Download miễn phí Luận văn Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài....................................................................................1 0.2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................2 0.3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu ...............................................................9 0.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................10 0.5. Mục đích nghiên cứu .............................................................................11 0.6. Đóng góp của luận văn ..........................................................................11 0.7. Cấu trúc của luận văn ............................................................................11
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I: GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT, CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGHỆ
THUẬT NGÔ TẤT TỐ.............................................................................12 1.1. Giới thuyết về ngôn ngữ nghệ thuật.......................................................12 1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật..........................................................12 1.1.2. Những yếu tố cơ bản hình thành ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn.....12 1.1.2.1. Cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ...................................................12 1.1.2.2. Hoàn cảnh xã hội, thời đại, môi trường sống ...................................14 1.2. Các nhân tố cơ bản chi phối đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố.16 1.2.1. Bối cảnh chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX .........................................................................16 1.2.2. Hoàn cảnh sống và đặc điểm con người Ngô Tất Tố...........................19 CHƢƠNG 2: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ CÕN MANG DẤU VẾT NGÔN NGỮ NHO GIA ...........................................................28 2.1. Tổ chức sự kiện trong ngôn ngữ trần thuật theo trình tự thời gian .........28 2.2. Sử dụng từ ngữ chỉ thiên nhiên làm thước đo thời gian .........................34
2.3. Cấu trúc ngôn ngữ nhịp nhàng, đăng đối theo lối văn biền ngẫu............35 2.4. Sử dụng nhiều từ ngữ chuyên biệt của khoa cử, chủ yếu là từ Hán Việt.41 CHƢƠNG 3: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ ĐẬM ĐÀ SẮC THÁI NGÔN NGỮ NÔNG THÔN BẮC BỘ VIỆT NAM ..............48 3.1. Vận dụng khéo léo phương ngữ Bắc Bộ ................................................48 3.2. Vận dụng thành ngữ quen thuộc với người nông dân.............................53 3.3. Dùng nhiều từ ngữ gắn với cuộc sống, sinh hoạt làng quê và công việc nhà nông ......................................................................................................62 CHƢƠNG 4: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ GIÀU TÍNH THỜI SỰ, VÀ TÍNH CHIẾN ĐẤU...........................................................68 4.1. Sử dụng bảng từ vựng gắn với những vấn đề thời sự ............................68 4.2. Vận dụng linh hoạt các cách biểu đạt để phơi bày hiện thực .....73 4.2.1. Miêu tả chi tiết bức tranh đời sống .....................................................73 4.2.2. Kết hợp miêu tả, nghị luận, biểu cảm để châm biếm kín đáo sâu cay ....... .78 4.3. Cấu trúc câu văn theo kiểu "vừa nâng vừa đập" ....................................84 4.4. Sử dụng câu hỏi tu từ như một vũ khí châm biếm lợi hại.......................87 KẾT LUẬN.................................................................................................89
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... ..94
PHẦN MỞ ĐẦU
0.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
0.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống
văn học. Nó là công cụ, là chất liệu cơ bản để nhà văn xây dựng nên tác phẩm, là "chìa khóa" để bạn đọc mở cánh cửa, bước vào thế giới nghệ thuật của nhà văn. Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật là cơ sở để tìm hiểu, khám phá thế giới hình tượng và các lớp nội dung ý nghĩa của văn bản nghệ thuật; từ đó, khẳng định những thành tựu và đóng góp của nhà văn cho nền văn học dân tộc.
0.1.2. Ngô Tất Tố là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê phán và là một trong những tác gia có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Chỉ với ba thập kỷ cầm bút, ông đã để lại một một sự nghiệp văn học phong phú, độc đáo, bao gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, phóng sự, truyện ký lịch sử, khảo cứu, dịch thuật, tiểu phẩm báo chí...và ở thể loại nào cũng để lại dấu ấn đặc sắc riêng. Tác phẩm của Ngô Tất Tố không chỉ là tiếng nói đanh thép tố cáo chế độ thực dân phong kiến tàn bạo, mà còn thể hiện tấm lòng thương yêu đối với nhân dân lao động. Năm 1996, Nhà nước đã trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I cho di sản văn học của Ngô Tất Tố.
Trong gần một thế kỷ qua, kể từ tác phẩm đầu tiên là Cẩm hương đình ra đời (1923), sự nghiệp văn học Ngô Tất Tố đã thu hút được sự quan tâm, yêu mến của các nhà nghiên cứu, phê bình, giảng dạy văn học và đông đảo công chúng. Kết quả là đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về ông. Song, hầu hết những công trình đó mới chỉ đề cập những vấn đề như: tư tưởng nghệ thuật, thế giới nghệ thuật, hay phong cách sáng tác...của nhà văn. Về ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố mới được quan tâm nghiên cứu trên một số phương diện, nhiều đặc điểm riêng biệt, độc đáo chưa được khảo sát, phân tích khái quát làm rõ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
Vì những lý do trên, chúng tui chọn nghiên cứu đề tài "Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố" để mở rộng, khơi sâu thêm một vấn đề đã được giới nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm và đã tạo những bước đi ban đầu.
0.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
0.2.1 Tình hình nghiên cứu chung về Ngô Tất Tố
Hành trình sáng tác của Ngô Tất Tố từ khi bắt đầu sự nghiệp văn chương với việc dịch tác phẩm Cẩm hương đình (1923) đến tác phẩm cuối cùng là vở chèo Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác (1951) kéo dài gần ba mươi năm. Song, thành tựu của Ngô Tất Tố tập trung chủ yếu trong giai đoạn 1930 - 1945. Những tác phẩm tiêu biểu như Tắt đèn, Lều chõng, các phóng sự: Việc làng, Tập án cái đình đều được viết ra trong khoảng thời gian từ năm 1936 đến năm 1940.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, quá trình nghiên cứu về Ngô Tất Tố được bắt đầu từ bài viết của Vũ Trọng Phụng với nhan đề Tắt đèn của Ngô Tất Tố, đăng trên báo Thời vụ, số 100, ngày 31-1-1939. Vũ Trọng Phụng đã khẳng định giá trị nhiều mặt của Tắt đèn. Ông than phiền một nước nông nghiệp như Việt Nam mà văn chương viết về làng quê rất ít tác phẩm có giá trị: "Ta phải chán nản mà nhận thấy rằng quả thật hãy còn vắng vẻ đìu hiu, chỉ mới thấy có quyển Tối tăm của Nhất Linh, quyển Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan". Giữa lúc ấy thì Ngô Tất Tố xuất hiện, Vũ Trọng Phụng đã chân thành giới thiệu Ngô Tất Tố với công chúng độc giả: "Bạn tui lại từ làng báo mới bước vào làng tiểu thuyết và Tắt đèn là áng văn đầu tiên của bạn và cũng là áng văn mới mẻ nhất về loại văn chương xã hội ngày nay nữa" [63; 200]. Vũ Trọng Phụng hết lời ngợi ca tác phẩm: "Tắt đèn là cuốn tiểu thuyết có luận đề xã hội - điều ấy cố nhiên là hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác tòng lai chưa từng thấy mà lại là của một tác giả có cái may hơn nhiều nhà văn khác là được sống nhiều ở thôn quê nên có đủ thẩm quyền" [63; 200].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
Trên Báo Mới số 4 ngày 15/6/1939, Trần Minh Tước đã viết bài Một nhà văn hóa của dân quê - Ngô Tất Tố và tác phẩm Tắt đèn với nhận xét: "Ngòi bút ông đồ nho Ngô Tất Tố đáng lẽ là ngòi bút của cái thế hệ sản sinh những câu văn điền viên vui thú kia; hay có muốn thiên về dân quê một cách tha thiết hơn, thì bất quá và đáng lẽ ngòi bút ấy chỉ viết những bài cải lương hương chính mà mười lăm năm trước đây, chúng ta đã được đọc trên các báo. Không, nhà nho ấy đã vượt khỏi thế hệ mình. Người môn đồ Khổng Mạnh này đã thở hút cái không khí xã hội của K.Mác như tất cả những thiếu niên văn sỹ hàng tranh đấu để viết cho ta cuốn Tắt đèn" [94].
Ngoài ra, cũng trong thời gian đó bài báo của Phú Hương ngày 1/9/1939 có bài "Tắt đèn - tiểu thuyết của Ngô Tất Tố" đã đánh giá: "Đây là một thành công vẻ vang hết sức" [65]. Phú Hương cho rằng cốt truyện tiểu thuyết gần với sự thực xảy ra ở thôn quê xứ ta với sự quan sát tường tận kĩ càng. Ông ca ngợi nhân vật và cách tả cảnh thể hiện một trình độ cao, có thể đặt ngang hàng với các nhà văn Tự Lực văn đoàn.
Những bài báo trên đã tôn vinh Tắt đèn và gây ấn tượng mạnh với bạn đọc. Ngô Tất Tố, một cây bút tiểu thuyết vừa từ làng báo chuyển sang lại tiếp tục có những tác phẩm mới là Lều chõng và Việc làng. Những tác phẩm này đã góp phần quan trọng tạo cho Ngô Tất Tố một chỗ đứng vững chắc trên văn đàn.
Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại đã đánh giá Ngô Tất Tố là nhà văn chuyên sâu về đề tài nông thôn, am hiểu sâu sắc cuộc sống và phong tục làng quê. Ông phân tích và khẳng định tác phẩm Việc làng: "Tập phóng sự về dân quê này là một tập phóng sự rất đầy đủ về việc làng" [63; 324].
Sau Cách mạng tháng Tám, khi hòa bình lập lại, những tác phẩm văn học có giá trị thời kỳ trước Cách mạng được lựa chọn và đưa vào giảng dạy ở nhà trường. Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một trong số tác phẩm đầu tiên của dòng văn học hiện thực phê phán được đưa vào giảng dạy từ trường phổ thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
đến đại học. Nhờ đó, tên tuổi Ngô Tất Tố được nhiều người biết đến hơn, và sự nghiệp văn học của ông ngày càng thu hút giới phê bình, nghiên cứu.
Sau khi Ngô Tất Tố - "nhà văn của những luống cày" mất trên con đường kháng chiến (1954), tiếp tục có nhiều bài nghiên cứu và giới thiệu về ông như: Ngô Tất Tố của Nguyên Hồng (Tạp chí văn nghệ số 54, tháng 8, năm 1954); Đọc lại Việc làng của Bùi Huy Phồn (Tạp chí văn nghệ số 8 tháng 1, năm 1958); Ngô Tất tố như tui đã biết của Nguyễn Đức Bính (Tạp chí văn nghệ số 61, tháng 6, năm 1962)...Trong những bài viết tưởng nhớ, khắc họa dáng nhà văn Ngô Tất Tố, có nhiều bài đánh giá cao tiểu thuyết Tắt đèn như: Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố của Nguyễn Công Hoan, Lời giới thiệu truyện Tắt đèn của Nguyễn Tuân, Tắt đèn cuốn tiểu thuyết hiện thực xuất sắc của Hồng Chương, Tắt đèn và tiếng nói của Ngô Tất Tố của Phong Lê, Giá trị nhận thức của Tắt đèn của Như Phong...Những bài viết về dáng Ngô Tất Tố và tiểu thuyết Tắt đèn càng khẳng định giá trị sự nghiệp văn học của ông, khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cái mốc quan trọng trong việc nghiên cứu và giới thiệu Ngô Tất Tố. Cũng trong thời điểm này, cần ghi nhận thành tựu nghiên cứu về Ngô Tất Tố của hai tác giả Phan Cự Đệ và Nguyễn Đức Đàn. Có thể xem đây là công trình nghiên cứu đầu tiên tập trung có hệ thống trên nhiều bình diện về sự nghiệp của Ngô Tất Tố, công trình được Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1962, Nhà xuất bản Hội nhà văn in lại năm 1999 với nhan đề Bước đường phát triển tư tưởng và nghệ thuật của Ngô Tất Tố. Sau đó nhà xuất bản Văn học in cuốn Tuyển tập Ngô Tất Tố và tiếp theo là Toàn tập Ngô Tất Tố (1996) do giáo sư Phan Cự Đệ tuyển chọn và giới thiệu.
Nhìn chung, các công trình, bài viết về Ngô Tất Tố giai đoạn này đều khẳng định vị trí quan trọng của nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
đại; đều đánh giá ông là cây bút tài năng, là nhà văn hiện thực xuất sắc của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Một hoạt động khoa học đáng chú ý là cuộc hội thảo nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ngô Tất Tố do Hội Nhà văn và Viện Văn học phối hợp tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà văn, nhà báo. Các tham luận đã khẳng định tầm vóc của Ngô Tất Tố - một nhà văn lớn, một nhà báo lớn. Nhà nghiên cứu Phong Lê trong bài Ngô Tất Tố một dáng lớn một sự nghiệp lớn đã khẳng định: "Kỷ niệm 100 năm năm sinh Ngô Tất Tố chúng ta còn nhận ra một di sản còn đồ sộ hơn ở ông, bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động, có ý nghĩa là điểm tựa cho các giá trị văn chương, vượt ra khỏi đóng góp xuất sắc của một nhà văn hiện thực...Xứng đáng ở nhiều tư cách, nhưng với Ngô Tất Tố tui muốn trở lại tư cách nhà văn hóa như một tư thế bao trùm và là điểm tựa cho mọi lĩnh vực sáng tạo ngôn từ và bồi đắp tư duy hình tượng, luôn đạt trình độ cao sâu và các giá trị bền vững" [70].
Sang thời kỳ Đổi mới, có ý kiến đánh giá không đồng nhất với những ý kiến trước đây về nhân vật Chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn đó là ý kiến của Trần Đăng Khoa: "Ví như Tắt đèn của cụ Ngô Tất Tố. Tất nhiên trong cuốn truyện vừa xuất sắc này của cụ Tố, có một chỗ rất tệ hại. Ai lại dành nhiều công phu và tâm huyết như thế để viết về một bà mẹ đi bán con chuộc chồng "[69; 107]. Ý kiến của Trần Đăng Khoa chưa thật thuyết phục các nhà nghiên cứu, sau đó cũng không có ý kiến tranh luận nhiều về vấn đề này, và giá trị của Tắt đèn cũng như cảm tình của độc giả dành cho tác phẩm vẫn không thay đổi.
Song, nhìn chung, từ trước tới nay, các học giả đều khẳng định vị trí quan trọng của Ngô Tất Tố trên văn đàn. Các bài báo như: Cây bút sắc bén của một nhà Nho của Vũ Tú Nam; Ngô Tất Tố nhà văn hóa lỗi lạc của Hoài Việt; Ngô Tất Tố trong sự nghiệp đổi mới hôm nay của Gs Phan Cự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
Đệ...càng khẳng định Ngô Tất Tố không phải chỉ là di sản của quá khứ mà còn là của hiện tại, của tương lai. Tư tưởng nhất quán của Ngô Tất Tố trong tác phẩm là vì dân, đấu tranh cho quyền độc lập của dân tộc, vì con người, đấu tranh cho tình yêu thương của con người trong cuộc sống. Tư tưởng ấy theo suốt cuộc đời sáng tác của nhà văn.
Đến năm 2000, Nhà xuất bản Giáo dục in cuốn Ngô Tất Tố về tác giả và tác phẩm do hai nhà nghiên cứu Mai Hương, Tôn Phương Lan tuyển chọn và giới thiệu. Đây là công trình tập hợp đầy đủ các bài viết bài nghiên cứu, hồi ức, tưởng niệm của bàn bè, đồng nghiệp, người thân về Ngô Tất Tố. Trong bài Ngô Tất Tố tài năng và tấm lòng, nhà nghiên cứu Mai Hương khẳng định: "Một cây bút tiểu thuyết phóng sự xuất sắc, một nhà báo cự phách, có biệt tài, một nhà khảo cứu, dịch thuật tâm huyết, và bao trùm là tư cách một nhà văn hóa lớn".
Ngoài ra, tác giả Trần Thị Minh Thu trong luận văn "Ngô Tất Tố nhà văn của phong tục làng quê Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945" cũng đã khẳng định: "Ngô Tất Tố chính là nhà văn phong tục tiêu biểu ở giai đoạn 1930- 1945. Thành công ở mảng đề tài phong tục đã góp phần làm cho tên tuổi Ngô Tất Tố thêm uy tín và vị trí vững chắc trong làng văn Việt Nam" [92; 75].
Những năm gần đây, nhờ công lao của các nhà sưu tầm, trong đó có ông Cao Đắc Điểm (người con rể của nhà văn), chúng ta lại biết thêm những tác phẩm báo chí mới của Ngô Tất Tố. Năm 2003, thành phố Hà Nội đã quyết định mở Đề tài khoa học về báo chí Ngô Tất Tố. Đề tài đã được in thành sách Di sản báo chí của Ngô Tất Tố - Ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nhà xuất bản Văn học (2005).
Tóm lại, hơn bảy thập kỷ qua, kể từ bài viết của Vũ Trọng Phụng về tiểu thuyết Tắt đèn (năm 1939) đến nay, đã có hàng trăm bài viết, hàng chục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
công trình nghiên cứu đi sâu khám phá các phương diện khác nhau trong thế giới nghệ thuật của Ngô Tất Tố. So với những nhà văn cùng thời, thì những ý kiến đánh giá về Ngô Tất Tố và văn nghiệp của ông là khá ổn định, thống nhất. Hầu hết những công trình nghiên cứu đều theo xu hướng khẳng định: Ngô Tất Tố là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực trước Cách mạng và là một trong những tác gia có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
0.2.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố 0.2.2.1. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố từ trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 2000.
Từ trước Cách mạng tháng Tám đến năm 2000, việc nghiên cứu về Ngô Tất Tố tập trung chủ yếu vào những đóng góp của nhà văn trên phương diện nội dung tư tưởng, thế giới nhân vật, phong cách nghệ thuật, thi pháp.... Một số tác giả khi nghiên cứu về Ngô Tất Tố mới đưa ra một số nhận xét có tính khái quát, định hướng về ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn, chẳng hạn Vũ Trọng Phụng nhận xét: "Cách hành văn mới mẻ, sáng sủa, tưởng chừng như chỉ có phái nhà văn thuộc Pháp học mới có thể linh lợi và phô diễn nổi một cách linh hoạt như thế" [63; 201]. Nguyễn Đức Bính trong bài Ngô Tất Tố như tui đã biết có nhận xét cụ thể hơn: "Ngô Tất Tố có một lối viết văn mới, độc đáo nữa là khác, không chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu của các cụ đồ, giọng văn khi đậm đà khi duyên dáng nhưng đặc biệt dí dỏm; câu văn sắc cạnh, trong sáng, ngắn gọn, chữ dùng thường mạnh dạn và ý nhị" [63; 77]. Tuy nhiên, chúng tui nhận thấy, ý kiến đánh giá của Nguyễn Đức Bính về văn Ngô Tất Tố "không chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu của các cụ đồ" cần được khảo sát cụ thể hơn.
là trật tự tôn nghiêm cả: thí sinh chỉ là một lũ vô học, thí trường giống như một cái chợ mà ở đó chiến thắng sẽ thuộc về kẻ mạnh, và có nhiều tiền. Chính thành ngữ "Ầm ầm như bốn cái chợ" đã góp phần diễn tả dụng ý đó của Ngô Tất Tố. Điều đặc biệt ấn tượng là nhà văn đã vận dụng sáng tạo thành ngữ "Ầm ầm như chợ" của dân gian để chuyển thành "Ầm ầm như bốn cái chợ". Chỉ thêm một từ "bốn" nhưng tác dụng biểu hiện của câu thành ngữ tăng lên rất nhiều. Giá trị châm biếm của đoạn văn, vì thế cũng trở nên sâu cay hơn.
Trên đây là một số ví dụ tiêu biểu về cách vận dụng thành ngữ của Ngô Tất Tố để miêu tả, phản ánh hiện thực, tạo không khí nông thôn cho tác phẩm. Việc khảo sát và phân tích thành ngữ càng khẳng định tài năng vận dụng ngôn ngữ dân gian của nhà văn. Không chỉ học hỏi, kế thừa mà ông còn sáng tạo, bổ sung thêm những giá trị mới giúp cho thành ngữ thêm cô đúc, giàu hình ảnh hơn. Từ đó, càng chứng tỏ vai trò của ông trong việc góp phần làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc.
3.3. Dùng nhiều từ ngữ gắn với cuộc sống, sinh hoạt làng quê và công việc nhà nông
Là nhà văn có cuộc sống gắn bó với nông thôn nên Ngô Tất Tố rất am tường ngôn ngữ của tầng lớp nông dân lao động. Qua khảo sát các tác phẩm: Tắt đèn, Lều chõng, Trong rừng nho, Việc làng, Tập án cái đình chúng tui thu được: có tới 1482 lượt từ ngữ nghề nông được sử dụng, trong đó những từ chiếm tỷ lệ cao là: "khoai" 46 lượt, "trâu" 43 lượt, "lúa" 40 lượt, "cày" 54 lượt, "lợn" 34 lượt, "ruộng" 27 lượt, "bò" 19 lượt,...Ngoài ra những từ như: bừa, sào, mẫu, mồi rơm, thước, thốn, thuổng, cuốc, xẻng, thúng, xảo, mẹt, đòn gánh, thịt, cỗ...cũng được sử dụng khá phổ biến tạo nên bầu khí quyển làng quê đậm đặc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62
Đọc tác phẩm của Ngô Tất Tố ta như được thở hít không khí của làng quê, chứng kiến cảnh sinh hoạt của những người nông dân, được nghe những lới trò chuyện xóm giềng "Tối lửa tắt đèn có nhau" :
"Bắt đầu gà gáy một tiếng, trâu bò lục tục kéo trâu cày đến đoạn đường phía trong điếm tuần.
Mọi ngày, giờ ấy, những con vật này cũng như những người cổ cày vai bừa kia, đã lần lượt đi mò ra ruộng làm việc cho chủ. Hôm nay vì cổng làng chưa mở, chúng phải chia quãng đứng rải rác ở hai bên vệ đường giống như một lũ phu cờ chờ đón những ông quan lớn.
Dưới bóng của rặng tre um tùm, tiếng trâu thở phì phò, tiếng bò đập đuôi đen đét, xen với tiếng người khạc khúng khắng.
Cảnh tượng điếm tuần thình lình hiện ra trong ánh lửa lập lòe của chiếc mồi rơm bị thổi. Cạnh dãy sào, giáo ngả nghiêng dựng ở giáp tường, một lũ tuần phu lố nhố ngồi trên lớp chiếu quằn quèo. Có người phì phò thổi mồm. Có người ve ve mồi thuốc chìa tay chờ đón điếu đóm. Có người há miệng ngáp dài. Có người dang tay đứng dụi mắt. Cũng có người còn gối đầu trên cái hiệu sừng trâu, ngoảnh mặt vào vách mà ngáy" [11; 1].
Trước khi Tắt đèn của Ngô Tất Tố ra đời, đã có khá nhiều tác phẩm của Tự lực văn đoàn ít nhiều đề cập đến hình ảnh nông thôn và cuộc sống của những người nông dân, người lao động nghèo. Nhưng, hầu hết những tác phẩm đó mới chỉ tả những vẻ đẹp của cảch đồng ruộng....mà chưa tả được vẻ đẹp của người nông dân. Người nông dân trong con mắt của các nhà văn lãng mạn thường là những con người khờ khạo, ngu dốt rất đáng thương hại. Văn chương của họ tuy có cách tân về nghệ thuật, ít nhiều có bóng dáng của đời sống hiện thực nhưng nhìn chung vẫn là thứ "văn chương dài dòng, sang trọng, kiểu cách, sạch sẽ bóng bẩy, làm duyên của loại văn chương phòng khách" [72] xa lạ với cuộc sống của người lao động. Tâm lí người đọc lúc bấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63
giờ cũng mong có một tác phẩm giản dị trong cách viết, chân thực về làng quê, tả được bản chất của người nông dân và những vấn đề bản chất của nông thôn. Vũ Trọng Phụng đã bày tỏ: "Hiện thời trong làng tiểu thuyết và trong công chúng ắt có nhiều người đang đợi chờ một áng văn hoàn toàn thôn quê, không phải thứ chuyện ca tụng những cái đẹp về cảnh đồng ruộng hay những thú vị của nghề nông, hay miêu tả những phong tục kỳ quái của những nơi còn là hẻo lánh đối với văn minh và khoa học mà thôi, nhưng mà thứ chuyện có luận đề xã hội, mục đích là bênh vực phái nhà nông và cái đại đa số dân cùng đinh của xã hội nữa"[63; 198]. Giữa lúc đó thì Tắt đèn của Ngô Tất Tố ra đời, Vũ Trọng Phụng đã không dấu nổi vui mừng "Tắt đèn là thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội - điều ấy cố nhiên, hoàn toàn phụng sự dân quê..."[63; 198].
Tắt đèn đã đáp ứng được mong đợi của bạn đọc đương thời. Mở đầu tác phẩm là một loạt những từ ngữ gắn bó với cuộc sống, sinh hoạt của nhà nông. Những từ ngữ đó đã làm hiện lên khung cảnh làng Đông Xá trong những ngày thúc thuế. Cổng làng bị đóng chặt vì lí trưởng ra lệnh không cho con trâu con bò nào ra đồng, tất cả phải ở trong làng để tiến hành nộp thuế. Những dòng văn đầu tiên của tác phẩm, Ngô Tất Tố đã đặt nhân vật mình vào một hoàn cảnh điển hình của xã hội Việt Nam trước Cách mạng. Hình ảnh những người nông dân xen lẫn với những con trâu bò lố nhố ngồi la liệt trước cổng làng nó báo hiệu một hiện thực phũ phàng đang chờ đón họ. Những câu văn mở đầu Tắt đèn được trích dẫn trên đây đã dựng lên trước mắt người đọc quang cảnh nông thôn trì trệ, ngột ngạt. Dự cảm về một cuộc sống tối tăm đang đe dọa những người nông dân cũng theo đó mà gieo vào lòng độc giả.
Việc làng là tập phóng sự đã phơi bày những hủ tục ở chốn hương thôn Việt Nam trước Cách mạng, tác phẩm có thiên hướng đi gần với lối viết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64
truyện ngắn. Mười bảy chương truyện là mười bảy câu chuyện về hủ tục mà quanh đi quẩn lại vẫn là nạn xôi thịt, Ta hãy xem Nghệ thuật băm thịt gà của thằng Mới:
"Bây giờ thì đến mình con gà, Hắn lách lưỡi dao vào sườn con gà, cắt riêng hai cái tỏi gà bỏ ra góc mâm. Rồi lật ngửa con gà lên thớt, hắn ướm dao vào giữa xương sống và giơ dao chém luôn hai nhát theo chiều dì cái xương ấy. Con gà bị tách ra làm hai mảnh. Mỗi mảnh đều có hai nửa xương sống. Một tay giữ thỏi thịt gà, một tay cầm con dao phay, hắn băm lia lịa như không chú ý gì hết. Nhưng mà hình như tay hắn có cỡ sẵn, cho nên con dao của hắn giơ lên, không nhát nào cao, không nhát nào thấp. Mười nhát như một, chỉ có lên khỏi mặt thớt độ một gang, và cách cái ngón tay cái của nó độ vài ba phân. Tiếng dao công cốc đụng vào mặt thớt, nhịp nhàng như tiếng mõ phường chèo, không lúc nào mau, không lúc nào thưa. Mỗi tiếng cốc là một miếng thịt băng ra. Miếng nào như miếng ấy, đứt suốt từ xương đến da, không còn dính nhau mảy may" [7; 34].
Trong đoạn văn, có tới 24 lượt từ ngữ gắn với sinh hoạt chốn thôn quê được nhà văn vận dụng trong tổng số 112 lượt từ ngữ. Đọc tác phẩm của Ngô Tất Tố người đọc thường gặp những từ ngữ như: Cỗ bàn, thịt lợn, thịt gà, giò, nem, ninh, mọc, dao thớt, mâm, bát, đĩa, ăn, uống...xuất hiện với tần xuất cao. Cuộc sống gắn bó làng quê, đã giúp Ngô Tất Tố am hiểu mọi sinh hoạt, lời ăn tiếng nói của người nông dân. Nhờ vậy, nhà văn đã thuyết phục người đọc khi miêu tả nghệ thuật băm thịt gà của thằng Mới. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan nhận xét: "Tả thật như vẽ ra trước mắt, lời văn trong Việc làng đều bình dị như thế. Cả tập phóng sự về dân quê là tập phóng sự rất đầy đủ về lệ làng" [7; 122].
Qua tập phóng sự Việc làng, Ngô Tất Tố đã có những đóng góp mới, quan trọng khi viết về người nông dân. Qua mười bảy câu chuyện, chúng ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 65
thấy họ đều là những người bị áp bức, bóc lột một cách oan ức, rất đáng được cảm thương. Tuy nhiên, người ta cũng thấy Ngô Tất Tố có ý trách móc, phê phán những người nông dân vì mê tín chịu đựng thụ động trước hoàn cảnh, chấp nhận những hủ tục như một lẽ đương nhiên. Có người thì đau đớn than vãn, có người thì tự kết thúc bằng cái chết. Nói chung, không có thái độ phản ứng mạnh mẽ cho dù là tự phát. Từ ngữ gắn liền với cuộc sống của người nông dân đã giúp Ngô Tất Tố phản ánh được hiện thực đau xót trên.
Tóm lại, Ngô Tất Tố am hiểu sâu sắc nông thôn Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám nên ông sử dụng ngôn ngữ gắn liền với cuộc sống, sinh hoạt thôn quê và công việc nhà nông rất thành thạo. Có lẽ, không một nhà văn nào đương thời có thể am hiểu tỉ mỉ mọi sinh hoạt, tập tục ở nông thôn và có thể gọi từng sự vật, từng việc bằng đúng cái tên nông thôn của nó như ông.
Ngô Tất Tố không chỉ có cái nhìn sắc sảo, một sự am hiểu tường tận cuộc sống ở thôn quê mà điều quan trọng hơn, là ông có một tình cảm gắn bó sâu nặng với người nông dân, nói bằng tiếng nói của người nông dân. Đọc những trang sách của nhà văn viết về thân phận cùng kiệt khổ, bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nhiều lúc ta có cảm giác như nước mắt của nhà văn chan hòa cùng nước mắt của nhân vật. Với Tắt đèn, Việc làng, Tập án cái đình và nhiều bài báo khác của mình, Ngô Tất Tố thực sự đã trở thành người bạn đường đáng tin cậy của những người nông dân cùng kiệt trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Ngô Tất Tố là một tên tuổi lớn của nền văn xuôi thời kỳ hiện đại. Giá trị bền vững của các tác phẩm có phần đóng góp xứng đáng của nghệ thuật biểu hiện, nghệ thuật ngôn từ. Là một nhà nho nhưng ngôn ngữ của Ngô Tất Tố không thủ cựu mà hòa nhập với dòng chảy thời đại. Là một nhà văn của làng quê, ngôn ngữ của ông mang hơi thở, sự sống của sinh hoạt nông thôn nhưng không bị thiên vào tự nhiên chủ nghĩa. Ngôn ngữ của ông chắc khỏe,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 66
giản dị mà vẫn hàm súc, sắc sảo mà vẫn gợi cảm, truyền thống mà rất hiện đại. Từ mảnh đất nho gia, Ngô Tất Tố đã bước từng bước vững chắc vào văn đàn hiện đại. Từ cuộc sống gần gũi nông thôn, Ngô Tất Tố đã dũng cảm "mang vác" cả ngôn ngữ của "người nhà quê" vào văn học và đã tạo dấu ấn riêng. Tiếp theo thế hệ các nhà văn, nhà thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Ngô Tất Tố đã góp phần "giải tỏa" sự ngăn cách giữa văn chương nhà nho với văn chương bình dân, văn chương làng quê và văn chương đô thị để tạo nên những tác phẩm phong phú về nội dung, sinh động về ngôn ngữ. Những thành công đó không dễ gì có được nếu không có một nền tảng văn hóa truyền thống vững chắc, một tư tưởng tiến bộ và một nỗ lực sáng tạo nghiêm túc, say mê. Trong tiến trình phát triển của nền văn học nước nhà, nhiều nhà văn đã tạo được sự bứt phá ngoạn mục trong ngôn ngữ như Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng...Nhưng Ngô Tất Tố chủ yếu là tiếp nối - vận dụng làm mới ngôn ngữ trên nền tảng truyền thống. Ngôn ngữ của ông chắc khỏe, giản dị mà vẫn hàm súc, sắc sảo mà vẫn gợi cảm, truyền thống mà rất hiện đại, đó là đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài....................................................................................1 0.2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................2 0.3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu ...............................................................9 0.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................10 0.5. Mục đích nghiên cứu .............................................................................11 0.6. Đóng góp của luận văn ..........................................................................11 0.7. Cấu trúc của luận văn ............................................................................11
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I: GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT, CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGHỆ
THUẬT NGÔ TẤT TỐ.............................................................................12 1.1. Giới thuyết về ngôn ngữ nghệ thuật.......................................................12 1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật..........................................................12 1.1.2. Những yếu tố cơ bản hình thành ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn.....12 1.1.2.1. Cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ...................................................12 1.1.2.2. Hoàn cảnh xã hội, thời đại, môi trường sống ...................................14 1.2. Các nhân tố cơ bản chi phối đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố.16 1.2.1. Bối cảnh chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX .........................................................................16 1.2.2. Hoàn cảnh sống và đặc điểm con người Ngô Tất Tố...........................19 CHƢƠNG 2: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ CÕN MANG DẤU VẾT NGÔN NGỮ NHO GIA ...........................................................28 2.1. Tổ chức sự kiện trong ngôn ngữ trần thuật theo trình tự thời gian .........28 2.2. Sử dụng từ ngữ chỉ thiên nhiên làm thước đo thời gian .........................34
2.3. Cấu trúc ngôn ngữ nhịp nhàng, đăng đối theo lối văn biền ngẫu............35 2.4. Sử dụng nhiều từ ngữ chuyên biệt của khoa cử, chủ yếu là từ Hán Việt.41 CHƢƠNG 3: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ ĐẬM ĐÀ SẮC THÁI NGÔN NGỮ NÔNG THÔN BẮC BỘ VIỆT NAM ..............48 3.1. Vận dụng khéo léo phương ngữ Bắc Bộ ................................................48 3.2. Vận dụng thành ngữ quen thuộc với người nông dân.............................53 3.3. Dùng nhiều từ ngữ gắn với cuộc sống, sinh hoạt làng quê và công việc nhà nông ......................................................................................................62 CHƢƠNG 4: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ GIÀU TÍNH THỜI SỰ, VÀ TÍNH CHIẾN ĐẤU...........................................................68 4.1. Sử dụng bảng từ vựng gắn với những vấn đề thời sự ............................68 4.2. Vận dụng linh hoạt các cách biểu đạt để phơi bày hiện thực .....73 4.2.1. Miêu tả chi tiết bức tranh đời sống .....................................................73 4.2.2. Kết hợp miêu tả, nghị luận, biểu cảm để châm biếm kín đáo sâu cay ....... .78 4.3. Cấu trúc câu văn theo kiểu "vừa nâng vừa đập" ....................................84 4.4. Sử dụng câu hỏi tu từ như một vũ khí châm biếm lợi hại.......................87 KẾT LUẬN.................................................................................................89
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... ..94
PHẦN MỞ ĐẦU
0.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
0.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống
văn học. Nó là công cụ, là chất liệu cơ bản để nhà văn xây dựng nên tác phẩm, là "chìa khóa" để bạn đọc mở cánh cửa, bước vào thế giới nghệ thuật của nhà văn. Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật là cơ sở để tìm hiểu, khám phá thế giới hình tượng và các lớp nội dung ý nghĩa của văn bản nghệ thuật; từ đó, khẳng định những thành tựu và đóng góp của nhà văn cho nền văn học dân tộc.
0.1.2. Ngô Tất Tố là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê phán và là một trong những tác gia có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Chỉ với ba thập kỷ cầm bút, ông đã để lại một một sự nghiệp văn học phong phú, độc đáo, bao gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, phóng sự, truyện ký lịch sử, khảo cứu, dịch thuật, tiểu phẩm báo chí...và ở thể loại nào cũng để lại dấu ấn đặc sắc riêng. Tác phẩm của Ngô Tất Tố không chỉ là tiếng nói đanh thép tố cáo chế độ thực dân phong kiến tàn bạo, mà còn thể hiện tấm lòng thương yêu đối với nhân dân lao động. Năm 1996, Nhà nước đã trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I cho di sản văn học của Ngô Tất Tố.
Trong gần một thế kỷ qua, kể từ tác phẩm đầu tiên là Cẩm hương đình ra đời (1923), sự nghiệp văn học Ngô Tất Tố đã thu hút được sự quan tâm, yêu mến của các nhà nghiên cứu, phê bình, giảng dạy văn học và đông đảo công chúng. Kết quả là đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về ông. Song, hầu hết những công trình đó mới chỉ đề cập những vấn đề như: tư tưởng nghệ thuật, thế giới nghệ thuật, hay phong cách sáng tác...của nhà văn. Về ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố mới được quan tâm nghiên cứu trên một số phương diện, nhiều đặc điểm riêng biệt, độc đáo chưa được khảo sát, phân tích khái quát làm rõ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
You must be registered for see links
Vì những lý do trên, chúng tui chọn nghiên cứu đề tài "Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố" để mở rộng, khơi sâu thêm một vấn đề đã được giới nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm và đã tạo những bước đi ban đầu.
0.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
0.2.1 Tình hình nghiên cứu chung về Ngô Tất Tố
Hành trình sáng tác của Ngô Tất Tố từ khi bắt đầu sự nghiệp văn chương với việc dịch tác phẩm Cẩm hương đình (1923) đến tác phẩm cuối cùng là vở chèo Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác (1951) kéo dài gần ba mươi năm. Song, thành tựu của Ngô Tất Tố tập trung chủ yếu trong giai đoạn 1930 - 1945. Những tác phẩm tiêu biểu như Tắt đèn, Lều chõng, các phóng sự: Việc làng, Tập án cái đình đều được viết ra trong khoảng thời gian từ năm 1936 đến năm 1940.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, quá trình nghiên cứu về Ngô Tất Tố được bắt đầu từ bài viết của Vũ Trọng Phụng với nhan đề Tắt đèn của Ngô Tất Tố, đăng trên báo Thời vụ, số 100, ngày 31-1-1939. Vũ Trọng Phụng đã khẳng định giá trị nhiều mặt của Tắt đèn. Ông than phiền một nước nông nghiệp như Việt Nam mà văn chương viết về làng quê rất ít tác phẩm có giá trị: "Ta phải chán nản mà nhận thấy rằng quả thật hãy còn vắng vẻ đìu hiu, chỉ mới thấy có quyển Tối tăm của Nhất Linh, quyển Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan". Giữa lúc ấy thì Ngô Tất Tố xuất hiện, Vũ Trọng Phụng đã chân thành giới thiệu Ngô Tất Tố với công chúng độc giả: "Bạn tui lại từ làng báo mới bước vào làng tiểu thuyết và Tắt đèn là áng văn đầu tiên của bạn và cũng là áng văn mới mẻ nhất về loại văn chương xã hội ngày nay nữa" [63; 200]. Vũ Trọng Phụng hết lời ngợi ca tác phẩm: "Tắt đèn là cuốn tiểu thuyết có luận đề xã hội - điều ấy cố nhiên là hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác tòng lai chưa từng thấy mà lại là của một tác giả có cái may hơn nhiều nhà văn khác là được sống nhiều ở thôn quê nên có đủ thẩm quyền" [63; 200].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
You must be registered for see links
Trên Báo Mới số 4 ngày 15/6/1939, Trần Minh Tước đã viết bài Một nhà văn hóa của dân quê - Ngô Tất Tố và tác phẩm Tắt đèn với nhận xét: "Ngòi bút ông đồ nho Ngô Tất Tố đáng lẽ là ngòi bút của cái thế hệ sản sinh những câu văn điền viên vui thú kia; hay có muốn thiên về dân quê một cách tha thiết hơn, thì bất quá và đáng lẽ ngòi bút ấy chỉ viết những bài cải lương hương chính mà mười lăm năm trước đây, chúng ta đã được đọc trên các báo. Không, nhà nho ấy đã vượt khỏi thế hệ mình. Người môn đồ Khổng Mạnh này đã thở hút cái không khí xã hội của K.Mác như tất cả những thiếu niên văn sỹ hàng tranh đấu để viết cho ta cuốn Tắt đèn" [94].
Ngoài ra, cũng trong thời gian đó bài báo của Phú Hương ngày 1/9/1939 có bài "Tắt đèn - tiểu thuyết của Ngô Tất Tố" đã đánh giá: "Đây là một thành công vẻ vang hết sức" [65]. Phú Hương cho rằng cốt truyện tiểu thuyết gần với sự thực xảy ra ở thôn quê xứ ta với sự quan sát tường tận kĩ càng. Ông ca ngợi nhân vật và cách tả cảnh thể hiện một trình độ cao, có thể đặt ngang hàng với các nhà văn Tự Lực văn đoàn.
Những bài báo trên đã tôn vinh Tắt đèn và gây ấn tượng mạnh với bạn đọc. Ngô Tất Tố, một cây bút tiểu thuyết vừa từ làng báo chuyển sang lại tiếp tục có những tác phẩm mới là Lều chõng và Việc làng. Những tác phẩm này đã góp phần quan trọng tạo cho Ngô Tất Tố một chỗ đứng vững chắc trên văn đàn.
Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại đã đánh giá Ngô Tất Tố là nhà văn chuyên sâu về đề tài nông thôn, am hiểu sâu sắc cuộc sống và phong tục làng quê. Ông phân tích và khẳng định tác phẩm Việc làng: "Tập phóng sự về dân quê này là một tập phóng sự rất đầy đủ về việc làng" [63; 324].
Sau Cách mạng tháng Tám, khi hòa bình lập lại, những tác phẩm văn học có giá trị thời kỳ trước Cách mạng được lựa chọn và đưa vào giảng dạy ở nhà trường. Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một trong số tác phẩm đầu tiên của dòng văn học hiện thực phê phán được đưa vào giảng dạy từ trường phổ thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
You must be registered for see links
đến đại học. Nhờ đó, tên tuổi Ngô Tất Tố được nhiều người biết đến hơn, và sự nghiệp văn học của ông ngày càng thu hút giới phê bình, nghiên cứu.
Sau khi Ngô Tất Tố - "nhà văn của những luống cày" mất trên con đường kháng chiến (1954), tiếp tục có nhiều bài nghiên cứu và giới thiệu về ông như: Ngô Tất Tố của Nguyên Hồng (Tạp chí văn nghệ số 54, tháng 8, năm 1954); Đọc lại Việc làng của Bùi Huy Phồn (Tạp chí văn nghệ số 8 tháng 1, năm 1958); Ngô Tất tố như tui đã biết của Nguyễn Đức Bính (Tạp chí văn nghệ số 61, tháng 6, năm 1962)...Trong những bài viết tưởng nhớ, khắc họa dáng nhà văn Ngô Tất Tố, có nhiều bài đánh giá cao tiểu thuyết Tắt đèn như: Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố của Nguyễn Công Hoan, Lời giới thiệu truyện Tắt đèn của Nguyễn Tuân, Tắt đèn cuốn tiểu thuyết hiện thực xuất sắc của Hồng Chương, Tắt đèn và tiếng nói của Ngô Tất Tố của Phong Lê, Giá trị nhận thức của Tắt đèn của Như Phong...Những bài viết về dáng Ngô Tất Tố và tiểu thuyết Tắt đèn càng khẳng định giá trị sự nghiệp văn học của ông, khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cái mốc quan trọng trong việc nghiên cứu và giới thiệu Ngô Tất Tố. Cũng trong thời điểm này, cần ghi nhận thành tựu nghiên cứu về Ngô Tất Tố của hai tác giả Phan Cự Đệ và Nguyễn Đức Đàn. Có thể xem đây là công trình nghiên cứu đầu tiên tập trung có hệ thống trên nhiều bình diện về sự nghiệp của Ngô Tất Tố, công trình được Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1962, Nhà xuất bản Hội nhà văn in lại năm 1999 với nhan đề Bước đường phát triển tư tưởng và nghệ thuật của Ngô Tất Tố. Sau đó nhà xuất bản Văn học in cuốn Tuyển tập Ngô Tất Tố và tiếp theo là Toàn tập Ngô Tất Tố (1996) do giáo sư Phan Cự Đệ tuyển chọn và giới thiệu.
Nhìn chung, các công trình, bài viết về Ngô Tất Tố giai đoạn này đều khẳng định vị trí quan trọng của nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
You must be registered for see links
đại; đều đánh giá ông là cây bút tài năng, là nhà văn hiện thực xuất sắc của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Một hoạt động khoa học đáng chú ý là cuộc hội thảo nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ngô Tất Tố do Hội Nhà văn và Viện Văn học phối hợp tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà văn, nhà báo. Các tham luận đã khẳng định tầm vóc của Ngô Tất Tố - một nhà văn lớn, một nhà báo lớn. Nhà nghiên cứu Phong Lê trong bài Ngô Tất Tố một dáng lớn một sự nghiệp lớn đã khẳng định: "Kỷ niệm 100 năm năm sinh Ngô Tất Tố chúng ta còn nhận ra một di sản còn đồ sộ hơn ở ông, bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động, có ý nghĩa là điểm tựa cho các giá trị văn chương, vượt ra khỏi đóng góp xuất sắc của một nhà văn hiện thực...Xứng đáng ở nhiều tư cách, nhưng với Ngô Tất Tố tui muốn trở lại tư cách nhà văn hóa như một tư thế bao trùm và là điểm tựa cho mọi lĩnh vực sáng tạo ngôn từ và bồi đắp tư duy hình tượng, luôn đạt trình độ cao sâu và các giá trị bền vững" [70].
Sang thời kỳ Đổi mới, có ý kiến đánh giá không đồng nhất với những ý kiến trước đây về nhân vật Chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn đó là ý kiến của Trần Đăng Khoa: "Ví như Tắt đèn của cụ Ngô Tất Tố. Tất nhiên trong cuốn truyện vừa xuất sắc này của cụ Tố, có một chỗ rất tệ hại. Ai lại dành nhiều công phu và tâm huyết như thế để viết về một bà mẹ đi bán con chuộc chồng "[69; 107]. Ý kiến của Trần Đăng Khoa chưa thật thuyết phục các nhà nghiên cứu, sau đó cũng không có ý kiến tranh luận nhiều về vấn đề này, và giá trị của Tắt đèn cũng như cảm tình của độc giả dành cho tác phẩm vẫn không thay đổi.
Song, nhìn chung, từ trước tới nay, các học giả đều khẳng định vị trí quan trọng của Ngô Tất Tố trên văn đàn. Các bài báo như: Cây bút sắc bén của một nhà Nho của Vũ Tú Nam; Ngô Tất Tố nhà văn hóa lỗi lạc của Hoài Việt; Ngô Tất Tố trong sự nghiệp đổi mới hôm nay của Gs Phan Cự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
You must be registered for see links
Đệ...càng khẳng định Ngô Tất Tố không phải chỉ là di sản của quá khứ mà còn là của hiện tại, của tương lai. Tư tưởng nhất quán của Ngô Tất Tố trong tác phẩm là vì dân, đấu tranh cho quyền độc lập của dân tộc, vì con người, đấu tranh cho tình yêu thương của con người trong cuộc sống. Tư tưởng ấy theo suốt cuộc đời sáng tác của nhà văn.
Đến năm 2000, Nhà xuất bản Giáo dục in cuốn Ngô Tất Tố về tác giả và tác phẩm do hai nhà nghiên cứu Mai Hương, Tôn Phương Lan tuyển chọn và giới thiệu. Đây là công trình tập hợp đầy đủ các bài viết bài nghiên cứu, hồi ức, tưởng niệm của bàn bè, đồng nghiệp, người thân về Ngô Tất Tố. Trong bài Ngô Tất Tố tài năng và tấm lòng, nhà nghiên cứu Mai Hương khẳng định: "Một cây bút tiểu thuyết phóng sự xuất sắc, một nhà báo cự phách, có biệt tài, một nhà khảo cứu, dịch thuật tâm huyết, và bao trùm là tư cách một nhà văn hóa lớn".
Ngoài ra, tác giả Trần Thị Minh Thu trong luận văn "Ngô Tất Tố nhà văn của phong tục làng quê Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945" cũng đã khẳng định: "Ngô Tất Tố chính là nhà văn phong tục tiêu biểu ở giai đoạn 1930- 1945. Thành công ở mảng đề tài phong tục đã góp phần làm cho tên tuổi Ngô Tất Tố thêm uy tín và vị trí vững chắc trong làng văn Việt Nam" [92; 75].
Những năm gần đây, nhờ công lao của các nhà sưu tầm, trong đó có ông Cao Đắc Điểm (người con rể của nhà văn), chúng ta lại biết thêm những tác phẩm báo chí mới của Ngô Tất Tố. Năm 2003, thành phố Hà Nội đã quyết định mở Đề tài khoa học về báo chí Ngô Tất Tố. Đề tài đã được in thành sách Di sản báo chí của Ngô Tất Tố - Ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nhà xuất bản Văn học (2005).
Tóm lại, hơn bảy thập kỷ qua, kể từ bài viết của Vũ Trọng Phụng về tiểu thuyết Tắt đèn (năm 1939) đến nay, đã có hàng trăm bài viết, hàng chục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
You must be registered for see links
công trình nghiên cứu đi sâu khám phá các phương diện khác nhau trong thế giới nghệ thuật của Ngô Tất Tố. So với những nhà văn cùng thời, thì những ý kiến đánh giá về Ngô Tất Tố và văn nghiệp của ông là khá ổn định, thống nhất. Hầu hết những công trình nghiên cứu đều theo xu hướng khẳng định: Ngô Tất Tố là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực trước Cách mạng và là một trong những tác gia có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
0.2.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố 0.2.2.1. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố từ trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 2000.
Từ trước Cách mạng tháng Tám đến năm 2000, việc nghiên cứu về Ngô Tất Tố tập trung chủ yếu vào những đóng góp của nhà văn trên phương diện nội dung tư tưởng, thế giới nhân vật, phong cách nghệ thuật, thi pháp.... Một số tác giả khi nghiên cứu về Ngô Tất Tố mới đưa ra một số nhận xét có tính khái quát, định hướng về ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn, chẳng hạn Vũ Trọng Phụng nhận xét: "Cách hành văn mới mẻ, sáng sủa, tưởng chừng như chỉ có phái nhà văn thuộc Pháp học mới có thể linh lợi và phô diễn nổi một cách linh hoạt như thế" [63; 201]. Nguyễn Đức Bính trong bài Ngô Tất Tố như tui đã biết có nhận xét cụ thể hơn: "Ngô Tất Tố có một lối viết văn mới, độc đáo nữa là khác, không chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu của các cụ đồ, giọng văn khi đậm đà khi duyên dáng nhưng đặc biệt dí dỏm; câu văn sắc cạnh, trong sáng, ngắn gọn, chữ dùng thường mạnh dạn và ý nhị" [63; 77]. Tuy nhiên, chúng tui nhận thấy, ý kiến đánh giá của Nguyễn Đức Bính về văn Ngô Tất Tố "không chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu của các cụ đồ" cần được khảo sát cụ thể hơn.
là trật tự tôn nghiêm cả: thí sinh chỉ là một lũ vô học, thí trường giống như một cái chợ mà ở đó chiến thắng sẽ thuộc về kẻ mạnh, và có nhiều tiền. Chính thành ngữ "Ầm ầm như bốn cái chợ" đã góp phần diễn tả dụng ý đó của Ngô Tất Tố. Điều đặc biệt ấn tượng là nhà văn đã vận dụng sáng tạo thành ngữ "Ầm ầm như chợ" của dân gian để chuyển thành "Ầm ầm như bốn cái chợ". Chỉ thêm một từ "bốn" nhưng tác dụng biểu hiện của câu thành ngữ tăng lên rất nhiều. Giá trị châm biếm của đoạn văn, vì thế cũng trở nên sâu cay hơn.
Trên đây là một số ví dụ tiêu biểu về cách vận dụng thành ngữ của Ngô Tất Tố để miêu tả, phản ánh hiện thực, tạo không khí nông thôn cho tác phẩm. Việc khảo sát và phân tích thành ngữ càng khẳng định tài năng vận dụng ngôn ngữ dân gian của nhà văn. Không chỉ học hỏi, kế thừa mà ông còn sáng tạo, bổ sung thêm những giá trị mới giúp cho thành ngữ thêm cô đúc, giàu hình ảnh hơn. Từ đó, càng chứng tỏ vai trò của ông trong việc góp phần làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc.
3.3. Dùng nhiều từ ngữ gắn với cuộc sống, sinh hoạt làng quê và công việc nhà nông
Là nhà văn có cuộc sống gắn bó với nông thôn nên Ngô Tất Tố rất am tường ngôn ngữ của tầng lớp nông dân lao động. Qua khảo sát các tác phẩm: Tắt đèn, Lều chõng, Trong rừng nho, Việc làng, Tập án cái đình chúng tui thu được: có tới 1482 lượt từ ngữ nghề nông được sử dụng, trong đó những từ chiếm tỷ lệ cao là: "khoai" 46 lượt, "trâu" 43 lượt, "lúa" 40 lượt, "cày" 54 lượt, "lợn" 34 lượt, "ruộng" 27 lượt, "bò" 19 lượt,...Ngoài ra những từ như: bừa, sào, mẫu, mồi rơm, thước, thốn, thuổng, cuốc, xẻng, thúng, xảo, mẹt, đòn gánh, thịt, cỗ...cũng được sử dụng khá phổ biến tạo nên bầu khí quyển làng quê đậm đặc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62
You must be registered for see links
Đọc tác phẩm của Ngô Tất Tố ta như được thở hít không khí của làng quê, chứng kiến cảnh sinh hoạt của những người nông dân, được nghe những lới trò chuyện xóm giềng "Tối lửa tắt đèn có nhau" :
"Bắt đầu gà gáy một tiếng, trâu bò lục tục kéo trâu cày đến đoạn đường phía trong điếm tuần.
Mọi ngày, giờ ấy, những con vật này cũng như những người cổ cày vai bừa kia, đã lần lượt đi mò ra ruộng làm việc cho chủ. Hôm nay vì cổng làng chưa mở, chúng phải chia quãng đứng rải rác ở hai bên vệ đường giống như một lũ phu cờ chờ đón những ông quan lớn.
Dưới bóng của rặng tre um tùm, tiếng trâu thở phì phò, tiếng bò đập đuôi đen đét, xen với tiếng người khạc khúng khắng.
Cảnh tượng điếm tuần thình lình hiện ra trong ánh lửa lập lòe của chiếc mồi rơm bị thổi. Cạnh dãy sào, giáo ngả nghiêng dựng ở giáp tường, một lũ tuần phu lố nhố ngồi trên lớp chiếu quằn quèo. Có người phì phò thổi mồm. Có người ve ve mồi thuốc chìa tay chờ đón điếu đóm. Có người há miệng ngáp dài. Có người dang tay đứng dụi mắt. Cũng có người còn gối đầu trên cái hiệu sừng trâu, ngoảnh mặt vào vách mà ngáy" [11; 1].
Trước khi Tắt đèn của Ngô Tất Tố ra đời, đã có khá nhiều tác phẩm của Tự lực văn đoàn ít nhiều đề cập đến hình ảnh nông thôn và cuộc sống của những người nông dân, người lao động nghèo. Nhưng, hầu hết những tác phẩm đó mới chỉ tả những vẻ đẹp của cảch đồng ruộng....mà chưa tả được vẻ đẹp của người nông dân. Người nông dân trong con mắt của các nhà văn lãng mạn thường là những con người khờ khạo, ngu dốt rất đáng thương hại. Văn chương của họ tuy có cách tân về nghệ thuật, ít nhiều có bóng dáng của đời sống hiện thực nhưng nhìn chung vẫn là thứ "văn chương dài dòng, sang trọng, kiểu cách, sạch sẽ bóng bẩy, làm duyên của loại văn chương phòng khách" [72] xa lạ với cuộc sống của người lao động. Tâm lí người đọc lúc bấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63
You must be registered for see links
giờ cũng mong có một tác phẩm giản dị trong cách viết, chân thực về làng quê, tả được bản chất của người nông dân và những vấn đề bản chất của nông thôn. Vũ Trọng Phụng đã bày tỏ: "Hiện thời trong làng tiểu thuyết và trong công chúng ắt có nhiều người đang đợi chờ một áng văn hoàn toàn thôn quê, không phải thứ chuyện ca tụng những cái đẹp về cảnh đồng ruộng hay những thú vị của nghề nông, hay miêu tả những phong tục kỳ quái của những nơi còn là hẻo lánh đối với văn minh và khoa học mà thôi, nhưng mà thứ chuyện có luận đề xã hội, mục đích là bênh vực phái nhà nông và cái đại đa số dân cùng đinh của xã hội nữa"[63; 198]. Giữa lúc đó thì Tắt đèn của Ngô Tất Tố ra đời, Vũ Trọng Phụng đã không dấu nổi vui mừng "Tắt đèn là thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội - điều ấy cố nhiên, hoàn toàn phụng sự dân quê..."[63; 198].
Tắt đèn đã đáp ứng được mong đợi của bạn đọc đương thời. Mở đầu tác phẩm là một loạt những từ ngữ gắn bó với cuộc sống, sinh hoạt của nhà nông. Những từ ngữ đó đã làm hiện lên khung cảnh làng Đông Xá trong những ngày thúc thuế. Cổng làng bị đóng chặt vì lí trưởng ra lệnh không cho con trâu con bò nào ra đồng, tất cả phải ở trong làng để tiến hành nộp thuế. Những dòng văn đầu tiên của tác phẩm, Ngô Tất Tố đã đặt nhân vật mình vào một hoàn cảnh điển hình của xã hội Việt Nam trước Cách mạng. Hình ảnh những người nông dân xen lẫn với những con trâu bò lố nhố ngồi la liệt trước cổng làng nó báo hiệu một hiện thực phũ phàng đang chờ đón họ. Những câu văn mở đầu Tắt đèn được trích dẫn trên đây đã dựng lên trước mắt người đọc quang cảnh nông thôn trì trệ, ngột ngạt. Dự cảm về một cuộc sống tối tăm đang đe dọa những người nông dân cũng theo đó mà gieo vào lòng độc giả.
Việc làng là tập phóng sự đã phơi bày những hủ tục ở chốn hương thôn Việt Nam trước Cách mạng, tác phẩm có thiên hướng đi gần với lối viết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64
You must be registered for see links
truyện ngắn. Mười bảy chương truyện là mười bảy câu chuyện về hủ tục mà quanh đi quẩn lại vẫn là nạn xôi thịt, Ta hãy xem Nghệ thuật băm thịt gà của thằng Mới:
"Bây giờ thì đến mình con gà, Hắn lách lưỡi dao vào sườn con gà, cắt riêng hai cái tỏi gà bỏ ra góc mâm. Rồi lật ngửa con gà lên thớt, hắn ướm dao vào giữa xương sống và giơ dao chém luôn hai nhát theo chiều dì cái xương ấy. Con gà bị tách ra làm hai mảnh. Mỗi mảnh đều có hai nửa xương sống. Một tay giữ thỏi thịt gà, một tay cầm con dao phay, hắn băm lia lịa như không chú ý gì hết. Nhưng mà hình như tay hắn có cỡ sẵn, cho nên con dao của hắn giơ lên, không nhát nào cao, không nhát nào thấp. Mười nhát như một, chỉ có lên khỏi mặt thớt độ một gang, và cách cái ngón tay cái của nó độ vài ba phân. Tiếng dao công cốc đụng vào mặt thớt, nhịp nhàng như tiếng mõ phường chèo, không lúc nào mau, không lúc nào thưa. Mỗi tiếng cốc là một miếng thịt băng ra. Miếng nào như miếng ấy, đứt suốt từ xương đến da, không còn dính nhau mảy may" [7; 34].
Trong đoạn văn, có tới 24 lượt từ ngữ gắn với sinh hoạt chốn thôn quê được nhà văn vận dụng trong tổng số 112 lượt từ ngữ. Đọc tác phẩm của Ngô Tất Tố người đọc thường gặp những từ ngữ như: Cỗ bàn, thịt lợn, thịt gà, giò, nem, ninh, mọc, dao thớt, mâm, bát, đĩa, ăn, uống...xuất hiện với tần xuất cao. Cuộc sống gắn bó làng quê, đã giúp Ngô Tất Tố am hiểu mọi sinh hoạt, lời ăn tiếng nói của người nông dân. Nhờ vậy, nhà văn đã thuyết phục người đọc khi miêu tả nghệ thuật băm thịt gà của thằng Mới. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan nhận xét: "Tả thật như vẽ ra trước mắt, lời văn trong Việc làng đều bình dị như thế. Cả tập phóng sự về dân quê là tập phóng sự rất đầy đủ về lệ làng" [7; 122].
Qua tập phóng sự Việc làng, Ngô Tất Tố đã có những đóng góp mới, quan trọng khi viết về người nông dân. Qua mười bảy câu chuyện, chúng ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 65
You must be registered for see links
thấy họ đều là những người bị áp bức, bóc lột một cách oan ức, rất đáng được cảm thương. Tuy nhiên, người ta cũng thấy Ngô Tất Tố có ý trách móc, phê phán những người nông dân vì mê tín chịu đựng thụ động trước hoàn cảnh, chấp nhận những hủ tục như một lẽ đương nhiên. Có người thì đau đớn than vãn, có người thì tự kết thúc bằng cái chết. Nói chung, không có thái độ phản ứng mạnh mẽ cho dù là tự phát. Từ ngữ gắn liền với cuộc sống của người nông dân đã giúp Ngô Tất Tố phản ánh được hiện thực đau xót trên.
Tóm lại, Ngô Tất Tố am hiểu sâu sắc nông thôn Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám nên ông sử dụng ngôn ngữ gắn liền với cuộc sống, sinh hoạt thôn quê và công việc nhà nông rất thành thạo. Có lẽ, không một nhà văn nào đương thời có thể am hiểu tỉ mỉ mọi sinh hoạt, tập tục ở nông thôn và có thể gọi từng sự vật, từng việc bằng đúng cái tên nông thôn của nó như ông.
Ngô Tất Tố không chỉ có cái nhìn sắc sảo, một sự am hiểu tường tận cuộc sống ở thôn quê mà điều quan trọng hơn, là ông có một tình cảm gắn bó sâu nặng với người nông dân, nói bằng tiếng nói của người nông dân. Đọc những trang sách của nhà văn viết về thân phận cùng kiệt khổ, bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nhiều lúc ta có cảm giác như nước mắt của nhà văn chan hòa cùng nước mắt của nhân vật. Với Tắt đèn, Việc làng, Tập án cái đình và nhiều bài báo khác của mình, Ngô Tất Tố thực sự đã trở thành người bạn đường đáng tin cậy của những người nông dân cùng kiệt trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Ngô Tất Tố là một tên tuổi lớn của nền văn xuôi thời kỳ hiện đại. Giá trị bền vững của các tác phẩm có phần đóng góp xứng đáng của nghệ thuật biểu hiện, nghệ thuật ngôn từ. Là một nhà nho nhưng ngôn ngữ của Ngô Tất Tố không thủ cựu mà hòa nhập với dòng chảy thời đại. Là một nhà văn của làng quê, ngôn ngữ của ông mang hơi thở, sự sống của sinh hoạt nông thôn nhưng không bị thiên vào tự nhiên chủ nghĩa. Ngôn ngữ của ông chắc khỏe,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 66
You must be registered for see links
giản dị mà vẫn hàm súc, sắc sảo mà vẫn gợi cảm, truyền thống mà rất hiện đại. Từ mảnh đất nho gia, Ngô Tất Tố đã bước từng bước vững chắc vào văn đàn hiện đại. Từ cuộc sống gần gũi nông thôn, Ngô Tất Tố đã dũng cảm "mang vác" cả ngôn ngữ của "người nhà quê" vào văn học và đã tạo dấu ấn riêng. Tiếp theo thế hệ các nhà văn, nhà thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Ngô Tất Tố đã góp phần "giải tỏa" sự ngăn cách giữa văn chương nhà nho với văn chương bình dân, văn chương làng quê và văn chương đô thị để tạo nên những tác phẩm phong phú về nội dung, sinh động về ngôn ngữ. Những thành công đó không dễ gì có được nếu không có một nền tảng văn hóa truyền thống vững chắc, một tư tưởng tiến bộ và một nỗ lực sáng tạo nghiêm túc, say mê. Trong tiến trình phát triển của nền văn học nước nhà, nhiều nhà văn đã tạo được sự bứt phá ngoạn mục trong ngôn ngữ như Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng...Nhưng Ngô Tất Tố chủ yếu là tiếp nối - vận dụng làm mới ngôn ngữ trên nền tảng truyền thống. Ngôn ngữ của ông chắc khỏe, giản dị mà vẫn hàm súc, sắc sảo mà vẫn gợi cảm, truyền thống mà rất hiện đại, đó là đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: