Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
Mục lục trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÔN ƯỚC – ĐẶC TRƯNG CỦA
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN ƯỚC ĐỊNH
1.1. Hôn ước và các chế độ tài sản 3
1.1.1. Khái niệm hôn ước và các chế độ tài sản vợ chồng 3
1.1.2. Sơ lược lịch sử hình thành của hôn ước 4
1.1.3. Đặc điểm của hôn ước 8
1.2. Pháp luật Việt Nam với việc qui định về hôn ước 9
1.2.1. Hôn ước trong pháp luật thời kì Pháp thuộc 10
1.2.2. Hôn ước theo hệ thống pháp luật ở miền nam nước ta trước
ngày thống nhất đất nước (1954 - 1975)
12
1.2.3. Hôn ước trong pháp luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta
từ Cách mạng Tháng tám (1945) đến nay
14
1.3. Hôn ước trong pháp luật một số nước trên thế giới 16
1.3.1 Hôn ước theo pháp luật của Cộng hòa Pháp 16
1.3.2 Hôn ước theo pháp luật của Hoa Kì 19
1.3.3 Hôn ước theo pháp luật của Nhật Bản 21
1.3.4 Hôn ước theo pháp luật của Thái Lan 22
Chương 2 KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HÔN ƯỚC
TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
2.1 Hôn ước phổ biến và là xu hướng của thế giới 25
2.1.1 Hôn ước trong tư pháp quốc tế 25
2.1.2 Hôn ước được áp dụng tại nhiều quốc gia 27
2.2. Hôn ước phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội Việt
Nam hiện đại
28
2.2.1. Sự thay đổi về yếu tố cá nhân và chức năng kinh tế trong gia đình 28
2.2.2 Tình trạng chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân để đầu tư
kinh doanh riêng.
31
2.2.3 Tình trạng li hôn gia tăng kèm theo vấn đề chia tài sản khi li hôn 332.2.4 Hiện tượng kết hôn với người nước ngoài trở nên phổ biến 34
2.2.5 Dư luận xã hội 35
2.2.6 Quan điểm của các nhà nghiên cứu luật 35
2.3 Xu hướng tương thích của pháp luật Việt Nam với hôn ước 36
2.3.1 Qui định về công nhận và cho thi hành bản án của tòa án
nước ngoài
36
2.3.2 Những qui định cho phép vợ chồng được thỏa thuận làm thay
đổi về căn cứ xác lập tài sản
39
2.4 Một số kiến nghị về việc áp dụng hôn ước tại Việt Nam 47
2.4.1 Hoàn thiện các qui định về các vấn đề về tài sản vợ chồng mà
vợ chồng được thỏa thuận và lộ trình áp dụng hôn ước
47
2.4.2 Hình thức và nội dung của các qui định kiến nghị áp dụng 50
LỜI KẾT 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục 1
Phụ lục 2
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi1
LỜI MỞ ĐẦU
Khi chưa bước vào hôn nhân, hai người nam nữ là những người có tài sản
riêng, hoàn toàn tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. Khi bước vào hôn
nhân, điều đó đã khác. Tất cả các vấn đề về tài sản của họ được điều chỉnh bởi
một qui chế pháp lí có tên là “chế độ tài sản vợ chồng”. Theo một logic đơn
thuần: khi chưa bước vào hôn nhân, từng cá nhân được tự do định đoạt tài sản của
mình thì trong hôn nhân hai cá nhân đó cũng được thỏa thuận định đoạt chế độ tài
sản vợ chồng. Có lẽ vì thế mà hầu hết các quốc gia trên thế giới cho phép những
người sắp kết hôn tự thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng bằng một văn bản có
tên là “hôn ước”. Việt Nam thì không như vậy: chế độ tài sản vợ chồng chỉ do
pháp luật qui định.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội, chế độ tài sản vợ chồng của
Việt Nam đã có những sự thay đổi đáng kể, từ chỗ không chấp nhận bất cứ thỏa
thuận nào của vợ chồng về việc xác lập tài sản (như qui định trong Luật hôn nhân
và gia đình năm 1959) đến chỗ cho phép vợ chồng được thỏa thuận về việc chia
tài sản chung trong thời kì hôn nhân thậm chí thỏa thuận cả về hậu quả của việc
chia tài sản này (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị định 70/2001/NĐ-
CP). Sự thay đổi đó phải chăng đã khiến cho các qui định pháp luật tiến gần hơn
tới chỗ chấp nhận hôn ước? Vì thế nghiên cứu về hôn ước là điều cần thiết để giải
đáp câu hỏi này. Mặt khác, trong quá trình hội nhập, các quan hệ hôn nhân có yếu
tố nước ngoài ngày một nhiều, điều đó khiến chúng ta không thể thờ ơ trước vấn
đề hôn ước bởi hôn ước được pháp luật ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi
nhận. Vì vậy, người viết đã chọn đề tài “Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp
dụng hôn ước ở Việt Nam” để làm khóa luận tốt nghiệp.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, người viết mong muốn khái quát được
nội hàm, đặc điểm của hôn ước và nêu ra xu hướng áp dụng hôn ước của xã hội
Việt Nam hiện đại, người viết cũng mong muốn đề nghị một lộ trình phù hợp cho
việc áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam.2
Ở nước ta, từ sau khi thống nhất (1975), hôn ước ít khi trở thành đối tượng
chính của các công trình nghiên cứu khoa học. Dù khi đề cập đến chế độ tài sản
vợ chồng hầu như các nghiên cứu khoa học đều có nói đến hôn ước; song theo
người viết tìm hiểu thì hôn ước chỉ được coi là đối tượng nghiên cứu chính trong
hai bài báo “Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong pháp luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam” của ThS Nguyễn Hồng Hải và “Chế độ tài sản theo thỏa
thuận của vợ chồng trong pháp luật Cộng hòa Pháp và pháp luật Việt Nam” của
ThS Bùi Minh Hồng. Tuy nhiên với phạm vi của một bài báo khoa học, hai bài
nghiên cứu này chưa thể đề cập một cách tổng quan và đầy đủ về hôn ước cũng
như khả năng áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam hiện đại.
Vì vậy, khóa luận này, với đề tài đã chọn sẽ cố gắng đưa ra những điểm
mới sau đây:
nghiên cứu khái quát về hôn ước bao gồm lược sử, nội hàm và đặc điểm
của hôn ước;
nghiên cứu và bình luận về hôn ước ở Việt Nam qua từng thời kì lịch sử;
tìm hiểu về hôn ước ở các nước có các đặc điểm hình thái xã hội và pháp
luật khác nhau;
nghiên cứu về sự phù hợp của hôn ước với xu hướng phát triển của xã hội
Việt Nam;
nghiên cứu một giải pháp phù hợp cho việc áp dụng hôn ước ở Việt Nam.
Về phương pháp nghiên cứu, khóa luận đã sử dụng kết hợp phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, phương pháp
phân tích – tổng hợp, phương pháp Luật học so sánh và phương pháp thu thập
thông tin để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
Về bố cục, khóa luận kết cấu thành hai chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung về hôn ước – đặc trưng của chế độ tài sản
ước định.
Chương 2: Khả năng áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam hiện đại.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÔN ƯỚC – ĐẶC TRƯNG CỦA
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN ƯỚC ĐỊNH
1.1. HÔN ƯỚC VÀ CÁC CHẾ ĐỘ TÀI SẢN
1.1.1. Khái niệm hôn ước và các chế độ tài sản vợ chồng
1.1.1.1. Chế độ tài sản vợ chồng
Do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân mà các vấn đề về quyền sở
hữu đối với tài sản của vợ chồng không thể chỉ điều chỉnh bằng các qui định
chung về sở hữu tài sản thông thường. Tất cả các quốc gia trên thế giới dù chế
độ xã hội khác nhau, trình độ phát triển kinh tế khác nhau, điều kiện về phong
tục tập quán, truyền thống văn hóa khác nhau, tất cả các quốc gia đó dù đã qui
định về quyền sở hữu tài sản thông thường nhưng ít hay nhiều cũng đều có qui
định riêng về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng.
“Tổng hợp các qui định của pháp luật về căn cứ xác lập tài sản, quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng, nguyên tắc phân
chia tài sản vợ chồng là chế độ tài sản của vợ chồng”1. Nói đến chế độ tài sản
vợ chồng là nói đến vấn đề sở hữu đối với tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản
của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kì hôn nhân (từ khi kết hôn cho đến khi hôn
nhân chấm dứt) và cũng do đó chế độ tài sản vợ chồng không bao gồm các vấn
đề thừa kế tài sản giữa vợ và chồng, vấn đề cấp dưỡng của vợ chồng.
1.1.1.2. Chế độ tài sản pháp định và chế độ tài sản ước định
Về hình thức pháp lí, chế độ tài sản vợ chồng có thể được xác định theo
căn cứ pháp luật (chế độ tài sản pháp định) hay theo thỏa thuận của vợ chồng
(chế độ tài sản ước định).
Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu về
căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản của vợ
chồng. Chế độ tài sản pháp định được pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế
giới dự liệu.
1
TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Tư pháp,
2008, tr 8.4
Khác với chế độ tài sản pháp định, chế độ tài sản ước định là chế độ tài
sản mà trong đó căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài
sản của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận.
1.1.1.3. Hôn ước
Khi áp dụng chế độ tài sản ước định, vợ chồng được tự do thỏa thuận
về chế độ tài sản trong thời kì hôn nhân. Văn bản ghi nhận sự thỏa thuận đó
là hôn ước.
Hôn ước là văn bản do hai bên nam nữ lập trước khi kết hôn theo thể
thức nhất định trong đó ghi nhận sự thỏa thuận của họ về chế độ tài sản vợ
chồng được áp dụng trong thời kì hôn nhân và chỉ phát sinh hiệu lực trong thời
kì hôn nhân.
1.1.2. Sơ lược lịch sử hình thành của hôn ước
Theo quan điểm thịnh hành của các luật gia Việt Nam, hôn ước ra đời do
quan điểm của các nhà lập pháp phương Tây, theo họ hôn nhân thực chất chỉ là
một loại hợp đồng dân sự chỉ khác ở sự trang trọng khi thiết lập và trong việc
chấm dứt; bên cạnh đó, các nhà làm luật của phương Tây cũng đề cao quyền tự
do cá nhân, quyền định đoạt tài sản của vợ chồng2. Tuy nhiên nếu tóm lược sự ra
đời của hôn ước như vậy sẽ không phản ánh được hết nguyên nhân khách quan
của sự tồn tại của hôn ước. Theo người viết, như các qui định khác, hôn ước có
nguồn gốc lịch sử lâu đời, có quá trình phát triển.
1.1.2.1. “Thỏa thuận hôn nhân” và “thỏa thuận về điều kiện của
hồi môn”
Có lẽ những hôn ước đầu tiên đã được xuất hiện từ thời La Mã cổ đại
dưới hình thức thỏa thuận hôn nhân (nuptias consensus facit)3 trong hôn nhân
2
Dễ dàng tìm đọc quan điểm này tại các bài viết về chế độ tài sản vợ chồng. xin trích dẫn một vài tài liệu: Nguyễn
Hồng Hải, Xác định tài sản của vợ chồng một số vấn đề lí luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ trường Đại học Luật
Hà Nội, 2002; TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
NXB Tư pháp, 2008; …
3 Tiếng Latinh, thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã (chủ biên
ThS Nguyễn Minh Tuấn), NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2001
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi5
không dưới quyền của người chồng (sine manu)4 hay thỏa thuận về điều kiện
của hồi môn (stipuliatio)5.
Thỏa thuận hôn nhân (nuptias consensus facit)
Dưới thời La Mã vợ chồng không có tài sản chung bởi quyền gia trưởng
của người chồng gần như tuyệt đối, đặc biệt trong hôn nhân dưới quyền của
người chồng (cum manu6), tất cả tài sản của gia đình đều bị coi là tài sản của
người chồng, thậm chí vợ con cũng được coi là tài sản của chồng, người chồng
có thể kiện đối với vợ theo hình thức kiện vật quyền (actio in rem). Hôn nhân
sine manu được đánh giá là một hình thức giải phóng người phụ nữ khỏi quyền
lực (manus) của người chồng. Sine manu được thiết lập trên cơ sở của nuptias
consensus facit7. Nuptias consentus facit thực chất chỉ là một thỏa thuận ghi
nhận và phân định khối tài sản riêng của người vợ có trước thời kì hôn nhân với
các tài sản khác (khối tài sản này được coi là tài sản của người chồng), theo đó
người vợ hoàn toàn được tự chủ trong quan hệ tài sản, người chồng chỉ có thể
thực hiện quản lí tài sản riêng của vợ trên cơ sở hợp đồng ủy quyền quản lí của
người vợ8. Nuptias consentus facit chỉ tồn tại trong hôn nhân sine manu và sine
manu được áp dụng khi con gái của một nhà giàu kết hôn với người nghèo.
Thỏa thuận về điều kiện của hồi môn (stipuliatio)
Vào cuối thời Cộng hòa, để ngăn ngừa việc cưới vợ nhằm lấy của hồi
môn, sau đó li dị, luật La Mã đã qui định: trước khi kết hôn cho phép bố mẹ
hay người chủ hộ (Pater familias) của cô dâu thỏa thuận điều kiện về của hồi
môn nếu hai người li hôn hay người chồng chết trước thì của hồi môn được trả
lại cho vợ9. Thỏa thuận đó được gọi là stipuliatio, thỏa thuận stipuliatio thường
có nội dung sau:
của hồi môn sẽ thuộc về chồng hay nhà chồng nếu như vợ chết
hay của hồi môn sẽ được trả lại cho bố mẹ vợ nếu như vợ chết trước.
4 Hình thức hôn nhân này tồn tại trước thời hoàng đế Justinian, thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học
Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd.
5 Thỏa thuận này tồn tại vào cuối thời kì cộng hòa, khoảng thế kỉ thứ 2 trước công nguyên, thuật ngữ tiếng Việt được
lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd
6 Thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd.
7
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 160
8
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 160
9
Có sự thay đổi thiên về phía bảo vệ quyền lợi cho người phụ này có lẽ bởi khi nhà nước La Mã mở rộng lãnh thổ,
người đàn ông thường phải xa nhà đi chiến đầu và có thể không quay trở về, người phụ nữ buộc phải học cách quản
lí gia đình và quyết định những việc mà trước kia người quyết định luôn là người đàn ông, chính vì vậy giá trị gia
đình đã thay đổi phần nào.6
trong trường hợp người chồng chết thì của hồi môn buộc phải trả lại
cho bố đẻ hay pater familias của vợ10.
Nuptias consentus facit hay stiputliatio thực chất cũng chưa mang tất
cả những đặc điểm của hôn ước nhưng cũng mang những yếu tố sơ khai ban đầu
của hôn ước – đặc trưng của chế độ tài sản ước định.
1.1.2.2. Hôn ước là sản phẩm của một quá trình lịch sử lâu dài
Hôn ước ra đời từ quá trình đấu tranh và dung hòa của các truyền thống
văn hóa, quyền lực nhà nước, quyền tự do của con người và tư tưởng tôn giáo (ở
đây là ki tô giáo - tôn giáo có tầm ảnh hưởng lớn nhất từ trước tới nay11).
Vào thời kì khởi thủy của Ki tô giáo, quan niệm về hôn nhân chịu ảnh
hưởng của hai truyền thống: truyền thống Do Thái12 và truyền thống Roma13.
Theo truyền thống Do Thái, tôn giáo đóng vai trò rất quan trọng trong hôn nhân,
nó được thể hiện thông qua các nghi lễ, các lời chúc tốt lành. Người Do Thái cử
hành hôn nhân thành hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là lễ đính hôn việc cử
hành lễ đính hôn bao gồm cả việc đọc kinh chúc phúc; giai đoạn hai là hôn lễ,
cử hành khoảng một năm sau lễ đính hôn với những nghi lễ long trọng. Trong
khi đó truyền thống Roma lại coi trọng sự thỏa thuận, chính quyền Roma không
can thiệp vào sự cử hành các nghi lễ, họ tôn trọng các phong tục của các dân tộc
sống trên đế quốc La Mã14 tuy nhiên các luật gia La Mã lại sớm ấn định các yếu
tố pháp lí phòng khi xảy ra các trường hợp kiện tụng15. Vì thế, ai muốn cử hành
hôn lễ theo nghi thức nào cũng được nhưng bắt buộc phải có sự thỏa thuận, nếu
như chưa có sự thỏa thuận công khai thì luật pháp coi như hai người chưa phải
là vợ chồng của nhau. Thời kì đầu này có lẽ ki tô giáo chịu ảnh hưởng của
truyền thống Do Thái nhiều hơn16 nên Ki tô giáo không đề cập đến vấn đề thỏa
thuận trong hôn nhân, theo kinh Tân ước: người chồng không được đối xử với
10
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 162
11 Almanach những nên văn minh thế giới, NXB Văn hóa thông tin 1996, tr. 1043
12
Bởi đạo ki tô phát sinh từ trong lòng đạo Do Thái.
13
Đạo Ki tô ra đời tại vùng đất của đế chế La Mã đến năm 61 thì đạo ki tô trở nên phổ biến ở La Mã
14 Khi đó đế quốc La Mã đã rất rộng lớn bao trùm phần lớn châu Âu hiện nay và có nhiều dân tộc sinh sống và các
nghi lễ là vô cùng đa dạng, việc không thể thống nhất nghi lễ kết hôn là điều tất yếu.
15 Kiện tụng có thể xảy ra bởi dưới thời La Mã một thời gian dài người vợ được coi là tài sản của người chồng, tính
chất giống như tài sản của người vợ cũng được biểu hiện ở nghi lễ kết hôn: Ví dụ: nghi lễ Coemptio (nghi lễ này
giống như một hình thức mua vợ), nghi lễ Usus (nghi lễ này có nội dung là hôn nhân xác lập trên thời hiệu kết hôn,
người nam và người nữ theo nguyên tắc consensus chung sống với nhau một năm, chỉ khi trọn 1 năm chung sống thì
mới dược coi là kết hôn và manus của người chồng mới được thiết lập)
16
Bởi có lẽ lúc đó ki tô giáo chưa phát triển mạnh, nó chỉ ở trong phạm vi hạn hẹp của vùng Jerusalem và cũng chưa
được chính quyền dùng đến nhiều
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
người vợ như là một món đồ sở hữu theo quan điểm Roma, vợ chồng phải chung
thủy với nhau, việc li hôn bị cấm.
Thế kỉ thứ II trở đi lãnh thổ của La mã không những không được mở rộng
thêm nữa mà còn luôn bị đe dọa. Giữa thế kỉ thứ IV các bộ lạc người Giéc
Manh17 đã tràn vào xâm lược La Mã, đến thể kỉ thứ V trên sự tan rã của đế quốc
La Mã người Giéc manh đã thiết lập được một số đế quốc phong kiến ở Tây
Âu18. Ở giai đoạn này các cơ cấu xã hội bị đảo lộn, quyền lực chuyển dần về tay
giáo hội. Lúc này các giám mục không những chỉ phải giảng giải về đạo đức
trong hôn nhân, không phải chỉ lo khuyên bảo, răn dạy cho các cặp đôi mà nhiều
lần phải đảm đương vai trò của pháp luật. Thêm vào đó để dung hòa xung đột
với dân truyền thống của dân Giecmanh, sự thỏa thuận trong hôn nhân đã được
khẳng định rõ ràng trong giáo luật. Và để sự thỏa thuận này được thực hiện
nghiêm túc, giáo luật cho rằng sự thỏa thuận cần diễn ra theo thể thức pháp định
thì mới có giá trị.
Sang thế kỉ 13, quan điểm của tôn giáo lại cho rằng sự thỏa thuận là
nguyên nhân tác thành của hôn nhân nhưng nhưng bản chất của sự tác thành nên
hôn nhân lại không phải là một sự thỏa thuận. Đối tượng của sự thỏa thuận
chính là sự kết hợp của vợ chồng mang theo những nghĩa vụ và quyền lợi căn
bản của hôn nhân, vì thế thỏa thuận này đã bao hàm cả những vấn đề quyền lợi
và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, thời kì mà chỉ có điểm bắt đầu
chứ không có điểm kết thúc nếu như một người không qua đời. Có lẽ từ đây mới
xuất hiện một loại khế ước về quyền lợi và nghĩa vụ giữa vợ chồng (bao gồm cả
vấn đề tài sản của vợ chồng) được lập trước khi kết hôn. Loại khế ước này đã
mang đầy đủ hơn các yếu tố của một hôn ước. Giá trị pháp lí của hôn ước đã
được ghi nhận trong Bộ Luật dân sự đầu tiên trên thế giới – Bộ luật dân sự
Napoleon 1804.
Một nguyên do nữa mà theo người viết cũng là lí do khiến cho hôn ước
trở nên phổ biến đối với những người theo công giáo, đó là theo quan niệm của
công giáo thì hôn nhân là một vợ một chồng và bất khả phân li nên giáo hội
không cho phép việc li hôn. Dưới thời trung cổ do giáo hội nắm quyền nên
17 Lúc đó người Giec Manh vẫn chưa có nhà nước, sau khi xâm lược La Mã họ đã có bước nhảy vọt chuyển từ xã hội
thị tộc sang xã hội phong kiến, không qua giai đoạn xã hội chủ nô.
18
Vương quốc Vi di gôt gồm Tây Ba Nha và miền tây nam Gô lơ, Vương quốc Buyếc gông ở miền nam Gô lơ,
Vương quốc Frăng ở Bắc Gô lơ, vương quốc Xắc xông ở Anh, vương quốc Ôxtorogot ở Italya…8
pháp luật các nước cũng không cho phép vợ chồng li hôn. Tuy nhiên trong đời
sống chung vợ chồng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn và nhiều trường
hợp mâu thuẫn đó dẫn đến tình trạng vợ chồng không muốn chung sống hay
không thể chung sống với nhau nữa. Lúc đó cần có một giải pháp để giải tỏa
xung đột giữa vợ chồng và việc sống li thân cùng với sự biệt lập về tài sản là
cần thiết. Vậy nên việc qui định trước về vấn đề tài sản của vợ chồng là cần
thiết để đảm bảo tự do cho cá nhân.
Theo người viết, có nhìn nhận về sự ra đời của hôn ước như trên
mới thấy được tính khách quan của sự tồn tại của hôn ước, của chế độ tài
sản ước định.
1.1.3. Đặc điểm của hôn ước
Về chủ thể: Hôn ước chỉ phát sinh hiệu lực giữa những người có
quan hệ hôn nhân hợp pháp (có làm các thủ tục cần thiết để đăng kí kết hôn với
cơ quan có thẩm quyền). Do hôn ước có tính hoạch định cao nên các cặp vợ
chồng thuộc trường hợp hôn nhân thực tế, chung sống như vợ chồng dù được
công nhận là hợp pháp cũng không được coi là chủ thể của hôn ước. Hôn nhân
thực tế hay việc công nhận tính hợp pháp của các quan hệ chung sống như vợ
chồng không phải là lạc hậu và chỉ tồn tại ở một số quốc gia đang phát triển.
Hôn nhân thực tế (cohabition) được ghi nhận và thậm chí việc công nhận hôn
nhân thực tế còn là xu hướng của pháp luật các quốc gia phương Tây đặc biệt là
các quốc gia theo thông luật (common law).
Về mục đích: Hôn ước tạo điều kiện cho vợ chồng tự chủ hơn trong
việc quản lí tài chính, hoạch định tương lai (thậm chí tương lai đó bao gồm cả
việc li hôn). Mặc dù không hoàn toàn, nhưng hôn ước và cả chế độ tài sản ước
định cũng xuất phát từ lợi ích chung của gia đình và có mục đích là góp phần
vào sự vững bền của hạnh phúc gia đình.
Về hình thức: Hôn ước buộc phải được lập bằng văn bản có chữ kí
của hai bên nam nữ sắp trở thành vợ chồng19. Pháp luật của nhiều nước thường
qui định hôn ước phải được công chứng và cơ quan có thẩm quyền xác nhận tính
19 Công ước Lahaye năm 1978 về lựa chọn luật áp dụng với chế độ tài sản vợ chồng chỉ yêu cầu hôn ước phải được
lập bằng văn bản và có chữ kí của cả hai người, Đạo luật thống nhất về hôn ước của Hoa Kì (đã được chấp nhận ở đa
số các bang của Hoa Kì) cũng qui định hôn ước chỉ cần được lập bằng văn bản và có chữ kí của hai bên và không
cần thêm bất cứ một sự xác thực nào khác.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
hợp pháp (bằng các hình thức công chứng và đăng kí hôn ước cùng với thời
điểm đăng kí kết hôn).
Về nội dung: Trong hôn ước, vợ chồng tối thiểu phải thỏa thuận về
cách hay qui định về việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của mình.
Những thỏa thuận trong hôn ước không được trái với trật tự công cộng và đạo
đức xã hội. Trong hôn ước vợ chồng chỉ có thể thỏa thuận về vấn đề tài sản và
không thể thỏa thuận hay làm khác đi quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng hay
các quan hệ nhân thân khác đã được pháp luật qui định.
Về hiệu lực: Hôn ước phải được lập trước khi kết hôn, để đảm bảo
phát sinh hiệu lực, hôn ước phải được lập theo thể thức mà pháp luật nội địa
(luật nơi vợ chồng cư trú và có quốc tịch) hay pháp luật nơi lập hôn ước qui
định20. Hôn ước phát sinh hiệu lực kể từ khi hai bên nam nữ trở thành vợ chồng
hợp pháp.
Về vấn đề sửa đổi, hủy bỏ: việc thay đổi hay chấm dứt hiệu lực của
hôn ước phải theo một thể thức nhất định, việc thay đổi thường được tiến hành
theo hình thức lập hôn ước. Trước đây hôn ước là bất di bất dịch tuy nhiên qui
định này đã trở nên lỗi thời, hiện nay các quốc gia cho phép vợ chồng thay đổi
hay hủy bỏ hôn ước nhưng thường đặt điều kiện về thời gian có hiệu lực của
hôn ước trước hay điều kiện về hình thức, về sự phê chuẩn.
1.2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI VIỆC QUI ĐỊNH VỀ HÔN ƯỚC
Không giống như các chế định pháp luật khác, hôn ước “nhập cư”, “tồn
tại” và bị “trục xuất” khỏi pháp luật Việt Nam một cách lặng lẽ, không dựa vào
cơ sở xã hội nào21.
Mặc dù trong xã hội phong kiến Việt Nam, các qui định về hôn nhân gia
đình chiếm một vị trí quan trọng trong các văn bản pháp luật song tuyệt nhiên
chế độ tài sản vợ chồng không được qui định như một chế định riêng rẽ và cụ
thể22. Pháp luật thời kì phong kiến lại càng không hề biết đến một qui định mang
20 Điều 12 Công ước Lahaye 1978, điều này cũng là nguyên tắc chung.
21
Trên thực tế, hôn ước chưa từng được áp dụng ở Việt Nam và gần như tất cả các qui định trong pháp luật Việt
Nam về hôn ước đều là sự sao chép. Vấn đề này sẽ được làm rõ trong phần 1.2.
22
TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, sđd, tr. 5010
nội hàm như hôn ước đang nói tới ở đây23. Đến thời thực dân Pháp xâm lược,
hôn ước mới cùng thiên chúa giáo lần đầu du nhập vào Việt Nam.
1.2.1. Hôn ước trong pháp luật thời kì Pháp thuộc
Trong thời kì Pháp thuộc, với chính sách “chia để trị” thực dân Pháp chia
nước ta thành ba miền và ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng
để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình.
Ở Bắc kì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1931 (Dân luật Bắc kì)
Ở Trung kì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1936 (Dân luật Trung kì)
Ở Nam kì cho ban hành tập Dân luật giản yếu năm 1883 (Dân luật
giản yếu Nam kì)
Hôn ước được ghi nhận trong Dân luật Bắc kì, Dân luật Trung kì, riêng
tập Dân luật giản yếu Nam kì không có ghi nhận về hôn ước cũng như vấn đề tài
sản vợ chồng24 tuy nhiên án lệ ở Nam kì trong thời kì này lại “luôn luôn nhắc lại
nguyên tắc tự do lập hôn ước mà các tòa án Pháp coi là lẽ đương nhiên được áp
dụng trong khi không có luật viết”25.
Điều 104 Tiết thứ IV thiên thứ V quyển thứ nhất Dân luật Bắc kì qui định
rằng: “Về đường tài sản, pháp luật chỉ can thiệp đến toàn thể vợ chồng là khi
nào vợ chồng không có tùy ý lập ước riêng với nhau mà thôi, miễn là ước riêng
ấy không được trái với phong tục và trái với quyền lợi người chồng là người chủ
trương trong đoàn thể”. Điều 105 lại qui định rằng: “Phàm tư ước về tài sản giá
thú phải làm thành chứng thư tại trước mặt “no-te”26, hay do Lý trưởng thị
thực, mà phải làm trước khi khai giá thú. Đã khai giá thú rồi thì không được
thay đổi gì nữa. Hôn ước phải do các người có quyền ưng thuận trong việc giá
thú ký nhận cho mới được. Phàm tư ước về tài sản giá thú, phải biện chú vào
chứng thư giá thú thì mới có thể đem đối dụng với người ngoài được. Ai muốn
xin trích lục chứng thư giá thú về khoản biên chú các tư ước ấy, thì sẽ do bộ lại
cấp phát cho”. Có thể thấy hôn ước đã được thừa nhận trong Dân luật Bắc kì với
23
Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam (tập 1 Hôn sản – Tư sản), Sài Gòn tháng 2 năm 1960 tr. 39
có đoạn viết: “Trong cổ luật của ta như luật Hồng Đức, không hề thấy nói đến hôn ước hay hôn khế: vợ chồng lấy
nhau, đương nhiên theo chế độ hôn sản do tục lệ hay pháp luật ấn định và hình như trong thời kì hôn thú họ có thể
làm giấy tờ để thỏa thuận hay ấn định lại sự quản trị của một vài thứ của. Nhưng luật cũ không biết đến hôn ước
theo nghĩa chuyên môn của luật pháp hiện đại. Điều 94 luật Gia Long có nói đến hôn thư mà hai bên vợ và chồng
trao đổi trước khi cưới, nhưng hôn thư không có liên lạc gì tới hôn ước hiện nay”.
24
Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr 4 có đoạn viết: “riêng về tài sản trong gia đình tập
Giản yếu không nói gì đến hôn sản, di sản và tự sản”.
25
Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr 39.
26 Văn bản đã phiên tâm từ “notaire” trong tiếng Pháp có nghĩa là công chứng viên thành “no-te”.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
đầy đủ các đặc điểm, tiêu chí cần có của một hôn ước. Về hình thức, hôn ước
dưới thời này cũng buộc phải lập bằng văn bản và được xác nhận bởi công
chứng viên hay lí trưởng; hôn ước phải lập trước khi kết hôn và không thể thay
đổi trong suốt thời kì hôn nhân. Về nội dung, hôn ước không được trái với
phong tục tập quán và quyền lợi của người chồng, trong giai đoạn này, quyền
gia trưởng của người chồng được coi là một thứ trật tự công cần được bảo vệ.
Dân luật Trung kì cũng qui định về hôn ước, nhưng cách sắp xếp cũng
như nội dung đã chép theo bộ Dân luật Bắc kì, cả những nét chính và những
nguyên tắc vẫn được giữ nguyên. Điều 102 và 103 của Dân luật Trung kì có nội
dung hệt như Điều 104 và 105 Dân luật Bắc kì, có chăng là chỉ khác nhau về
ngôn từ và sự khác nhau này không ảnh hưởng gì đến nội dung của qui định27.
Mặc dù là qui định của pháp luật Việt Nam, nhưng những qui định này
đã chép gần như nguyên văn điều 1387 dân luật Pháp. Hôn ước và nguyên tắc tự
do lập hôn ước không hề xuất phát từ nhu cầu của xã hội Việt Nam thời bấy giờ
mà được du nhập vào Việt Nam dưới sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp. Sự cấy
ghép pháp luật không có tính toán này đã khiến cho các qui định về hôn ước trở
nên thừa và vô tác dụng. Hầu như dân chúng đều chưa biết gì đến qui định pháp
lí mới mẻ này28. Hơn nữa, dưới chế độ phong kiến dẫu có quan tâm đến tài sản
trong hôn nhân thì người ta cũng chỉ quan tâm đến sự môn đăng hộ đối của hai
gia đình chứ không hề đề cập đến quyền lợi vật chất một cách quá rõ ràng và
thiếu tinh thần giao hiếu như những gì qui định trong hôn ước.
Mặt khác có lẽ cũng vì hôn ước không phù hợp với tình hình xã hội Việt
Nam đương thời nên các nhà làm luật cũng chỉ qui định một cách “lấy lệ” khiến
cho chúng ta dễ dàng thấy được tính không hoàn chỉnh, không chặt chẽ của qui
định hôn ước khi xem xét toàn bộ các qui định về chế độ tài sản vợ chồng ở đây.
Theo qui định thì khi sử dụng quyền tự do lập hôn ước, hai vợ chồng có thể tùy
một cách phù hợp. Theo qui định về thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân, chế độ biệt sản có thể được xác lập mà khi đó không hề có một qui định nào
bảo vệ cho lợi ích chung của gia đình ngoại trừ qui định về trách nhiệm liên đới của
vợ chồng với các giao dịch do một bên thực hiện nhằm đáp ứng như cầu thiết yếu
của gia đình105 song các nhu cầu cần thiết không phải lúc nào cũng được xem là
thiết yếu. Theo người viết, cần qui định thêm hệ quả về quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng khi căn cứ xác lập tài sản của vợ chồng đã bị thay đổi.
2.3.2.2. Thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ chồng thành tài sản chung
Qui định về nhập tài sản riêng của vợ chồng vào khối tài sản chung đã tồn
tại trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986 qui định “đối với tài sản mà vợ chồng có trước khi kết hôn, tài sản được
thừa kế riêng hay được cho riêng trong thời kì hôn nhân thì người có tài sản đó có
quyền nhập hay không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng” và việc nhập
tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng được thực hiện theo qui định của
Nghị định số 45-HĐBT ngày 27/2/1991 về tổ chức và hoạt động của công chứng
nhà nước106.
Theo Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình: Vợ, chồng có quyền nhập hoặc
không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia
đình: tài sản chung của vợ chồng gồm cả những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là
tài sản chung; như vậy, theo những qui định này vợ chồng có quyền thỏa thuận
nhập tài sản riêng thành tài sản chung của vợ chồng. Mặc dù vợ chồng có thể thỏa
thuận miệng việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung và theo qui định của
pháp luật hôn nhân và gia đình thì khối tài sản chung luôn có xu hướng hút khối tài
sản riêng107 nhưng để tránh những tranh chấp về tài sản sau này (bao gồm cả việc
vợ chồng tranh chấp tài sản khi li hôn hay tranh chấp tài sản với người thứ ba khi
vợ chồng lợi dụng qui định này để tẩu táng tài sản108), Điều 13 Nghị định số 70 đã
qui định:
105 Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình: “Vợ hay chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp
pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”
106 Điều 27 Nghị định số 45- HĐBT có qui định: “Công chứng viên chứng nhận tài sản mà vợ hay chồng có trước
khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hay được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân hay tài sản đó được nhập vào
khối tài sản chung của vợ chồng trên cơ sở đơn của người có tài sản đó”
107
Khoa Luật - Đại học Cần Thơ, Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình (tập 2), tr. 9
108
Nếu không qui định bắt buộc phải lập bằng văn bản thì khi vợ hay chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng
vợ chồng có thể thông đồng để khẳng định rằng tài sản đó đã được nhập thành tài sản chung và đã chi dùng cho đời
sống chung hay khi tài sản đó tồn tại thì chỉ một nửa giá trị tài sản đó phải thanh toán cho nghĩa vụ riêng.44
“1. Việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá
trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hay chồng vào tài sản chung của vợ
chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật Hôn nhân và gia đình phải được
lập thành văn bản, có chữ kí của cả vợ và chồng. Văn bản đó có thể được công
chứng hay chứng thực theo qui định của pháp luật.
2. Việc nhập tài sản riêng của một bên vào khối tài sản chung của vợ chồng
nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ riêng của bên đó về tài sản thì vô hiệu theo
qui định tại Điều 11 của Nghị định này”.
Thực tế, thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ chồng thành tài sản chung của
vợ chồng chỉ có tác dụng chuyển các tài sản riêng của vợ chồng thành tài sản chung
mà không hề phát sinh hậu quả về căn cứ xác lập tài sản vợ chồng trong tương lai.
2.3.2.3. Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng
Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng được qui định
trong Nghị định 70 tại Điều 9: Khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng109 và
Điều 10: Thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung110. Về cơ
bản có thể thấy rằng Nghị định 70 qui định thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản
chung của vợ chồng với hình thức và hiệu lực tương đương với thỏa thuận chia tài
sản chung của vợ chồng. Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng
cũng làm thay đổi căn cứ xác lập tài sản vợ chồng.
Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng có những đặc trưng
quan trọng về thời điểm và hậu quả pháp lí.
Chỉ có thể lập thỏa thuận khôi phục tài sản chung của vợ chồng sau
đã chia tài sản chung của vợ chồng. Có thể nói rằng chỉ có việc chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kì hôn nhân mới làm thay đổi chế độ tài sản của vợ chồng
109 Điều 9: “1.Trong trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung và sau đó muốn khôi phục chế độ tài sản chung, thì
vợ chồng phải thoả thuận bằng văn bản có ghi rõ các nội dung sau đây:a) Lý do khôi phục chế độ tài sản chung;b)
Phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên;c) Phần tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, nếu có;d) Thời điểm
có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung;đ) Các nội dung khác, nếu có.2. Văn bản thoả thuận phải ghi rõ
ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả vợ và chồng; văn bản thoả thuận có thể có người làm chứng
hay được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng hay theo quy định của pháp luật.”
110 Điều 10: “1. Trong trường hợp văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng không xác định
rõ thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn
bản. 2. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng hay chứng thực
theo yêu cầu của vợ chồng, thì văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng phải được
công chứng hay chứng thực và việc khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu lực kể từ ngày xác định trong văn bản
thoả thuận; nếu văn bản không xác định ngày có hiệu lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công
chứng, chứng thực.3. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải công chứng,
chứng thực theo quy định của pháp luật, thì văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung cũng phải được
công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật và có hiệu lực kể từ ngày được công chứng, chứng thực.”
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi45
nên việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng chỉ được đặt ra sau khi đã
chia tài sản chung của vợ chồng.
Nếu như với thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân: tại
thời điểm lập thỏa thuận vợ chồng buộc phải có tài sản chung, với thỏa thuận nhập
tài sản riêng của vợ chồng thành tài sản chung: tại thời điểm lập thỏa thuận vợ hoặc
chồng hay cả hai buộc phải có tài sản riêng, thì vợ chồng không cần có bất cứ một
loại tài sản nào cũng vẫn được lập thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của
vợ chồng. Sở dĩ như vậy là bởi điều quan trọng nhất của thỏa thuận này là đưa căn
cứ xác lập tài sản của vợ chồng trở về nguyên vẹn như qui định của luật. Hậu quả
pháp lí của thỏa thuận này là khôi phục lại căn cứ xác lập tài sản như pháp luật đã
định (tài sản tạo ra thu nhập trong thời kì hôn nhân là tài sản chung, hoa lợi lợi tức
phát sinh từ mọi loài tài sản là tài sản chung); trong khi hậu quả pháp lí của thỏa
thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là làm thay đổi căn cứ xác lập tài
sản (vợ chồng có thể thỏa thuận các tài sản tạo ra thu nhập được hay hoa lợi lợi tức
phát sinh từ các loại tài sản (trừ tài sản chung không chia) sau khi chia là tài sản
chung hay tài sản riêng) còn thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ chồng thành tài
sản chung thì chẳng làm phát sinh hậu quả pháp lí nào đối với các tài sản vợ chồng
tạo ra thu nhập hay hoa lợi lợi tức với các loại tài sản sau khi nhập.
Nhận xét chung về những qui định cho phép vợ chồng được thỏa
thuận làm thay đổi về căn cứ xác lập tài sản
Thứ nhất, các thỏa thuận này thực chất chỉ là thỏa thuận làm thay đổi về căn
cứ xác lập tài sản vợ chồng (không bao gồm thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng với tài sản hay cách thức phân chia tài sản111) đối với một số loại tài sản
(không bao gồm tài sản được tặng cho, thừa kế).
Thứ hai, pháp luật không hề hạn chế đối với việc lập các văn bản thỏa thuận
kể trên: không hạn chế về số lần lập thỏa thuận, không hạn chế về số loại thỏa
thuận được lập, chỉ cần thời gian lập thỏa thuận là trong thời kì hôn nhân (có thể là
ngay sau khi kết hôn hay ngay trước khi li hôn) và điều kiện lập thỏa thuận chỉ là lí
do chính đáng, không được lập để nhằm trốn tránh một số nghĩa vụ dân sự.
Thứ ba, qua các văn bản thỏa thuận, vợ chồng hoàn toàn có thể tự thỏa thuận
một cách tùy ý về hậu quả pháp lí đối với các tài sản sẽ phát sinh trong tương lai
111 Thỏa thuận về căn cứ xác lập, quyền và nghĩa vụ và cách thức phân chia tài sản vợ chồng chính là thỏa thuận về
toàn bộ chế độ tài sản vợ chồng.46
bao gồm hoa lợi lợi tức và thu nhập hợp pháp của vợ chồng (không bao gồm tài sản
được tặng cho thừa kế có thể phát sinh trong tương lai).
Thứ tư, qua các loại thỏa thuận đã nêu, một loại tài sản thuộc khối tài sản
chung đều có thể chuyển thành tài sản riêng của vợ hay chồng và ngược lại (như ở
bảng dưới)
Kí hiệu: N: Thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung;
C: Thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
K: Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỤC LỤC
Mục lục trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÔN ƯỚC – ĐẶC TRƯNG CỦA
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN ƯỚC ĐỊNH
1.1. Hôn ước và các chế độ tài sản 3
1.1.1. Khái niệm hôn ước và các chế độ tài sản vợ chồng 3
1.1.2. Sơ lược lịch sử hình thành của hôn ước 4
1.1.3. Đặc điểm của hôn ước 8
1.2. Pháp luật Việt Nam với việc qui định về hôn ước 9
1.2.1. Hôn ước trong pháp luật thời kì Pháp thuộc 10
1.2.2. Hôn ước theo hệ thống pháp luật ở miền nam nước ta trước
ngày thống nhất đất nước (1954 - 1975)
12
1.2.3. Hôn ước trong pháp luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta
từ Cách mạng Tháng tám (1945) đến nay
14
1.3. Hôn ước trong pháp luật một số nước trên thế giới 16
1.3.1 Hôn ước theo pháp luật của Cộng hòa Pháp 16
1.3.2 Hôn ước theo pháp luật của Hoa Kì 19
1.3.3 Hôn ước theo pháp luật của Nhật Bản 21
1.3.4 Hôn ước theo pháp luật của Thái Lan 22
Chương 2 KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HÔN ƯỚC
TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
2.1 Hôn ước phổ biến và là xu hướng của thế giới 25
2.1.1 Hôn ước trong tư pháp quốc tế 25
2.1.2 Hôn ước được áp dụng tại nhiều quốc gia 27
2.2. Hôn ước phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội Việt
Nam hiện đại
28
2.2.1. Sự thay đổi về yếu tố cá nhân và chức năng kinh tế trong gia đình 28
2.2.2 Tình trạng chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân để đầu tư
kinh doanh riêng.
31
2.2.3 Tình trạng li hôn gia tăng kèm theo vấn đề chia tài sản khi li hôn 332.2.4 Hiện tượng kết hôn với người nước ngoài trở nên phổ biến 34
2.2.5 Dư luận xã hội 35
2.2.6 Quan điểm của các nhà nghiên cứu luật 35
2.3 Xu hướng tương thích của pháp luật Việt Nam với hôn ước 36
2.3.1 Qui định về công nhận và cho thi hành bản án của tòa án
nước ngoài
36
2.3.2 Những qui định cho phép vợ chồng được thỏa thuận làm thay
đổi về căn cứ xác lập tài sản
39
2.4 Một số kiến nghị về việc áp dụng hôn ước tại Việt Nam 47
2.4.1 Hoàn thiện các qui định về các vấn đề về tài sản vợ chồng mà
vợ chồng được thỏa thuận và lộ trình áp dụng hôn ước
47
2.4.2 Hình thức và nội dung của các qui định kiến nghị áp dụng 50
LỜI KẾT 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục 1
Phụ lục 2
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi1
LỜI MỞ ĐẦU
Khi chưa bước vào hôn nhân, hai người nam nữ là những người có tài sản
riêng, hoàn toàn tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. Khi bước vào hôn
nhân, điều đó đã khác. Tất cả các vấn đề về tài sản của họ được điều chỉnh bởi
một qui chế pháp lí có tên là “chế độ tài sản vợ chồng”. Theo một logic đơn
thuần: khi chưa bước vào hôn nhân, từng cá nhân được tự do định đoạt tài sản của
mình thì trong hôn nhân hai cá nhân đó cũng được thỏa thuận định đoạt chế độ tài
sản vợ chồng. Có lẽ vì thế mà hầu hết các quốc gia trên thế giới cho phép những
người sắp kết hôn tự thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng bằng một văn bản có
tên là “hôn ước”. Việt Nam thì không như vậy: chế độ tài sản vợ chồng chỉ do
pháp luật qui định.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội, chế độ tài sản vợ chồng của
Việt Nam đã có những sự thay đổi đáng kể, từ chỗ không chấp nhận bất cứ thỏa
thuận nào của vợ chồng về việc xác lập tài sản (như qui định trong Luật hôn nhân
và gia đình năm 1959) đến chỗ cho phép vợ chồng được thỏa thuận về việc chia
tài sản chung trong thời kì hôn nhân thậm chí thỏa thuận cả về hậu quả của việc
chia tài sản này (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị định 70/2001/NĐ-
CP). Sự thay đổi đó phải chăng đã khiến cho các qui định pháp luật tiến gần hơn
tới chỗ chấp nhận hôn ước? Vì thế nghiên cứu về hôn ước là điều cần thiết để giải
đáp câu hỏi này. Mặt khác, trong quá trình hội nhập, các quan hệ hôn nhân có yếu
tố nước ngoài ngày một nhiều, điều đó khiến chúng ta không thể thờ ơ trước vấn
đề hôn ước bởi hôn ước được pháp luật ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi
nhận. Vì vậy, người viết đã chọn đề tài “Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp
dụng hôn ước ở Việt Nam” để làm khóa luận tốt nghiệp.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, người viết mong muốn khái quát được
nội hàm, đặc điểm của hôn ước và nêu ra xu hướng áp dụng hôn ước của xã hội
Việt Nam hiện đại, người viết cũng mong muốn đề nghị một lộ trình phù hợp cho
việc áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam.2
Ở nước ta, từ sau khi thống nhất (1975), hôn ước ít khi trở thành đối tượng
chính của các công trình nghiên cứu khoa học. Dù khi đề cập đến chế độ tài sản
vợ chồng hầu như các nghiên cứu khoa học đều có nói đến hôn ước; song theo
người viết tìm hiểu thì hôn ước chỉ được coi là đối tượng nghiên cứu chính trong
hai bài báo “Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong pháp luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam” của ThS Nguyễn Hồng Hải và “Chế độ tài sản theo thỏa
thuận của vợ chồng trong pháp luật Cộng hòa Pháp và pháp luật Việt Nam” của
ThS Bùi Minh Hồng. Tuy nhiên với phạm vi của một bài báo khoa học, hai bài
nghiên cứu này chưa thể đề cập một cách tổng quan và đầy đủ về hôn ước cũng
như khả năng áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam hiện đại.
Vì vậy, khóa luận này, với đề tài đã chọn sẽ cố gắng đưa ra những điểm
mới sau đây:
nghiên cứu khái quát về hôn ước bao gồm lược sử, nội hàm và đặc điểm
của hôn ước;
nghiên cứu và bình luận về hôn ước ở Việt Nam qua từng thời kì lịch sử;
tìm hiểu về hôn ước ở các nước có các đặc điểm hình thái xã hội và pháp
luật khác nhau;
nghiên cứu về sự phù hợp của hôn ước với xu hướng phát triển của xã hội
Việt Nam;
nghiên cứu một giải pháp phù hợp cho việc áp dụng hôn ước ở Việt Nam.
Về phương pháp nghiên cứu, khóa luận đã sử dụng kết hợp phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, phương pháp
phân tích – tổng hợp, phương pháp Luật học so sánh và phương pháp thu thập
thông tin để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
Về bố cục, khóa luận kết cấu thành hai chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung về hôn ước – đặc trưng của chế độ tài sản
ước định.
Chương 2: Khả năng áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam hiện đại.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÔN ƯỚC – ĐẶC TRƯNG CỦA
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN ƯỚC ĐỊNH
1.1. HÔN ƯỚC VÀ CÁC CHẾ ĐỘ TÀI SẢN
1.1.1. Khái niệm hôn ước và các chế độ tài sản vợ chồng
1.1.1.1. Chế độ tài sản vợ chồng
Do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân mà các vấn đề về quyền sở
hữu đối với tài sản của vợ chồng không thể chỉ điều chỉnh bằng các qui định
chung về sở hữu tài sản thông thường. Tất cả các quốc gia trên thế giới dù chế
độ xã hội khác nhau, trình độ phát triển kinh tế khác nhau, điều kiện về phong
tục tập quán, truyền thống văn hóa khác nhau, tất cả các quốc gia đó dù đã qui
định về quyền sở hữu tài sản thông thường nhưng ít hay nhiều cũng đều có qui
định riêng về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng.
“Tổng hợp các qui định của pháp luật về căn cứ xác lập tài sản, quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng, nguyên tắc phân
chia tài sản vợ chồng là chế độ tài sản của vợ chồng”1. Nói đến chế độ tài sản
vợ chồng là nói đến vấn đề sở hữu đối với tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản
của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kì hôn nhân (từ khi kết hôn cho đến khi hôn
nhân chấm dứt) và cũng do đó chế độ tài sản vợ chồng không bao gồm các vấn
đề thừa kế tài sản giữa vợ và chồng, vấn đề cấp dưỡng của vợ chồng.
1.1.1.2. Chế độ tài sản pháp định và chế độ tài sản ước định
Về hình thức pháp lí, chế độ tài sản vợ chồng có thể được xác định theo
căn cứ pháp luật (chế độ tài sản pháp định) hay theo thỏa thuận của vợ chồng
(chế độ tài sản ước định).
Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu về
căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản của vợ
chồng. Chế độ tài sản pháp định được pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế
giới dự liệu.
1
TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Tư pháp,
2008, tr 8.4
Khác với chế độ tài sản pháp định, chế độ tài sản ước định là chế độ tài
sản mà trong đó căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài
sản của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận.
1.1.1.3. Hôn ước
Khi áp dụng chế độ tài sản ước định, vợ chồng được tự do thỏa thuận
về chế độ tài sản trong thời kì hôn nhân. Văn bản ghi nhận sự thỏa thuận đó
là hôn ước.
Hôn ước là văn bản do hai bên nam nữ lập trước khi kết hôn theo thể
thức nhất định trong đó ghi nhận sự thỏa thuận của họ về chế độ tài sản vợ
chồng được áp dụng trong thời kì hôn nhân và chỉ phát sinh hiệu lực trong thời
kì hôn nhân.
1.1.2. Sơ lược lịch sử hình thành của hôn ước
Theo quan điểm thịnh hành của các luật gia Việt Nam, hôn ước ra đời do
quan điểm của các nhà lập pháp phương Tây, theo họ hôn nhân thực chất chỉ là
một loại hợp đồng dân sự chỉ khác ở sự trang trọng khi thiết lập và trong việc
chấm dứt; bên cạnh đó, các nhà làm luật của phương Tây cũng đề cao quyền tự
do cá nhân, quyền định đoạt tài sản của vợ chồng2. Tuy nhiên nếu tóm lược sự ra
đời của hôn ước như vậy sẽ không phản ánh được hết nguyên nhân khách quan
của sự tồn tại của hôn ước. Theo người viết, như các qui định khác, hôn ước có
nguồn gốc lịch sử lâu đời, có quá trình phát triển.
1.1.2.1. “Thỏa thuận hôn nhân” và “thỏa thuận về điều kiện của
hồi môn”
Có lẽ những hôn ước đầu tiên đã được xuất hiện từ thời La Mã cổ đại
dưới hình thức thỏa thuận hôn nhân (nuptias consensus facit)3 trong hôn nhân
2
Dễ dàng tìm đọc quan điểm này tại các bài viết về chế độ tài sản vợ chồng. xin trích dẫn một vài tài liệu: Nguyễn
Hồng Hải, Xác định tài sản của vợ chồng một số vấn đề lí luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ trường Đại học Luật
Hà Nội, 2002; TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
NXB Tư pháp, 2008; …
3 Tiếng Latinh, thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã (chủ biên
ThS Nguyễn Minh Tuấn), NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2001
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi5
không dưới quyền của người chồng (sine manu)4 hay thỏa thuận về điều kiện
của hồi môn (stipuliatio)5.
Thỏa thuận hôn nhân (nuptias consensus facit)
Dưới thời La Mã vợ chồng không có tài sản chung bởi quyền gia trưởng
của người chồng gần như tuyệt đối, đặc biệt trong hôn nhân dưới quyền của
người chồng (cum manu6), tất cả tài sản của gia đình đều bị coi là tài sản của
người chồng, thậm chí vợ con cũng được coi là tài sản của chồng, người chồng
có thể kiện đối với vợ theo hình thức kiện vật quyền (actio in rem). Hôn nhân
sine manu được đánh giá là một hình thức giải phóng người phụ nữ khỏi quyền
lực (manus) của người chồng. Sine manu được thiết lập trên cơ sở của nuptias
consensus facit7. Nuptias consentus facit thực chất chỉ là một thỏa thuận ghi
nhận và phân định khối tài sản riêng của người vợ có trước thời kì hôn nhân với
các tài sản khác (khối tài sản này được coi là tài sản của người chồng), theo đó
người vợ hoàn toàn được tự chủ trong quan hệ tài sản, người chồng chỉ có thể
thực hiện quản lí tài sản riêng của vợ trên cơ sở hợp đồng ủy quyền quản lí của
người vợ8. Nuptias consentus facit chỉ tồn tại trong hôn nhân sine manu và sine
manu được áp dụng khi con gái của một nhà giàu kết hôn với người nghèo.
Thỏa thuận về điều kiện của hồi môn (stipuliatio)
Vào cuối thời Cộng hòa, để ngăn ngừa việc cưới vợ nhằm lấy của hồi
môn, sau đó li dị, luật La Mã đã qui định: trước khi kết hôn cho phép bố mẹ
hay người chủ hộ (Pater familias) của cô dâu thỏa thuận điều kiện về của hồi
môn nếu hai người li hôn hay người chồng chết trước thì của hồi môn được trả
lại cho vợ9. Thỏa thuận đó được gọi là stipuliatio, thỏa thuận stipuliatio thường
có nội dung sau:
của hồi môn sẽ thuộc về chồng hay nhà chồng nếu như vợ chết
hay của hồi môn sẽ được trả lại cho bố mẹ vợ nếu như vợ chết trước.
4 Hình thức hôn nhân này tồn tại trước thời hoàng đế Justinian, thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học
Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd.
5 Thỏa thuận này tồn tại vào cuối thời kì cộng hòa, khoảng thế kỉ thứ 2 trước công nguyên, thuật ngữ tiếng Việt được
lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd
6 Thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd.
7
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 160
8
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 160
9
Có sự thay đổi thiên về phía bảo vệ quyền lợi cho người phụ này có lẽ bởi khi nhà nước La Mã mở rộng lãnh thổ,
người đàn ông thường phải xa nhà đi chiến đầu và có thể không quay trở về, người phụ nữ buộc phải học cách quản
lí gia đình và quyết định những việc mà trước kia người quyết định luôn là người đàn ông, chính vì vậy giá trị gia
đình đã thay đổi phần nào.6
trong trường hợp người chồng chết thì của hồi môn buộc phải trả lại
cho bố đẻ hay pater familias của vợ10.
Nuptias consentus facit hay stiputliatio thực chất cũng chưa mang tất
cả những đặc điểm của hôn ước nhưng cũng mang những yếu tố sơ khai ban đầu
của hôn ước – đặc trưng của chế độ tài sản ước định.
1.1.2.2. Hôn ước là sản phẩm của một quá trình lịch sử lâu dài
Hôn ước ra đời từ quá trình đấu tranh và dung hòa của các truyền thống
văn hóa, quyền lực nhà nước, quyền tự do của con người và tư tưởng tôn giáo (ở
đây là ki tô giáo - tôn giáo có tầm ảnh hưởng lớn nhất từ trước tới nay11).
Vào thời kì khởi thủy của Ki tô giáo, quan niệm về hôn nhân chịu ảnh
hưởng của hai truyền thống: truyền thống Do Thái12 và truyền thống Roma13.
Theo truyền thống Do Thái, tôn giáo đóng vai trò rất quan trọng trong hôn nhân,
nó được thể hiện thông qua các nghi lễ, các lời chúc tốt lành. Người Do Thái cử
hành hôn nhân thành hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là lễ đính hôn việc cử
hành lễ đính hôn bao gồm cả việc đọc kinh chúc phúc; giai đoạn hai là hôn lễ,
cử hành khoảng một năm sau lễ đính hôn với những nghi lễ long trọng. Trong
khi đó truyền thống Roma lại coi trọng sự thỏa thuận, chính quyền Roma không
can thiệp vào sự cử hành các nghi lễ, họ tôn trọng các phong tục của các dân tộc
sống trên đế quốc La Mã14 tuy nhiên các luật gia La Mã lại sớm ấn định các yếu
tố pháp lí phòng khi xảy ra các trường hợp kiện tụng15. Vì thế, ai muốn cử hành
hôn lễ theo nghi thức nào cũng được nhưng bắt buộc phải có sự thỏa thuận, nếu
như chưa có sự thỏa thuận công khai thì luật pháp coi như hai người chưa phải
là vợ chồng của nhau. Thời kì đầu này có lẽ ki tô giáo chịu ảnh hưởng của
truyền thống Do Thái nhiều hơn16 nên Ki tô giáo không đề cập đến vấn đề thỏa
thuận trong hôn nhân, theo kinh Tân ước: người chồng không được đối xử với
10
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 162
11 Almanach những nên văn minh thế giới, NXB Văn hóa thông tin 1996, tr. 1043
12
Bởi đạo ki tô phát sinh từ trong lòng đạo Do Thái.
13
Đạo Ki tô ra đời tại vùng đất của đế chế La Mã đến năm 61 thì đạo ki tô trở nên phổ biến ở La Mã
14 Khi đó đế quốc La Mã đã rất rộng lớn bao trùm phần lớn châu Âu hiện nay và có nhiều dân tộc sinh sống và các
nghi lễ là vô cùng đa dạng, việc không thể thống nhất nghi lễ kết hôn là điều tất yếu.
15 Kiện tụng có thể xảy ra bởi dưới thời La Mã một thời gian dài người vợ được coi là tài sản của người chồng, tính
chất giống như tài sản của người vợ cũng được biểu hiện ở nghi lễ kết hôn: Ví dụ: nghi lễ Coemptio (nghi lễ này
giống như một hình thức mua vợ), nghi lễ Usus (nghi lễ này có nội dung là hôn nhân xác lập trên thời hiệu kết hôn,
người nam và người nữ theo nguyên tắc consensus chung sống với nhau một năm, chỉ khi trọn 1 năm chung sống thì
mới dược coi là kết hôn và manus của người chồng mới được thiết lập)
16
Bởi có lẽ lúc đó ki tô giáo chưa phát triển mạnh, nó chỉ ở trong phạm vi hạn hẹp của vùng Jerusalem và cũng chưa
được chính quyền dùng đến nhiều
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
người vợ như là một món đồ sở hữu theo quan điểm Roma, vợ chồng phải chung
thủy với nhau, việc li hôn bị cấm.
Thế kỉ thứ II trở đi lãnh thổ của La mã không những không được mở rộng
thêm nữa mà còn luôn bị đe dọa. Giữa thế kỉ thứ IV các bộ lạc người Giéc
Manh17 đã tràn vào xâm lược La Mã, đến thể kỉ thứ V trên sự tan rã của đế quốc
La Mã người Giéc manh đã thiết lập được một số đế quốc phong kiến ở Tây
Âu18. Ở giai đoạn này các cơ cấu xã hội bị đảo lộn, quyền lực chuyển dần về tay
giáo hội. Lúc này các giám mục không những chỉ phải giảng giải về đạo đức
trong hôn nhân, không phải chỉ lo khuyên bảo, răn dạy cho các cặp đôi mà nhiều
lần phải đảm đương vai trò của pháp luật. Thêm vào đó để dung hòa xung đột
với dân truyền thống của dân Giecmanh, sự thỏa thuận trong hôn nhân đã được
khẳng định rõ ràng trong giáo luật. Và để sự thỏa thuận này được thực hiện
nghiêm túc, giáo luật cho rằng sự thỏa thuận cần diễn ra theo thể thức pháp định
thì mới có giá trị.
Sang thế kỉ 13, quan điểm của tôn giáo lại cho rằng sự thỏa thuận là
nguyên nhân tác thành của hôn nhân nhưng nhưng bản chất của sự tác thành nên
hôn nhân lại không phải là một sự thỏa thuận. Đối tượng của sự thỏa thuận
chính là sự kết hợp của vợ chồng mang theo những nghĩa vụ và quyền lợi căn
bản của hôn nhân, vì thế thỏa thuận này đã bao hàm cả những vấn đề quyền lợi
và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, thời kì mà chỉ có điểm bắt đầu
chứ không có điểm kết thúc nếu như một người không qua đời. Có lẽ từ đây mới
xuất hiện một loại khế ước về quyền lợi và nghĩa vụ giữa vợ chồng (bao gồm cả
vấn đề tài sản của vợ chồng) được lập trước khi kết hôn. Loại khế ước này đã
mang đầy đủ hơn các yếu tố của một hôn ước. Giá trị pháp lí của hôn ước đã
được ghi nhận trong Bộ Luật dân sự đầu tiên trên thế giới – Bộ luật dân sự
Napoleon 1804.
Một nguyên do nữa mà theo người viết cũng là lí do khiến cho hôn ước
trở nên phổ biến đối với những người theo công giáo, đó là theo quan niệm của
công giáo thì hôn nhân là một vợ một chồng và bất khả phân li nên giáo hội
không cho phép việc li hôn. Dưới thời trung cổ do giáo hội nắm quyền nên
17 Lúc đó người Giec Manh vẫn chưa có nhà nước, sau khi xâm lược La Mã họ đã có bước nhảy vọt chuyển từ xã hội
thị tộc sang xã hội phong kiến, không qua giai đoạn xã hội chủ nô.
18
Vương quốc Vi di gôt gồm Tây Ba Nha và miền tây nam Gô lơ, Vương quốc Buyếc gông ở miền nam Gô lơ,
Vương quốc Frăng ở Bắc Gô lơ, vương quốc Xắc xông ở Anh, vương quốc Ôxtorogot ở Italya…8
pháp luật các nước cũng không cho phép vợ chồng li hôn. Tuy nhiên trong đời
sống chung vợ chồng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn và nhiều trường
hợp mâu thuẫn đó dẫn đến tình trạng vợ chồng không muốn chung sống hay
không thể chung sống với nhau nữa. Lúc đó cần có một giải pháp để giải tỏa
xung đột giữa vợ chồng và việc sống li thân cùng với sự biệt lập về tài sản là
cần thiết. Vậy nên việc qui định trước về vấn đề tài sản của vợ chồng là cần
thiết để đảm bảo tự do cho cá nhân.
Theo người viết, có nhìn nhận về sự ra đời của hôn ước như trên
mới thấy được tính khách quan của sự tồn tại của hôn ước, của chế độ tài
sản ước định.
1.1.3. Đặc điểm của hôn ước
Về chủ thể: Hôn ước chỉ phát sinh hiệu lực giữa những người có
quan hệ hôn nhân hợp pháp (có làm các thủ tục cần thiết để đăng kí kết hôn với
cơ quan có thẩm quyền). Do hôn ước có tính hoạch định cao nên các cặp vợ
chồng thuộc trường hợp hôn nhân thực tế, chung sống như vợ chồng dù được
công nhận là hợp pháp cũng không được coi là chủ thể của hôn ước. Hôn nhân
thực tế hay việc công nhận tính hợp pháp của các quan hệ chung sống như vợ
chồng không phải là lạc hậu và chỉ tồn tại ở một số quốc gia đang phát triển.
Hôn nhân thực tế (cohabition) được ghi nhận và thậm chí việc công nhận hôn
nhân thực tế còn là xu hướng của pháp luật các quốc gia phương Tây đặc biệt là
các quốc gia theo thông luật (common law).
Về mục đích: Hôn ước tạo điều kiện cho vợ chồng tự chủ hơn trong
việc quản lí tài chính, hoạch định tương lai (thậm chí tương lai đó bao gồm cả
việc li hôn). Mặc dù không hoàn toàn, nhưng hôn ước và cả chế độ tài sản ước
định cũng xuất phát từ lợi ích chung của gia đình và có mục đích là góp phần
vào sự vững bền của hạnh phúc gia đình.
Về hình thức: Hôn ước buộc phải được lập bằng văn bản có chữ kí
của hai bên nam nữ sắp trở thành vợ chồng19. Pháp luật của nhiều nước thường
qui định hôn ước phải được công chứng và cơ quan có thẩm quyền xác nhận tính
19 Công ước Lahaye năm 1978 về lựa chọn luật áp dụng với chế độ tài sản vợ chồng chỉ yêu cầu hôn ước phải được
lập bằng văn bản và có chữ kí của cả hai người, Đạo luật thống nhất về hôn ước của Hoa Kì (đã được chấp nhận ở đa
số các bang của Hoa Kì) cũng qui định hôn ước chỉ cần được lập bằng văn bản và có chữ kí của hai bên và không
cần thêm bất cứ một sự xác thực nào khác.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
hợp pháp (bằng các hình thức công chứng và đăng kí hôn ước cùng với thời
điểm đăng kí kết hôn).
Về nội dung: Trong hôn ước, vợ chồng tối thiểu phải thỏa thuận về
cách hay qui định về việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của mình.
Những thỏa thuận trong hôn ước không được trái với trật tự công cộng và đạo
đức xã hội. Trong hôn ước vợ chồng chỉ có thể thỏa thuận về vấn đề tài sản và
không thể thỏa thuận hay làm khác đi quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng hay
các quan hệ nhân thân khác đã được pháp luật qui định.
Về hiệu lực: Hôn ước phải được lập trước khi kết hôn, để đảm bảo
phát sinh hiệu lực, hôn ước phải được lập theo thể thức mà pháp luật nội địa
(luật nơi vợ chồng cư trú và có quốc tịch) hay pháp luật nơi lập hôn ước qui
định20. Hôn ước phát sinh hiệu lực kể từ khi hai bên nam nữ trở thành vợ chồng
hợp pháp.
Về vấn đề sửa đổi, hủy bỏ: việc thay đổi hay chấm dứt hiệu lực của
hôn ước phải theo một thể thức nhất định, việc thay đổi thường được tiến hành
theo hình thức lập hôn ước. Trước đây hôn ước là bất di bất dịch tuy nhiên qui
định này đã trở nên lỗi thời, hiện nay các quốc gia cho phép vợ chồng thay đổi
hay hủy bỏ hôn ước nhưng thường đặt điều kiện về thời gian có hiệu lực của
hôn ước trước hay điều kiện về hình thức, về sự phê chuẩn.
1.2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI VIỆC QUI ĐỊNH VỀ HÔN ƯỚC
Không giống như các chế định pháp luật khác, hôn ước “nhập cư”, “tồn
tại” và bị “trục xuất” khỏi pháp luật Việt Nam một cách lặng lẽ, không dựa vào
cơ sở xã hội nào21.
Mặc dù trong xã hội phong kiến Việt Nam, các qui định về hôn nhân gia
đình chiếm một vị trí quan trọng trong các văn bản pháp luật song tuyệt nhiên
chế độ tài sản vợ chồng không được qui định như một chế định riêng rẽ và cụ
thể22. Pháp luật thời kì phong kiến lại càng không hề biết đến một qui định mang
20 Điều 12 Công ước Lahaye 1978, điều này cũng là nguyên tắc chung.
21
Trên thực tế, hôn ước chưa từng được áp dụng ở Việt Nam và gần như tất cả các qui định trong pháp luật Việt
Nam về hôn ước đều là sự sao chép. Vấn đề này sẽ được làm rõ trong phần 1.2.
22
TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, sđd, tr. 5010
nội hàm như hôn ước đang nói tới ở đây23. Đến thời thực dân Pháp xâm lược,
hôn ước mới cùng thiên chúa giáo lần đầu du nhập vào Việt Nam.
1.2.1. Hôn ước trong pháp luật thời kì Pháp thuộc
Trong thời kì Pháp thuộc, với chính sách “chia để trị” thực dân Pháp chia
nước ta thành ba miền và ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng
để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình.
Ở Bắc kì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1931 (Dân luật Bắc kì)
Ở Trung kì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1936 (Dân luật Trung kì)
Ở Nam kì cho ban hành tập Dân luật giản yếu năm 1883 (Dân luật
giản yếu Nam kì)
Hôn ước được ghi nhận trong Dân luật Bắc kì, Dân luật Trung kì, riêng
tập Dân luật giản yếu Nam kì không có ghi nhận về hôn ước cũng như vấn đề tài
sản vợ chồng24 tuy nhiên án lệ ở Nam kì trong thời kì này lại “luôn luôn nhắc lại
nguyên tắc tự do lập hôn ước mà các tòa án Pháp coi là lẽ đương nhiên được áp
dụng trong khi không có luật viết”25.
Điều 104 Tiết thứ IV thiên thứ V quyển thứ nhất Dân luật Bắc kì qui định
rằng: “Về đường tài sản, pháp luật chỉ can thiệp đến toàn thể vợ chồng là khi
nào vợ chồng không có tùy ý lập ước riêng với nhau mà thôi, miễn là ước riêng
ấy không được trái với phong tục và trái với quyền lợi người chồng là người chủ
trương trong đoàn thể”. Điều 105 lại qui định rằng: “Phàm tư ước về tài sản giá
thú phải làm thành chứng thư tại trước mặt “no-te”26, hay do Lý trưởng thị
thực, mà phải làm trước khi khai giá thú. Đã khai giá thú rồi thì không được
thay đổi gì nữa. Hôn ước phải do các người có quyền ưng thuận trong việc giá
thú ký nhận cho mới được. Phàm tư ước về tài sản giá thú, phải biện chú vào
chứng thư giá thú thì mới có thể đem đối dụng với người ngoài được. Ai muốn
xin trích lục chứng thư giá thú về khoản biên chú các tư ước ấy, thì sẽ do bộ lại
cấp phát cho”. Có thể thấy hôn ước đã được thừa nhận trong Dân luật Bắc kì với
23
Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam (tập 1 Hôn sản – Tư sản), Sài Gòn tháng 2 năm 1960 tr. 39
có đoạn viết: “Trong cổ luật của ta như luật Hồng Đức, không hề thấy nói đến hôn ước hay hôn khế: vợ chồng lấy
nhau, đương nhiên theo chế độ hôn sản do tục lệ hay pháp luật ấn định và hình như trong thời kì hôn thú họ có thể
làm giấy tờ để thỏa thuận hay ấn định lại sự quản trị của một vài thứ của. Nhưng luật cũ không biết đến hôn ước
theo nghĩa chuyên môn của luật pháp hiện đại. Điều 94 luật Gia Long có nói đến hôn thư mà hai bên vợ và chồng
trao đổi trước khi cưới, nhưng hôn thư không có liên lạc gì tới hôn ước hiện nay”.
24
Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr 4 có đoạn viết: “riêng về tài sản trong gia đình tập
Giản yếu không nói gì đến hôn sản, di sản và tự sản”.
25
Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr 39.
26 Văn bản đã phiên tâm từ “notaire” trong tiếng Pháp có nghĩa là công chứng viên thành “no-te”.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
đầy đủ các đặc điểm, tiêu chí cần có của một hôn ước. Về hình thức, hôn ước
dưới thời này cũng buộc phải lập bằng văn bản và được xác nhận bởi công
chứng viên hay lí trưởng; hôn ước phải lập trước khi kết hôn và không thể thay
đổi trong suốt thời kì hôn nhân. Về nội dung, hôn ước không được trái với
phong tục tập quán và quyền lợi của người chồng, trong giai đoạn này, quyền
gia trưởng của người chồng được coi là một thứ trật tự công cần được bảo vệ.
Dân luật Trung kì cũng qui định về hôn ước, nhưng cách sắp xếp cũng
như nội dung đã chép theo bộ Dân luật Bắc kì, cả những nét chính và những
nguyên tắc vẫn được giữ nguyên. Điều 102 và 103 của Dân luật Trung kì có nội
dung hệt như Điều 104 và 105 Dân luật Bắc kì, có chăng là chỉ khác nhau về
ngôn từ và sự khác nhau này không ảnh hưởng gì đến nội dung của qui định27.
Mặc dù là qui định của pháp luật Việt Nam, nhưng những qui định này
đã chép gần như nguyên văn điều 1387 dân luật Pháp. Hôn ước và nguyên tắc tự
do lập hôn ước không hề xuất phát từ nhu cầu của xã hội Việt Nam thời bấy giờ
mà được du nhập vào Việt Nam dưới sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp. Sự cấy
ghép pháp luật không có tính toán này đã khiến cho các qui định về hôn ước trở
nên thừa và vô tác dụng. Hầu như dân chúng đều chưa biết gì đến qui định pháp
lí mới mẻ này28. Hơn nữa, dưới chế độ phong kiến dẫu có quan tâm đến tài sản
trong hôn nhân thì người ta cũng chỉ quan tâm đến sự môn đăng hộ đối của hai
gia đình chứ không hề đề cập đến quyền lợi vật chất một cách quá rõ ràng và
thiếu tinh thần giao hiếu như những gì qui định trong hôn ước.
Mặt khác có lẽ cũng vì hôn ước không phù hợp với tình hình xã hội Việt
Nam đương thời nên các nhà làm luật cũng chỉ qui định một cách “lấy lệ” khiến
cho chúng ta dễ dàng thấy được tính không hoàn chỉnh, không chặt chẽ của qui
định hôn ước khi xem xét toàn bộ các qui định về chế độ tài sản vợ chồng ở đây.
Theo qui định thì khi sử dụng quyền tự do lập hôn ước, hai vợ chồng có thể tùy
một cách phù hợp. Theo qui định về thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân, chế độ biệt sản có thể được xác lập mà khi đó không hề có một qui định nào
bảo vệ cho lợi ích chung của gia đình ngoại trừ qui định về trách nhiệm liên đới của
vợ chồng với các giao dịch do một bên thực hiện nhằm đáp ứng như cầu thiết yếu
của gia đình105 song các nhu cầu cần thiết không phải lúc nào cũng được xem là
thiết yếu. Theo người viết, cần qui định thêm hệ quả về quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng khi căn cứ xác lập tài sản của vợ chồng đã bị thay đổi.
2.3.2.2. Thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ chồng thành tài sản chung
Qui định về nhập tài sản riêng của vợ chồng vào khối tài sản chung đã tồn
tại trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986 qui định “đối với tài sản mà vợ chồng có trước khi kết hôn, tài sản được
thừa kế riêng hay được cho riêng trong thời kì hôn nhân thì người có tài sản đó có
quyền nhập hay không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng” và việc nhập
tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng được thực hiện theo qui định của
Nghị định số 45-HĐBT ngày 27/2/1991 về tổ chức và hoạt động của công chứng
nhà nước106.
Theo Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình: Vợ, chồng có quyền nhập hoặc
không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia
đình: tài sản chung của vợ chồng gồm cả những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là
tài sản chung; như vậy, theo những qui định này vợ chồng có quyền thỏa thuận
nhập tài sản riêng thành tài sản chung của vợ chồng. Mặc dù vợ chồng có thể thỏa
thuận miệng việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung và theo qui định của
pháp luật hôn nhân và gia đình thì khối tài sản chung luôn có xu hướng hút khối tài
sản riêng107 nhưng để tránh những tranh chấp về tài sản sau này (bao gồm cả việc
vợ chồng tranh chấp tài sản khi li hôn hay tranh chấp tài sản với người thứ ba khi
vợ chồng lợi dụng qui định này để tẩu táng tài sản108), Điều 13 Nghị định số 70 đã
qui định:
105 Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình: “Vợ hay chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp
pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”
106 Điều 27 Nghị định số 45- HĐBT có qui định: “Công chứng viên chứng nhận tài sản mà vợ hay chồng có trước
khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hay được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân hay tài sản đó được nhập vào
khối tài sản chung của vợ chồng trên cơ sở đơn của người có tài sản đó”
107
Khoa Luật - Đại học Cần Thơ, Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình (tập 2), tr. 9
108
Nếu không qui định bắt buộc phải lập bằng văn bản thì khi vợ hay chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng
vợ chồng có thể thông đồng để khẳng định rằng tài sản đó đã được nhập thành tài sản chung và đã chi dùng cho đời
sống chung hay khi tài sản đó tồn tại thì chỉ một nửa giá trị tài sản đó phải thanh toán cho nghĩa vụ riêng.44
“1. Việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá
trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hay chồng vào tài sản chung của vợ
chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật Hôn nhân và gia đình phải được
lập thành văn bản, có chữ kí của cả vợ và chồng. Văn bản đó có thể được công
chứng hay chứng thực theo qui định của pháp luật.
2. Việc nhập tài sản riêng của một bên vào khối tài sản chung của vợ chồng
nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ riêng của bên đó về tài sản thì vô hiệu theo
qui định tại Điều 11 của Nghị định này”.
Thực tế, thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ chồng thành tài sản chung của
vợ chồng chỉ có tác dụng chuyển các tài sản riêng của vợ chồng thành tài sản chung
mà không hề phát sinh hậu quả về căn cứ xác lập tài sản vợ chồng trong tương lai.
2.3.2.3. Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng
Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng được qui định
trong Nghị định 70 tại Điều 9: Khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng109 và
Điều 10: Thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung110. Về cơ
bản có thể thấy rằng Nghị định 70 qui định thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản
chung của vợ chồng với hình thức và hiệu lực tương đương với thỏa thuận chia tài
sản chung của vợ chồng. Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng
cũng làm thay đổi căn cứ xác lập tài sản vợ chồng.
Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng có những đặc trưng
quan trọng về thời điểm và hậu quả pháp lí.
Chỉ có thể lập thỏa thuận khôi phục tài sản chung của vợ chồng sau
đã chia tài sản chung của vợ chồng. Có thể nói rằng chỉ có việc chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kì hôn nhân mới làm thay đổi chế độ tài sản của vợ chồng
109 Điều 9: “1.Trong trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung và sau đó muốn khôi phục chế độ tài sản chung, thì
vợ chồng phải thoả thuận bằng văn bản có ghi rõ các nội dung sau đây:a) Lý do khôi phục chế độ tài sản chung;b)
Phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên;c) Phần tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, nếu có;d) Thời điểm
có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung;đ) Các nội dung khác, nếu có.2. Văn bản thoả thuận phải ghi rõ
ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả vợ và chồng; văn bản thoả thuận có thể có người làm chứng
hay được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng hay theo quy định của pháp luật.”
110 Điều 10: “1. Trong trường hợp văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng không xác định
rõ thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn
bản. 2. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng hay chứng thực
theo yêu cầu của vợ chồng, thì văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng phải được
công chứng hay chứng thực và việc khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu lực kể từ ngày xác định trong văn bản
thoả thuận; nếu văn bản không xác định ngày có hiệu lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công
chứng, chứng thực.3. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải công chứng,
chứng thực theo quy định của pháp luật, thì văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung cũng phải được
công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật và có hiệu lực kể từ ngày được công chứng, chứng thực.”
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi45
nên việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng chỉ được đặt ra sau khi đã
chia tài sản chung của vợ chồng.
Nếu như với thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân: tại
thời điểm lập thỏa thuận vợ chồng buộc phải có tài sản chung, với thỏa thuận nhập
tài sản riêng của vợ chồng thành tài sản chung: tại thời điểm lập thỏa thuận vợ hoặc
chồng hay cả hai buộc phải có tài sản riêng, thì vợ chồng không cần có bất cứ một
loại tài sản nào cũng vẫn được lập thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của
vợ chồng. Sở dĩ như vậy là bởi điều quan trọng nhất của thỏa thuận này là đưa căn
cứ xác lập tài sản của vợ chồng trở về nguyên vẹn như qui định của luật. Hậu quả
pháp lí của thỏa thuận này là khôi phục lại căn cứ xác lập tài sản như pháp luật đã
định (tài sản tạo ra thu nhập trong thời kì hôn nhân là tài sản chung, hoa lợi lợi tức
phát sinh từ mọi loài tài sản là tài sản chung); trong khi hậu quả pháp lí của thỏa
thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là làm thay đổi căn cứ xác lập tài
sản (vợ chồng có thể thỏa thuận các tài sản tạo ra thu nhập được hay hoa lợi lợi tức
phát sinh từ các loại tài sản (trừ tài sản chung không chia) sau khi chia là tài sản
chung hay tài sản riêng) còn thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ chồng thành tài
sản chung thì chẳng làm phát sinh hậu quả pháp lí nào đối với các tài sản vợ chồng
tạo ra thu nhập hay hoa lợi lợi tức với các loại tài sản sau khi nhập.
Nhận xét chung về những qui định cho phép vợ chồng được thỏa
thuận làm thay đổi về căn cứ xác lập tài sản
Thứ nhất, các thỏa thuận này thực chất chỉ là thỏa thuận làm thay đổi về căn
cứ xác lập tài sản vợ chồng (không bao gồm thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng với tài sản hay cách thức phân chia tài sản111) đối với một số loại tài sản
(không bao gồm tài sản được tặng cho, thừa kế).
Thứ hai, pháp luật không hề hạn chế đối với việc lập các văn bản thỏa thuận
kể trên: không hạn chế về số lần lập thỏa thuận, không hạn chế về số loại thỏa
thuận được lập, chỉ cần thời gian lập thỏa thuận là trong thời kì hôn nhân (có thể là
ngay sau khi kết hôn hay ngay trước khi li hôn) và điều kiện lập thỏa thuận chỉ là lí
do chính đáng, không được lập để nhằm trốn tránh một số nghĩa vụ dân sự.
Thứ ba, qua các văn bản thỏa thuận, vợ chồng hoàn toàn có thể tự thỏa thuận
một cách tùy ý về hậu quả pháp lí đối với các tài sản sẽ phát sinh trong tương lai
111 Thỏa thuận về căn cứ xác lập, quyền và nghĩa vụ và cách thức phân chia tài sản vợ chồng chính là thỏa thuận về
toàn bộ chế độ tài sản vợ chồng.46
bao gồm hoa lợi lợi tức và thu nhập hợp pháp của vợ chồng (không bao gồm tài sản
được tặng cho thừa kế có thể phát sinh trong tương lai).
Thứ tư, qua các loại thỏa thuận đã nêu, một loại tài sản thuộc khối tài sản
chung đều có thể chuyển thành tài sản riêng của vợ hay chồng và ngược lại (như ở
bảng dưới)
Kí hiệu: N: Thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung;
C: Thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
K: Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: