những chi tiết dáng nhân vật ………………………………..... 85
3.6. Biểu tượng và châm ngôn của Kinh thánh trong diễn ngôn của nhân
vật…………………………………………………………………………. 91
Kết luận…………………………………………………………………… 97
Tài liệu tham khảo………………………………………………………... 99
Phụ lục…………………………………………………………………….. 1044
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Sau hai thế kỷ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự bất ổn xã hội, văn học
Nga đã bước vào thời kỳ phát triển vượt trội ở thế kỷ XIX đem tới cho văn
học thế giới những tên tuổi nổi bật như A.Pushkin, M.Lermontov, N.Gogol,
L.Tolstoy, F.Dostoevsky, Ivan Turgenev… Chưa khi nào, trong lịch sử, văn
học Nga lại có sự nỗ lực cách tân sâu rộng và toàn diện trên tất cả các thể loại
như ở thời kỳ này. Gorky tự hào viết: “Trong lịch sử phát triển của nền văn
học châu Âu, nền văn học trẻ tuổi của chúng ta là một hiện tượng kì lạ;”
“không có nơi nào mà chỉ trong non một thế kỉ đã hiện lên cả một quầng sao
rực rỡ của những tên tuổi vĩ đại như ở Nga và cũng không nơi nào đông đảo
những nhà văn tuẫn đạo như ở nước ta” [23, 10]. Sau một thế kỷ vàng son,
văn học Nga đã góp vào kho tàng văn chương thế giới rất nhiều tác phẩm lớn
mang hơi thở thời đại như Những linh hồn chết, Chiến tranh và hòa bình, Tội
ác và trừng phạt… Văn học Nga thế kỷ XIX có sự gắn bó chặt chẽ với sự vận
động và tiến lên của xã hội Nga, phản ánh kịp thời và sâu sắc những biến
động lớn lao trong đời sống nhân dân Nga. Vì thế, hơn tất cả những thời kỳ
khác, nhà văn Nga được nhân dân tin yêu tuyên xưng với những tên gọi cao
quý như “người chiến sĩ”, “nhà lãnh tụ”, “người bảo vệ nhân dân” và là “nhà
tư tưởng” của dân tộc Nga.
Trong lĩnh vực tiểu thuyết, L.Tolstoy và F.Dostoevsky là hai nhà văn
lớn nhất và được nhiều học giả coi là hai tiểu thuyết gia vĩ đại nhất của mọi
thời đại. Tư tưởng của họ không những có ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống
văn học trong và ngoài nước Nga mà còn khơi nguồn sáng tạo cho những trào
lưu văn học mới xuất hiện ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Tác phẩm của5
F.Dostoevsky đặc biệt ghi dấu sự đấu tranh giữa các học thuyết xã hội chủ
nghĩa mới đang hình thành và phát triển trong lòng xã hội Nga cũng như châu
Âu với truyền thống văn hóa của một nước Nga cổ. Nếu L.Tolstoy là nhà văn
của nhân dân Nga thì Dostoevsky là nhà văn của tư tưởng Nga, luôn tuyên
xưng một nước Nga mới trong vị thế của một dân tộc được Chúa tuyển chọn.
Ở Dostoevsky, tinh thần Nga thể hiện đầy đủ và toàn vẹn nhất ngay cả ở
những khía cạnh dị thường nhất của nó. Dostoevsky không chỉ là nhà tư
tưởng mà còn là “người quy tụ trái tim Nga” [31, 295], là một người Nga
chính thống với truyền thống tinh thần và lý tưởng gắn liền với niềm tin yêu
vô tận đối với Chúa Jesus và Con người.
F.Dostoevsky tham gia văn đàn Nga với tác phẩm đầu tiên “Những kẻ
bất hạnh” (1845) mang bóng dáng của “con người nhỏ bé” trong các tác
phẩm của Pushkin và Gogol. Tác phẩm ngay lập tức thu hút sự chú ý của dư
luận xã hội. Nước Nga biết đến một chiều sâu tâm hồn bên trong của những
“con người nhỏ bé” mà trước đó, ở các tác phẩm Puskin hay Gogol, nó chưa
toàn vẹn. Tiếp đó, những năm 40 của thế kỷ này, Dostoevsky viết “Trường ca
Peterburg”, “Người hai mặt” khắc họa sâu thêm bi kịch cuộc đời của những
con người ở tầng đáy xã hội. Đến “Bút ký từ ngôi nhà chết” (1861-1862), thế
giới của những “con người biến chất” bắt đầu được khai mở, vấn đề Thiện –
Ác được miêu tả trong một diễn trình tâm lý phức tạp. Ghersen từng gọi “Bút
ký từ ngôi nhà chết” là “cuốn sách rợn người” chẳng khác tác phẩm “Địa
ngục” của Dante hay bức họa “Ngày phán xử cuối cùng” của Mikenlange. Ở
tác phẩm “Tội ác và trừng phạt” (1866), Dostoevsky đã miêu tả không chỉ sự
vận động và biến đổi của một nước Nga tư bản mà còn cả những trường tư
tưởng mới vừa xuất hiện trong lòng xã hội châu Âu. Bên cạnh hình tượng
“con người nhỏ bé” hay “con người biến chất”, đến tác phẩm này, Dostoevsky
đã khái quát trọn vẹn hình tượng “con người nổi loạn” với đầy đủ các góc6
cạnh tâm lý cũng như động cơ của nó. Cái Ác và kẻ đồng lõa của nó là nỗi
thống khổ, một lần nữa, bị lên án gay gắt, bị kết tội rồi bị trừng phạt bằng sự
sám hối ăn năn trong chính bản thể chứa đựng nó.
Năm 1880, tác phẩm Anh em nhà Karamazov ra đời mang tới cho thế
giới dáng toàn vẹn của kiểu “con người hoài nghi” nổi loạn chống lại
chính đức tin của mình. Đây là tác phẩm cuối cùng và là một kiệt tác xuất sắc
nhất của Dostoevsky. Tác phẩm thể hiện đỉnh cao tài năng của nhà văn trong
việc gắn kết những yếu tố nghệ thuật khác loại, nâng tầm khái quát hiện thực
lên tầm cao tư tưởng triết lý nhân loại. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết có kết
cấu minh bạch nhất, giàu chi tiết nhất của ông, nói như Sigmund Freud “đây
cuốn tiểu thuyết tráng lệ nhất”, là cuốn tiểu thuyết “triết lí” của nhà văn dâng
hiến cho lý tưởng tôn vinh Con người. Bằng tiểu thuyết và thông qua tiểu
thuyết, Dostoevsky giải đáp những câu hỏi lớn về vấn đề Đức tin của con
người trước Đấng tối cao, số phận, bản thân con người, trước quan niệm về sự
sống, cái chết, cõi thiên đường hay địa ngục trong trường thuyết lý tôn giáo –
đạo đức sâu sắc. Vì thế chúng tui lựa chọn và phân tích vấn đề “Motip Kitô
giáo trong “Anh em nhà Karamazov” của F.Dostoevsky mong góp thêm một
hướng tiếp cận hữu hiệu đối với kiệt tác này cũng như đối với phong cách
nghệ thuật tuyệt vời của Dostoevsky.
2. Ý nghĩa của đề tài
Việc chỉ ra những thủ pháp nghệ thuật đem Kinh Thánh vào tiểu thuyết
“Anh em nhà Karamazov”, không chỉ góp một cách tiếp cận đối với tác phẩm
cuối cùng của Dostoevsky mà còn góp phần xác lập phương pháp nghiên cứu
văn hóa học trong nghiên cứu văn học.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Dostoevsky đột ngột ra đi trong khi vẫn đang còn quá nhiều băn khoăn
day dứt chưa giải đáp hết với cuộc đời. Không lâu sau một ngành khoa học7
nghiên cứu trước tác của nhà văn vĩ đại này bắt đầu hình thành và phát triển
không ngừng. Người ta tìm thấy trong tư tưởng của Dostoevsky những thuyết
lý có tính tiên báo về một thời đại xã hội vượt trước cả thời đại ông và có khi
còn xa hơn cả thời hiện đại. Dostoevsky khiến người ta say mê hơn là ngưỡng
mộ, khiến người ta cảm động hơn là thương cảm. Tìm đến tác phẩm của
Dostoevsky là tìm đến với chính tâm hồn mình, bởi hơn tất cả, lý tưởng vì con
người ở Dostoevsky luôn được đặt ở vị thế cao nhất, đẹp đẽ và vinh quang
nhất.
Khi Dostoevsky xuất hiện, thế giới ngỡ ngàng và thán phục tài năng
của ông. Belinsky - nhà phê bình văn học Nga lỗi lạc – đã từng mỉm cười
hạnh phúc thốt lên những lời ngợi khen sau lần đọc tiểu thuyết đầu tiên của
Dostoevsky. Rồi khi bình tĩnh lại, người ta hoài nghi Dostoevsky như một
người “đến để chia rẽ thế giới” bởi tầm vóc của Dostoevsky quá lớn. Người ta
bắt đầu nghiên cứu tư tưởng của Dostoevsky trong trường Đức tin của ông rồi
bàng hoàng nhận ra ông hiền lành như một thánh hài đến và đem theo lời tiên
cảm tốt đẹp cho loài người. Phương Đông nghiên cứu tư tưởng của ông để
nhận ra mình. Còn phương Tây nghiên cứu ông để nhận ra phần hữu cơ còn
lại của mình. Nhưng lạ kỳ thay ở Dostoevsky không chỉ có phần phương Tây
duy lý và thực tế mà còn có cả phần phương Tây duy cảm và hoài nghi không
ngừng về mọi giá trị của sự tồn tại. Người ta đi đến nhiều sự đồng thuận trong
việc khám phá tư tưởng của Dostoevsky để rồi từ đó tìm đến nhiều sự đồng
thuận trong quan điểm về Đức tin và về loài người.
Cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, một số quan niệm triết học –
lịch sử, tôn giáo – đạo đức và mỹ học về sáng tác của Dostoevsky được nêu
lên trong những công trình nghiên cứu của K.N.Leont’ev, N.A.Berdjaev,
Vjach.I.Ivanov, H.M.Zernovun và những thay mặt khác của tư tưởng triết học
Nga. Những tìm tòi về mặt tôn giáo – đạo đức của Dostoevsky là cái trục mà8
xung quanh nó đã hình thành nền triết lý đạo đức của nước Nga trên ranh giới
giữa hai thế kỷ góp phần tích cực trong sự phục hưng tinh thần Nga ở đầu thế
kỷ sau. Những vấn đề về một nước Nga mới và về giới trí thức Nga trong tư
tưởng của Dostoevsky cũng được phân tích thấu đáo trong trường so sánh đối
chiếu đối với truyền thống văn hóa Kitô giáo, đặc biệt là Chính thống giáo.
Cũng theo hướng tiếp cận văn hóa học như vậy, Ernest J. Simmons trong
cuốn Dostoeski: The making of a novelist và George Pattison, Diane Oenning
Thompson trong cuốn Dostoevsky and the Christian tradition đã chỉ ra những
điểm tương hợp về mặt motip trong các tác phẩm của Dostoevsky và Kinh
Thánh, từ đây khái quát và khẳng định một cách “giải mãi” tư tưởng của ông
trong chiều sâu tư tưởng của triết học tôn giáo. Vì thế, dù Dostoevsky là nhà
văn Nga, định cư và sáng tác trên đất Nga nhưng tư tưởng của ông đã gây ảnh
hưởng sâu rộng đối với một lớp không nhỏ trí thức phương Tây. Dostoevsky
được coi là nhà tiên tri, nhà tư tưởng vĩ đại không chỉ của nước Nga mà còn
của cả phương Tây.
Tuy vậy, lúc sinh thời, Dostoevsky không khi nào nhận mình là một
nhà tư tưởng hay một nhà xã hội chủ nghĩa. Ông chỉ nhận mình là một nhà
văn vì con người. Gắn mình vào dòng chảy bất tận của tín ngưỡng Chính
thống giáo Nga, Dostoevsky rao giảng những tín hiệu về thời đại công bình
mới nơi con người trưởng thành từ cuộc đấu tranh với chính mình chiêm
nghiệm và làm chủ những nguyên tắc đạo đức được gìn giữ trong văn hóa
truyền thống.
Ở Việt nam, tác phẩm Tội ác và trừng phạt là tác phẩm đầu tiên của
Dostoevsky được dịch sang tiếng Việt. Đó là những năm 80, sau khi rất nhiều
tác phẩm của các nhà văn Nga khác như Gogol, L.Tolstoy, Chekhov … được
dịch và đọc rộng rãi trong giới trí thức. Có lẽ thế giới trong văn Dostoevsky
đối với độc giả Việt nam lúc đó còn là quá xa lạ, con người trong văn9
Dostoevsky còn quá kỳ dị mà độc giả thì lại đang quen với văn phong nhẹ
nhàng đậm chất lãng mạn ảnh hưởng từ phong cách Pháp. Tuy vậy, nhiều
người trong giới trí thức đã đọc Dostoevsky và say mê ông từ trước thời kỳ
đó. Nhờ có việc chuyển ngữ, đặc biệt từ hai ngôn ngữ tiếng Pháp và tiếng Nga
và một số các tác phẩm của Dostoevsky được giới thiệu rộng rãi hơn ở Việt
nam. Bên cạnh việc đọc và say mê Dostoevsky, người đọc Việt nam dần được
tiếp cận với những chuyên luận nghiên cứu về thi pháp nghệ thuật
Dostoevsky được dịch ra tiếng Việt như Những vấn đề thi pháp Dostoevsky
(Bakhtin) và Dostoevsky cuộc đời và sự nghiệp (L.Grossman) hay tổng tập
các bài viết, bài nghiên cứu về tư tưởng của Dostoevsky như Sáng tác của
Dostoevski – những tiếp cận từ nhiều phía và Ba bậc thầy Doxtoevxki,
Balzac, Đickenx (Stefan Zweig). Những bài viết về vai trò và tầm ảnh hưởng
sâu rộng của Dostoevsky đối với nước Nga và đối với phương Tây nói chung
cũng được dịch và đăng tải rộng rãi trên các tạp chí chuyên ngành, trong đó,
nổi bật nhất là bản dịch Ba diễn từ tưởng niệm Dostoevsky (Vladimir
Soloviev) của Phạm Vĩnh Cư đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài số 6 năm
2001 và Tâm hồn Nga (N.A.Berdiaev) đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài
số 6 năm 2003. Các tác phẩm của Dostoevsky bắt đầu được giới nghiên cứu
văn học Việt nam quan tâm và phân tích không chỉ bằng phương pháp tự sự
học hay thi pháp học mà gần đây, còn được soi chiếu dưới cái nhìn từ phía
văn hóa học. Tuy chưa có công trình nào được dịch hay được nghiên cứu đi
vào nghiên cứu một tác phẩm cụ thể của Dostoevsky bằng phương pháp văn
hóa học nói trên nhưng những tư tưởng của Dostoevsky về tôn giáo và văn
hóa truyền thống Nga luôn được các nhà nghiên cứu nói tới như một đặc điểm
không thể bỏ qua khi khái lược về phong cách nghệ thuật cũng như cuộc đời
và sự nghiệp của nhà văn vĩ đại này.10
Vì thế, công trình nghiên cứu những ảnh hưởng của truyền thống Kitô
giáo trong tiểu thuyết Nghệ nhân và Magarita của Bulgacov của PGS. TS.
Phạm Gia Lâm đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 2 năm 2007 đã gợi ý
cho chúng tui một cách thức nghiên cứu tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov
trên cơ sở tổng hợp và phân tích những thủ pháp nghệ thuật đưa Thánh Kinh
vào tiểu thuyết như là một phương tiện hữu hiệu nhất để biểu đạt tư tưởng của
Dostoevsky.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ sẽ tập trung vào tổng hợp và phân tích những thủ pháp đưa
Thánh kinh vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm Anh em nhà Karamazov
như không – thời gian, cốt truyện huyền thoại, hình tượng nghệ thuật và cách
sử dụng biểu tượng và châm ngôn Kinh thánh trong diễn ngôn của nhân vật…
qua đó làm rõ hệ thống quan điểm triết học – mỹ của nhà văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tui sẽ áp dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận văn bản như
tiếp cận liên văn bản, văn hóa học, thi pháp học, thi pháp học lịch sử… và
những thao tác cụ thể như so sánh, thống kê… để tìm ra những đặc điểm thi
pháp của Dostoevsky trên cơ sở phân tích những mối liên hệ và ảnh hưởng
của Kinh Thánh đối với cấu trúc của tác phẩm Anh em nhà Karamazov.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu
3 chương:
Chương 1: Chính thống giáo và chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX
Chương 2: Hệ thống quan điểm triết – mỹ của F.Dostoevsky
Chương 3: Những thủ pháp đưa Kinh thánh vào cấu trúc nghệ thuật của
Anh em nhà Karamazov11
Chƣơng 1:
Chính thống giáo và chủ nghĩa hiện thực Nga
thế kỷ XIX
1.1. Chính thống giáo trong hệ thống giáo hội
1.1.1. Kitô giáo
Kitô giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất và lâu đời nhất khởi nguồn
từ Abraham, bên cạnh Do Thái giáo và Hồi giáo.
Abraham, theo truyền thuyết ghi lại trong sách Sáng thế ký của Thánh
Kinh, là tổ phụ của dân Do Thái và dân Ả rập, được chính Thiên Chúa gọi và
phán rằng: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ
cho ngươi” (18, 51). Và ông Abraham đã ra đi theo lời mà Đức Chúa đã phán
với ông, đến vùng đất Canaan – vùng đất mà ở đó Đức Chúa đã xác lập một
giao ước với ông về dòng dõi của ông và vùng đất của họ. Từ đây, dòng dõi
của ông Abraham cũng xác lập một giao ước tôn thờ duy nhất một Thiên
Chúa là Đức Chúa tại vùng Canaan thuộc Palestin thông qua nghi thức cắt bì
nơi bao quy đầu. Điều này có nghĩa rằng, Đức Chúa đã xác lập một tôn giáo
duy nhất lên dòng tộc xuất phát từ Abraham. Điều này cũng có nghĩa rằng các
dân tộc khởi nguồn từ Abraham đã xác quyết một niềm tin tuyệt đối vào Đức
Chúa là Thiên Chúa của mọi tạo vật.
Do Thái giáo là nền tảng cơ bản của Kitô giáo và Hồi giáo và là gốc
đạo của người Do Thái. Do Thái giáo thiết lập niềm tin dựa trên giao ước giữa
Thiên Chúa và ông Abraham trong kinh Cựu Ước và tuyệt đối tôn trọng việc
học hỏi các tín điều đã ghi trong Ngũ thư Kinh thánh hay còn gọi là sách
Torah gồm 5 quyển đầu của Cựu Ước là Sáng thế – Xuất hành – Lê vi – Dân
số – Đệ nhị luật. Ngoài ra, nó còn tiếp nhận một hệ thống văn bản khác làm12
Sách Thánh giúp cho việc định chế các tín luật nghiêm khắc cho cộng đồng
Do Thái.
Vào khoảng năm 33 sau CN, cách Jerusalem – thủ phủ của đạo Do Thái
– không xa, có một người không rõ nguồn gốc, tên là Jesus Christ đã bị chính
quyền La Mã xử tội hành hình với hình thức cao nhất là đóng đinh câu rút lên
cây thập giá về tội truyền bá niềm tin rằng có một Vương quốc Thánh thần –
Vương quốc của Thiên Chúa và có một Đấng cứu tinh chính là Jesus Christ
xuất hiện để lãnh đạo dân tộc Do Thái đứng lên đoạt lại tự do và xây dựng
Vương quốc của Thiên Chúa trên quê hương của họ. Sau cái chết của Jesus,
những tông đồ của Jesus ngỡ ngàng nhận ra rằng Vương quốc mà Thiên Chúa
hứa cho dân tộc Do Thái và những dân tộc khác theo lời Jesus không hề tồn
tại. Tuy vậy, việc Đấng Jesus sống lại vào ngày thứ ba sau cuộc hành hình để
truyền giảng cho các tín đồ của Ngài về Nước Chúa lại củng cố niềm tin cho
họ và giúp họ vượt qua khỏi những bách hại tàn khốc của những người theo
Do Thái giáo khác. Cuộc hành hình và sự phục sinh của đấng Jesus Christ
được thuật lại trong sách Phúc Âm, còn gọi là sách Tân Ước, gồm 4 cuốn Tin
Mừng Mathew, Maco, Luca và Gioan. Từ Jesus Christ, một đạo giáo mới
hình thành gọi là Kitô giáo (Christiany) hay còn gọi là Cơ Đốc giáo.
Người khởi xướng và có công truyền bá đức tin Kitô ra các cộng đồng
khác ngoài Do Thái là Thánh Paul (Saul, Phao – lô, Sứ đồ Phao – lô). Paul là
người Israel thuộc chi phái Benjamin, có quốc tịch La Mã. Paul, cũng như
những tín đồ Do Thái khác đều thất tin ở học thuyết của Đức Jesus nên coi
Kitô giáo như một dị giáo ngoài Do thái giáo. Nhưng chính bản thân Paul,
trên đường đi bức hại những tín đồ Kitô giáo ở thành Damacus, đã trải qua
một cuộc cải hoàn kỳ diệu từ một người mắc chứng mù lòa trở nên sáng mắt
trở lại. Paul coi đây là ơn huệ đặc biệt mà đấng Messiah – Jesus tối cao đã
dành cho ông. Từ đây ông chấp nhận cải đạo Thiên Chúa, chấp nhận Jesus là13
hiện thân xác thịt của Thiên Chúa và là con của Thiên Chúa. Trong Thư gửi
tín hữu Roma, Thánh Paul viết rằng: “tui là Phao-lô, tui tớ của Đức Kitô
Jesus; tui được gọi làm Tông đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của
Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà
hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về con của Người là Đức Jesus
Kitô , Chúa của chúng ta.” Và “Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để
cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do Thái, sau là người Hy Lạp. Vì
trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin
để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được
sống” [18, 1934] “Người (Thiên Chúa) cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại
(ngoài dân Do Thái) nữa, vì chỉ có một Thiên Chúa, Đấng làm cho người
được cắt bì nên công chính vì họ tin, và làm cho người không được cắt bì nên
công chính cũng bởi họ tin” [18, 193]. Bởi người ngoại hay người Do Thái
đều phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa bất kể có Luật Mô-sê, phép cắt bì
hay có lời hứa của Thiên Chúa hay không. Như vậy là người được cắt bì – tín
hữu Do Thái giáo theo Cựu Ước, và người không được cắt bì – tín hữu Kitô
tin vào Chúa Jesus, cũng đều được hưởng đặc ân của Thiên Chúa như nhau
cũng như cùng được Người trao cho niềm tin để trở nên công chính giống như
Người như nhau.
Paul và mười hai sứ đồ đã lãnh nhận trách nhiệm truyền bá đức tin này
ra các cộng đồng ngoài Do Thái và cả đối với cộng đồng Do Thái để ai cũng
được trở nên công chính như Thiên Chúa.
Từ thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên, cùng với hành trình truyền giáo
của các tông đồ Kitô, Kitô giáo tách khỏi Do Thái giáo và nhanh chóng lan
truyền tới những vùng đất mới trong suốt thời kỳ đế chế La Mã, thông qua Ai
Cập đến Bắc Phi, Sudan; thông qua vùng Lưỡng Hà đến Ba Tư, Nội Á, và Ấn
Độ; thông qua Hy Lạp và La Mã đến Châu Âu. Hội thánh nguyên khởi được14
xác lập bởi cộng đồng Do Thái và cộng đồng Hy Lạp. Cộng đồng Do Thái
quy tụ ở Jerusalem muốn duy trì một số tập tục và nghi lễ cổ như lễ cắt bì
nhằm bảo tồn tôn giáo của mình trong khi cộng đồng Hy Lạp lại chủ trương
truyền bá đức tin Jesus Kitô tới những vùng đất khác nhau theo những
phương cách phù hợp hơn. Vì thế mà Kitô giáo, vượt qua khoảng không hạn
hẹp của thành Jerusalem, vươn tới những vùng đất rộng lớn khác và nhanh
chóng trở thành quốc giáo của một quốc gia rộng lớn dưới thời Constantine.
Trong hơn 300 năm đầu đấu tranh để sinh tồn, Kitô giáo đã vấp phải
một làn sóng phản đối tàn bạo tại các nước phương Đông, đứng đầu là La Mã.
Đế quốc La Mã trực tiếp kế thừa đế quốc Hy Lạp do Alexander Đại đế gây
dựng lên từ thế kỷ thứ III trước CN nên văn minh La Mã thực chất vẫn là văn
minh Hy Lạp. Dân chúng La Mã, vì vậy, vẫn thờ cúng toàn thể các thần linh
trong hệ thống các thần Hy Lạp nhất là thần Mặt trời Apolon. Cùng với sự
bành trướng của đế chế La Mã là sự gia nhập của một số thần của người Ai
Cập, Hy Lạp hay Ba Tư khác vào hệ thống các thần được thờ cúng như thần
Mặt trời Mitra của người Ba Tư, Nữ thần phì nhiêu Kibela của Hy Lạp và Nữ
thần tình yêu Ixida của người Ai Cập. Vì thế việc giáo dân Kitô không tuân
theo những nghi lễ tôn kính các thần linh của người La Mã là việc không thể
chấp nhận được. Hoàng đế Neron, năm 60 sau CN, đã quy cho dân theo đạo
Kitô tội đốt thành La Mã, giam cầm giáo dân và giết chết Thánh Pier và Paul.
Cuộc tàn sát này ngầm xác quyết một bản án tử hình cho những người theo
đạo Kitô và mở đầu cho một giai đoạn thanh trừ tôn giáo đẫm máu kéo dài
cho đến thời hoàng đế Constantine I.
Với một Kitô hữu, những đau khổ mà họ nếm trải cũng chỉ giống như
là đấng Jesus tối cao của họ đã nếm trải. Họ tin vào sự phục sinh trở lại cũng
như đấng Jesus đã thực sự phục sinh trở lại. Và như thế, con đường đau khổ
mà cộng đồng Kitô hữu đã đi qua suốt chiều dài 300 năm cũng là con đường15
mà đấng Jesus đã đi, trên đường đến với Nước Chúa, đến với sự Phục Sinh.
Điều đó có nghĩa rằng các cuộc bách hại chỉ là những đau khổ mà họ phải
chịu đựng trên đường tới Nước Chúa mà thôi, giống như dụ ngôn của Thiên
Chúa với ông Abraham: “Ngươi phải biết rằng: dòng dõi của ngươi sẽ trú
ngụ trong một đất không phải của chúng. Chúng sẽ làm tui người ta và người
ta sẽ hành hạ chúng bốn trăm năm. Nhưng Ta sẽ xét xử dân tộc chúng phải
làm tôi, và sau đó chúng sẽ ra đi với nhiều tài sản” [18, 55]
Sự kiện hoàng đế Constantine I cùng với các hoàng đế phương Đông
ký kết chiếu chỉ Milan vào năm 313 đã chấm dứt thời kỳ bách hại khốc liệt
của các bậc đế vương đối với Kitô giáo, xác lập quyền tự do tôn giáo đối với
các tín hữu Kitô trên toàn thế giới. Kitô giáo đã giữ vững được sự đồng thuận
trong cộng đồng tín hữu của mình cũng như các giáo lý nền tảng đến thế kỷ
này không chỉ vì niềm tin duy nhất vào sự thống nhất các dân tộc trên toàn thế
giới dưới quyền năng Thiên Chúa mà còn vì niềm tin vào sự bất diệt của Đạo.
Mỗi cuộc bách hại khốc liệt giáng xuống một cộng đồng Kitô hữu đều cướp
đi sinh mạng của ít nhất là một người truyền giáo. Nhưng sau mỗi cuộc bách
hại, sức mạnh của niềm tin lại càng được gia tăng thêm, vững chắc hơn, bởi
những người tử vì đạo kia là hiện thân cho niềm hy vọng vào sự phục sinh trở
lại. Và bởi vì đấng Jesus Christ chính là minh chứng xác tín nhất cho sự phục
sinh thần thánh đó.
“Vào năm 324, sau khi hoàng đế Constantine I bình định xong phần
phía đông của La Mã và tự công nhận mình là người theo đạo Cơ Đốc (Kitô),
ông đã cho xây dựng trên vùng lãnh thổ Byzantine một thành phố và trong
thành phố này, ông cho xây dựng một nhà thờ thờ thánh Sophia. Bên cạnh đó,
hoàng đế Constantine I còn trao thành phố Constantinople trở thành thành
phố thủ phủ của đạo Cơ Đốc trong vòng 1000 năm. Constantine đã coi việc16
thiết lập sự thống nhất trong hàng ngàn những thần dân theo đạo Cơ Đốc là
trách nhiệm cứu tinh của mình.” [34, 67]
Hoàng đế Constantine I và những đời hoàng đế nối dõi ngài đã dần loại
trừ những tôn giáo khác, đưa Kitô giáo lên vị trí quốc giáo (năm 380), kêu gọi
cộng đồng tín hữu liên kết lại dưới một mái nhà tôn giáo chung cho tất thảy
mọi người.
Đạo Kitô trở nên hấp dẫn như vậy là do ngay từ khi vươn ra khỏi Do
Thái giáo, Kitô giáo đã có xu hướng thu nạp vào nó những giá trị nhân đạo tốt
đẹp, thích ứng với đời sống tình cảm của con người. Người ta tìm thấy ở hình
ảnh Đức Chúa Jesus đau khổ hình ảnh của nỗi thống khổ và đồng thời cũng là
hình ảnh của sự cứu rỗi, rằng đấng Jesus sinh ra để gánh đỡ mọi tội lỗi cho
loài người và cũng là để cứu rỗi loài người. Hoàng đế Constantine I, tuy cải
đạo Kitô nhưng trong tâm trí ông vẫn xảy ra cuộc đấu tranh giữa Thần Mặt
Trời và Chúa su Jesus Christ. Cuối cùng thì ông cũng ra chiếu chỉ phán quyết
rằng ngày lễ Thần Mặt Trời cũng là ngày tháng thích hợp để tổ chức Lễ Giáng
Sinh của Jesus Christ. Trong hệ tư tưởng của đạo Kitô, người ta cũng tìm thấy
tinh thần tôn kính Người Mẹ và niềm hy vọng vào sự trường tồn bất diệt ở
đạo Kibela và Ixida trong hình ảnh của Đức Mẹ Đồng Trinh Maria và đấng
Cứu Thế Jesus Christ.
Trên đỉnh cao của sự tôn vinh đó, một nền khoa học thần học Kitô dần
hình thành. Giáo dục trong hệ nhà thờ không chỉ dừng lại ở việc truyền dạy
giáo lý mà còn truyền dạy cả những khoa học khác như y học, triết học và luật
học. Các cuộc tranh biện thần học tuy có gây ra những cách hiểu khác nhau
về bản thể của Thiên Chúa trong các cộng đồng nhỏ nhưng về cơ bản Kitô
giáo vẫn phát triển theo hướng thống nhất, dựa vào Kinh thánh và giáo luật
được ghi trong Kinh thánh.
Raskolnikov phát điên với cảnh bần hàn của anh ta và lệ thuộc vào học thuyết điên rồ của anh ta rằng tội ác luôn khuyến khích những kẻ bất bình thường đóng vai một kẻ giết người vì tiền. Tiểu thuyết đi sâu vào cuộc đấu tranh bên trong giữa lương tâm của anh ta với các thuyết lý phi đạo đức. Trong Gã khờ (1868) nhân vật chính Myshkin đã thử kết hợp giữa cuộc đời đầy tội lỗi với những phẩm cách của Chúa; ở đấy Dostoevsky đã phân tích sự tan vỡ tâm hồn bên trong “một con người hoàn toàn tốt đẹp”. Chủ đề của cuốn Anh em nhà Karamazov (1879–1880) cũng tái hiện sự tìm kiếm Chúa và niềm tin vào thế giới ám ảnh với vật chất và sự bất kính, thể hiện trong mối xung đột giữa niềm tin tôn giáo và chính bản thân anh ta, khi anh ta chối bỏ thế giới của Chúa bởi vì nó đầy rẫy sự vô cảm với nỗi thống khổ của loài người. Không giống như Dostoevsky, L.Tolstoy luôn là một người dẫn dắt sự thật. Bức tranh đời sống trong sáng tác của Tolstoy luôn mới mẻ, sống động nhờ sự quan sát phong phú và tinh tế của ông trước mọi biến thiên dù là nhỏ nhất trong cuộc sống thực. Những tác phẩm đầu tay của Tolstoy chỉ là đề dẫn cho cuốn tiểu thuyết đồ sộ Chiến tranh và hòa bình (1863–1869). Tác phẩm đậm chất sử thi này tập trung phản ánh mối quan hệ giữa năm gia đình trong khoảng thời gian từ 1805-1820. Cuộc chiến chống Napoleon năm 1812 được trình bày trong phối cảnh tư tưởng xã hội đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ triết học lịch sử, khoa học chiến tranh và các học thuyết về sự tồn tại của con người tự nhiên. Cuốn tiểu thuyết tiếp theo, Anna Karenina (1873–1877), là một trong số những câu chuyện hay nhất về tình yêu và cũng là cuốn tiểu thuyết khắc sâu sự cô độc của con người cá nhân trong xã hội. Tình yêu vị kỷ của nàng Anna Karenina cuối cùng lại đưa tới cho nàng lối giải thoát bằng cái chết chứ không phải một cuộc sống hạnh phúc mà nàng ao ước. L.Tolstoy có vẻ như luôn bị ám ảnh bởi cái chết cũng giống như Dostoevsky luôn bị ám ảnh về sự điên loạn của con người vậy. Nhân vật Andrey trong Chiến hòa bình cũng hơn một lần cảm giác cái chết. Nhân vật Anna Karenina thì có dự cảm về cái chết ngay từ lần đầu tiên nàng chen chân xuống sân ga. Và cả Andrey, cả Anna trước khi chết đều vùng vẫy chống trả lại cuộc sống, cho đến khi bước vào cái chết, họ lại thức tỉnh, ham sống và ý thức được giá trị cao đẹp của cuộc sống. L.Tolstoy đã đạt tới một chủ nghĩa hiện thực của riêng mình, nói như V.Lenin, là thứ “chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo nhất” (27, tr 153) Ở thể loại truyện ngắn, Anton Pavlovich Chekhov (1860–1904) và Maxim Gorky (Aleksey Maksimovich Peshkov) (1868–1936) là hai nhà văn nổi trội nhất về bút pháp hiện thực. Sáng tác của họ tập trung phản ánh những bất công trong xã hội cũng như thân phận tội nghiệp của những con người dưới đáy tầng xã hội. Bút pháp hiện thực trào phúng của Chekhov gần với bút pháp của Gogol hơn là của Gorky. Vẫn là những nhân vật có xuất thân từ nhân dân lao động, nhưng nhân vật của Chekhov dị thường, thô ráp thậm chí còn kệch cỡm trong khi nhân vật của Gorky, cuối thế kỷ XIX, luôn đẹp đẽ, khỏe khoắn, giàu chất thơ và tràn đầy lý tưởng cao cả. Các nhà phê bình cho rằng, ở giai đoạn này, Gorky hoàn toàn sáng tác theo phong cách lãng mạn nên “chất hiện thực” hầu như không thể hiện rõ. Nhưng có lẽ những sáng tác thuộc địa hạt “chủ nghĩa lãng mạn” này lại là tiền đề cho những sáng tác “hiện thực” sau này của Gorky. Gorky là nhà văn của nhân dân từ trong huyết quản. Bởi lẽ tinh thần lạc quan có trong Gorky là tinh thần lạc quan của nhân dân, niềm tin vào sự trường tồn bất diệt của lý tưởng hướng về chân lý, về ánh sáng, về sự thật có trong Gorky cũng là niềm tin của nhân dân vào một thời khắc đất nước khởi sáng. Boris Sushkov nói rằng “Những nét tiêu biểu cho chủ nghĩa lạc quan kiểu Gorky là sự thẳng thắn và sự tỉnh táo trong thái độ đối với thế giới, là xu hướng không muốn lẩn tránh việc tìm hiểu và diễn tả cái bi kịch và cái bi thảm thường xuyên nảy sinh trong cuộc sống con người. Đồng thời đằng sau dòng hỗn loạn của các biến cố, đằng sau những biểu hiện rất khác nhau của sự tàn bạo, sự bất công trong cuộc sống, của những bất hạnh, đau khổ và buồn phiền, nhà văn nhìn thấy sự vận động không ngừng, có tính quy luật của những nguyên nhân và hậu quả chuẩn bị điều kiện cho sự loại trừ những đau khổ, bất hạnh ra khỏi tồn tại xã hội của con người.” [2, 369]. Thế kỷ XIX đã kết thúc với một loạt những cuộc cách mạng về văn hóa, với những thành tựu rực rỡ theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa trong thơ, văn xuôi, kịch và phê bình văn học như thế. Đây là thời đại của chủ nghĩa hiện thực và là thời đại nở rộ của văn học hiện thực Nga hướng về nhân dân, hướng về đất nước Nga rộng lớn và giàu văn hóa. Tính nhân dân là đặc điểm nổi trội nhất trong mọi sáng tác văn học dù tác phẩm đó thuộc về phong cách hiện thực hay phong cách lãng mạn. Tính nhân dân thể hiện không phải ở việc các nhà văn đã gắng công phản ánh hiện thực đời sống nhân dân Nga dưới sự áp bức bóc lột tàn tệ của chính quyền phong kiến chuyên chế hay chính quyền tiền tư sản và tư sản. Tính nhân dân thể hiện cao đẹp và sâu sắc nhất chính là ở những yếu tố văn hóa riêng biệt thuộc phong cách sống của nhân dân Nga, những đặc trưng tâm hồn riêng biệt trong mỗi con người Nga và hơn tất thảy là cuộc đấu tranh giành quyền tự do tuyệt đối của dân tộc Nga. Vậy tại sao lại khẳng định chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX là chủ nghĩa hiện thực Kitô giáo? Trong nhiều chuyên luận, biên khảo, những nhà nghiên cứu hầu hết đều nhìn nhận đặc tính nhân dân là đặc tính lớn nhất và tiêu biểu nhất ở văn học hiện thực Nga thế kỷ XIX. Boris Suchkov viết: sức mạnh đạo đức của văn học Nga, tính nhân đạo và tình yêu nhân dân của nó, sự táo bạo của nó trong việc đặt ra những vấn đề có quan hệ trực tiếp với số phận của con người trong xã hội tư hữu, đã biến nó thành một nền văn học thấm nhuần ý thức của nhân dân, và cùng với sự khởi đầu của sự nghiệp cải tạo xã hội chủ Với Dostoevsky, con người là một thể toàn vẹn và độc lập, có những nguyên nhân tồn tại và tha hóa của nó và không ai khác ngoài nó phải chịu trách nhiệm về hành vi cũng như chính sự tha hóa của mình. “Con người là một bí ẩn. Cần tìm ra bí ẩn ấy, và nếu có tìm suốt đời, thì cũng đừng đánh giá là đã mất thì giờ. tui vật vã với nó, vì tui muốn làm người”. Và Dostoevsky nói, khi 17 tuổi: “tui cảm tưởng, thế gian này là nơi tẩy tội của những linh hồn thiên giới đã mờ đục đi do tư tưởng tội lỗi. tui thiết tưởng, thế giới đã chuốc lấy một ý nghĩa tiêu cực và từ tinh thần thanh cao trang nhã hoá thành một trò châm biếm. Con người sao ươn hèn! Hamlet, Hamlet!” [44] Giống như nhân vật Hamlet của Shakespeare, Dostoevsky luôn dày vò về sự bất hoàn thiện của thế giới và con người, khao khát tìm ra nguồn gốc siêu lí của tội lỗi và cái ác. Bởi con người hiện đại cũng giống như con người ở thời kỳ hỗn mang khi còn ở nơi Nước Chúa, chỉ biết tới sự đam mê của riêng mình. Bởi xã hội hiện đại còn ở thời kỳ hỗn mang có đầy đủ những yếu tố cho thấy sự hiểu biết vô cùng của nó nhưng cũng có đầy đủ những yếu tố cho thấy sự bất hoàn thiện của nó trong tư tưởng. Những học thuyết mới như thuyết vô thần, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tự nhiên… xuất hiện dựa vào những quy luật vận động vật lý của xã hội, với Dostoevsky, có lẽ là chưa đủ để lý giải nguồn cơn của mọi sự biến động gây ra sự suy đồi đạo đức và nhân tính trong xã hội. Dostoevsky tìm kiếm một chân lý toàn vẹn hơn, sâu sa hơn để trả lời những câu hỏi thường trực bên trong con người. Dostoevsky tìm về với tôn giáo. Trước hết, đó là tôn giáo về con người, về niềm tin ở con người. Con người trong sáng tác của Dostoevsky có một vị thế đặc biệt. Nó không chỉ là phương tiện chuyển tải tư tưởng của Dostoevsky về cuộc đời. Nó còn là hiện thân của tư tưởng – một thứ tư tưởng hướng tới cái vô tận. Dostoevsky bao giờ cũng miêu tả con người “trên đường biên khi sắp đưa ra quyết định cuối cùng trong thời điểm khủng hoảng, vào thời điểm bước ngoặt chưa hoàn thành và không được ấn định trước của tâm hồn” [3, 61] nên con người, trong sáng tác của Dostoevsky, là con người không toàn vẹn, đầy khiếm khuyết và luôn luôn có sự tự vấn bên trong bản thân nó, với chính nó và về những vấn đề liên quan tới sự tồn tại của nó. Nếu nhân vật của Balzac, Dickens, Wanter Scot là hiện thân của một tính cách toàn vẹn, có nguyên nhân hình thành và quá trình phát triển cũng như kết cục cuối cùng của tính cách; nếu nhân vật của tiểu thuyết Đức luôn hướng tới sự thống nhất, cân bằng với lí tưởng; nếu nhân vật của L.Tolsoy luôn hướng về sự hoàn thiện vốn có của nó từ khi nó sinh ra; thì nhân vật của Dostoevsky “không tìm và không tìm thấy thái độ của mình trước cuộc sống thực tại” [19, 47]. Các nhân vật của Dostoevsky, con người ấy, chỉ có cảm giác về sự tồn tại mà chưa thực sự đối mặt với sự tồn tại của chính họ. Cho nên hiện thực chỉ là một cái gì đó hay phải vượt qua, hay phải chối bỏ chứ không phải để đương đầu với nó. Hầu hết các nhân vật của F.Dostoevsky đều mang trong nó những bất đồng không thể dàn hòa với xã hội bên ngoài nó. Nó phản biện lại xã hội như thể xã hội là thứ chống lại nó chứ không phải là nó đang chống lại xã hội. Từ đó, nó tìm kiếm chân lý về sự tồn tại cá nhân, chân lý về sự công bằng và tự do cho mọi cá nhân khác. Nhưng nó không tìm thấy lý tưởng của cuộc đời nó. Vì thế nó hoài nghi tất cả. Điều này được biện giải rằng, giống như vị thế của nước Nga đối với hai phần Đông và Tây của thế giới, giống như tinh thần của dân tộc Nga đang loay hoay lựa chọn đồng minh của mình là châu Âu hay châu Á ở thế kỷ XIX khi cái nền của nó - chế độ Nga hoàng - sụp đổ, giống như dân tộc Nga còn chưa tìm thấy con đường đi cho mình nên các nhân vật của Dostoevsky vẫn còn đang băn khoăn do dự lựa chọn cho nó một tư tưởng để theo đến cùng. Các nhân vật của Dostoevsky, như Ivan Karamazov, Raskolnikov, Kirilov, khi nói về các học thuyết xã hội, chủ nghĩa vị tha, chủ
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: