hoangdung_tk12
New Member
Download miễn phí Luận văn Phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên đại học Thái Nguyên hiện nay
MỞ ĐẦU
Thanh niên là lực lượng xó hội to lớn, là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đũi hỏi phải cú sự hy sinh gian khổ, phải cú sức khoẻ và sự sỏng tạo. Thanh niờn là độ tuổi sung sức về thể chất và phát triển về trí tuệ, thanh niên luôn năng động, sáng tạo và muốn khẳng định mỡnh. Song do cũn trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm nờn thanh niờn cần được sự giúp đỡ, chăm lo bồi dưỡng của thế hệ đi trước và toàn xó hội. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đó thường xuyên quan tâm, chăm lo, giáo dục, rèn luyện thanh niên để họ trở thành những người có đủ đức, đủ tài, có thể gánh vác được tương lai của Tổ quốc, của nhân dân. Trong Di chúc của mỡnh, Chủ tịch Hồ Chớ Minh đó căn dặn: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết".
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lónh đạo hơn hai mươi năm qua đó giành được nhiều thành tựu to lớn. Toàn Đảng, toàn dân ta đang phấn đấu để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh". Để đạt được mục tiêu này thỡ sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ kỹ thuật là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, sự tiến bộ kỹ thuật, sự tăng trưởng kinh tế không thể tách rời sự tiến bộ về văn hoá - xó hội, sự phát triển con người. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đó nờu rừ:
Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gỡn và nõng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp, ý thức cội nguồn và lũng tự hào dõn tộc; khắc phục tõm lý sựng bỏi đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn. Tiếp thu tinh hoa văn hoá các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam [13, tr.11].
Tinh thần này tiếp tục được Đảng ta khẳng định tại Đại hội lần thứ IX, lần X của Đảng, rằng văn hoá là nền tảng tinh thần của xó hội, xõy dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó
hội. Điều đó đũi hỏi mỗi người Việt Nam, trong đó có đội ngũ sinh viên phải hiểu biết sâu sắc những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc mỡnh, của cỏc thế hệ thanh niờn, để tiếp tục phát huy những giá trị này trong cuộc sống hôm nay.
Chúng ta đang tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xó hội chủ nghĩa, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp thu những thành tựu khoa học cụng nghệ và tiếp xỳc với văn hoá, lối sống hiện đại của thế giới. Những nhân tố này tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xó hội, trong đó có đạo đức. Các giá trị nói chung, các giá trị đạo đức nói riêng, đang vận động liên tục và ngày càng phức tạp. Nền kinh tế thị trường đó tỏ rừ những ưu thế của nó trong đời sống hiện thực, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, công nghệ, đồng thời tạo ra điều kiện để con người bộc lộ khả năng của mỡnh, con người trở nên năng động hơn, sáng tạo hơn, nhạy bén hơn, tự chủ hơn. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh các phản giá trị, tạo ra một bộ phận dân cư sống thực dụng, cá nhân hẹp hũi, bất chấp đạo lý, sống gấp, lừa đảo...
Thế hệ thanh niên, trong đó có đội ngũ sinh viên, cũng đang hàng ngày hàng giờ bị tác động bởi những nhân tố trên. Đáng lưu ý, sinh viờn là lực lượng đặc biệt quan trọng và trong tương lai gần họ sẽ là lực lượng lao động có trỡnh độ, là bộ phận sẽ tham gia vào đội ngũ trí thức góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, văn hoá - xó hội của đất nước. Bên cạnh đó, sinh viên đang phải đối mặt với nhiều áp lực sau khi ra trường về việc làm, về năng lực chuyên môn, ngoại ngữ, tin học... mà sự phát triển của xó hội hiện đại đũi hỏi. Trong khi đó, hàng ngày sinh viên đang gặp nhiều khó khăn về kinh tế, điều kiện học tập, nhà ở... Một bộ phận sinh viờn thiếu kiờn trỡ, nản chớ, mất niềm tin, mất phương hướng... đó mắc vào cỏc tệ nạn xó hội, thậm chớ là phạm tội.
Đại học Thái Nguyên là một trường Đại học vùng, có số lượng sinh viên đông (năm 2008 là 69.174 người). Sinh viên của Trường cũng đang đứng trước những thách thức mà sinh viên cả nước đang phải đối mặt.
Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết là phải nhận thức đúng đắn vai trũ của việc xõy dựng đạo đức mới và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong
việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên nói chung và sinh viên Đại học Thái Nguyên nói riêng.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài
Phát huy giá trị truyền thống, trong đó có giá trị đạo đức và vấn đề xây dựng đạo đức mới nói chung, xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ nói riêng đó được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Đáng chú ý là cỏc chuyờn khảo của cỏc nhà triết học, văn hoá học Xô Viết như:“Tính kế thừa trong sự phát triển văn hoá” (Matxcơva, 1969) của E.A.Bale, “Nguyờn lý đạo đức cộng sản” (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961) của A.Si-Skin, “Đạo đức học” Tập I và II (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1985) của G.Bandzeladze...
Ở nước ta, nhiều nhà khoa học đó đi sâu nghiên cứu giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đời sống văn hoá (trong đó có đời sống đạo đức) và con người Việt Nam thời đại mới như: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của G.S. Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xó hội, 1980), “Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong đổi mới tư duy” của GS.TS Nguyễn Ngọc Long (Tạp chớ Nghiờn cứu lý luận, 2/1987), “Đến hiện đại từ truyền thống” của GS.Trần Đỡnh Hựu (Nxb Văn hoá, Hà Nội 1995), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế thị trường trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay” của TS Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Triết học, 6/1996), “Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý” của PGS.TS Nguyễn Tĩnh Gia (Tạp chớ Nghiờn cứu lý luận 2/1997), “Giỏ trị truyền thống, nhõn lừi và sức sống bờn trong của sự phỏt triển đất nước, dân tộc” của PGS. Nguyễn Văn Huyên (Tạp chí Triết học 4/1998),“Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” do PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999), “Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh” của PGS.TS. Nguyễn Hùng Hậu (tạp chí triết học, 9/2005), “Từ đạo đức truyền thống đến đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh” của PGS. TS. Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Nghiờn cứu lý luận, 7/2006).
Vấn đề giữ gỡn và nõng cao giỏ trị đạo đức truyền thống cũng thu hút được sự quan tâm nghiên cứu như: Vũ Thị Huệ với luận văn thạc sỹ Triết học “Quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường với việc giữ gỡn và nâng cao những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, Cao Thu Hằng với luận văn thạc sỹ Triết học “Giá trị đạo đức truyền thống và sự phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002... Có những tác giả cũng đó đi sâu nghiên cứu việc xây dựng đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay như: Luận văn thạc sỹ triết học của Phan Văn Ba, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1998 “Vấn đề giáo dục truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ hiện nay - thực trạng và giải pháp”, Luận văn tiến sỹ triết học của Trần Sỹ Phán, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1999 “Giáo dục đạo đức và sự hỡnh thành phỏt triển nhõn cỏch sinh viờn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Triết học của Nguyễn Đỡnh Quế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2000 “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay (Qua thực tế ở Tỉnh Kiên Giang)”, Hoàng Chớ Bảo, Tạp chớ Nghiờn cứu lý luận 1/1995 với bài: “Văn hoá và sự phát triển nhân cách thanh niên”; “Mụ hỡnh nhõn cỏch thanh niờn năm 2000” của Phạm Hoàng Gia, Hà Nội, 1990.
Vấn đề kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc và xây dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay đó được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, nhưng vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên ở một Trường Đại học cụ thể như Đại học Thái Nguyên chưa có sự nghiên cứu mang tính chuyên đề chuyên sâu. Vỡ vậy, tụi chọn đề tài: “Phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Triết học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Qua thực tế ở một số Trường, Khoa thành viên trực thuộc Đại học Thái Nguyên, phân tích thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên, từ đó đề xuất phương hướng và một số giải
pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trũ của giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rừ giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên Việt Nam
Thứ hai, phõn tớch vai trũ của giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong
việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay.
Thứ ba, làm rừ việc phỏt huy giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay là yêu cầu khách quan. Thứ tư, phân tích thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên
trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại họcThái Nguyên hiện nay.
Thứ năm, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái
Nguyên hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Những giá trị đạo đức truyền thống tích cực của thanh niên cần được đội ngũ sinh viên kế thừa và phát huy .
- Luận văn chủ yếu tập trung phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức của sinh viên hiện nay, nảy sinh từ khi Đảng chủ chương tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đến nay (1986- 2009). Qua khảo sát thực tế ở một số sinh viên chính quy của các Trường, Khoa trực thuộc Đại học Thái Nguyên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn là dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, các công trỡnh nghiờn cứu trong và ngoài nước liên quan tới nội dung được đề cập trong luận văn.
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như sự thống nhất giữa lụgớc và lịch sử, giữa lý luận và thực tiễn...Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, phương pháp điều tra xó hội học...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Phân tích tầm quan trọng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên, những yêu cầu và thực trạng về việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên Đại học Thái Nguyên, từ đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ sinh viên nói chung và sinh viên Đại học Thái Nguyên nói riêng.
7. í nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần làm sảng tỏ sự cần thiết phải phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay trong đó có sinh viên Đại học Thái Nguyên.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức, các đoàn thể trực tiếp làm công tác thanh niên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH NIÊN ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
1.1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ Lí LUẬN
Khái niệm giá trị xuất hiện từ rất sớm. Thời kỳ cổ đại, khái niệm giá trị gắn chặt với Triết học. Từ nửa sau thế kỷ XIX, khái niệm giá trị trở thành khái niệm trung tâm của giá trị học. Hiện nay, khái niệm giá trị được sử dụng trong nhiều bộ môn khoa học xó hội và nhõn văn khác nhau, như triết học, xó hội học, tõm lý học, đạo đức học, kinh tế học...
Trong kinh tế học, khái niệm giá trị gắn với hàng hoá hay vật phẩm, là sự kết tinh của lao động xó hội trong hàng hoỏ hay vật phẩm đó. Hàng hoá có giá trị và giá trị sử dụng. Theo cách tiếp cận triết học, khái niệm giá trị được xác định trong mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể, là bản thân sự vật với những thuộc tính bản chất khách quan của nó và sự nhận thức (đánh giá) của chủ thể con người với khách thể đó. Giá trị là “giá trị của đối tượng”, mang tính khách quan, nhưng lại là kết quả của sự đánh giá của chủ thể về những phẩm chất, thuộc tính, bản chất vốn có của sự vật.
Theo Từ điển Bách khoa Triết học của Liên Xô (cũ) giá trị được định nghĩa là: “Khái niệm triết học và xó hội học dựng để chỉ, thứ nhất tầm quan trọng có tính khẳng định hay phủ định một khách thể nào đó, khác với đặc tính tồn tại và chất lượng của khách thể này...; thứ hai, khía cạnh chuẩn mực, mệnh lệnh – đánh giá của các hiện tượng ý thức của xó hội” [16, tr.7].
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Xô Viết định nghĩa:
Giá trị là một sự khẳng định hay phủ định ý nghĩa của các đối tuợng
thuộc thế giới xung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm hay toàn bộ xó hội núi chung. Giỏ trị được xác định không phải bởi bản tính các thuộc tính tự nhiên mà bởi tính chất cuốn hút (lôi cuốn) của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người, phạm vi các hứng thỳ và nhu cầu, cỏc mối quan
hệ xó hội, cỏc chuẩn mực và cách đánh giá ý nghĩa núi trờn được biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng, tâm thế và mục đích [56, tr.51-52].
Trong việc định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay, Ban thanh niên trường học cho rằng: “Giá trị là những cái thuộc về sự vật, hiện tượng và những thuộc tính của chúng, mà có ý nghĩa đối với xó hội, một nhúm người và cá nhân, với tư cách là phương tiện thoả món những nhu cầu và lợi ớch, đồng thời biểu thị niềm tin của con người về những mục đích và cách ứng xử lý tưởng” [2, tr.11].
Giá trị là phạm trù gắn với sự nhận thức đánh giá của chủ thể, do đó, trên thực tế, từ góc độ các cá nhân do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, sự đánh giá một sự vật hiện tượng nào đó về giá trị có thể có tỡnh trạng khụng thống nhất. Ở đây cần khẳng định, tuy giá trị biểu thị tác dụng và ý nghĩa của một khách thể đối với cuộc sống con người, nhưng giá trị không phải là sản phẩm được tạo ra từ hoạt động đánh giá của con người. Bản thân hoạt động đánh giá không tạo ra giá trị mà chỉ góp phần phát hiện giá trị trên cơ sở con người nhận thức về mức độ phù hợp, khả năng thoả món nhiều hay ớt của khỏch thể đối với hệ thống những yêu cầu, đũi hỏi về vật chất cũng như tinh thần của đời sống xó hội. Do vậy, khụng thể phủ nhận, cú những giỏ trị cú ý nghĩa trờn phạm vi rộng, mang tớnh thực tiễn - lịch sử, mang tớnh xó hội. Nghĩa là cú những giỏ trị cú tỏc dụng, cú ý nghĩa với cả cộng đồng xó hội, được xó hội thừa nhận, nú cũng giữ ý nghĩa chuẩn mực xó hội. Mang ý nghĩa như chuẩn mực xó hội, giỏ trị cú tỏc dụng tớch cực, nú định hướng cách ứng xử chung, phổ biến cho mọi cá nhân trong cộng đồng, điều tiết, thẩm định đánh giá hành vi của các cá nhân, của xó hội (về nhu cầu, sở thớch, niềm tin, lẽ sống, lý tưởng...). Như thế, giá trị là những gỡ hữu ớch gắn với chõn, thiện, mỹ.
Hệ thống giỏ trị xó hội vận động, biến đổi theo trỡnh độ nhận thức, nhu cầu phát triển của cá nhân và cộng đồng. Mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng xó hội cú những quan niệm giỏ trị khỏc nhau. Những giỏ trị khi đó trở thành tài sản văn hoá tinh thần chung của nhân loại và cộng đồng, thỡ cú ý nghĩa trường tồn. Lịch sử phát triển của loài người là quá trỡnh khụng ngừng tỡm kiếm, nhận thức các chân giá trị, tích luỹ, chọn
lọc thành giá trị truyền thống, giá trị phổ quát, từ đó nó kế thừa và tỡm ra cỏc giỏ trị mới phự hợp hơn với sự phát triển của con người và xó hội.
Từ đó, có thể nhấn mạnh các nội dung chủ yếu của phạm trù giá trị trên các khía cạnh:
- Giỏ trị là ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh thần, có khả năng thoả món nhu cầu tớch cực của con người, là tất cả những gỡ đem lại sự phát triển, sự tiến bộ, sự tốt đẹp cho con người và xó hội. Nội dung này của giỏ trị bao hàm trong nó sự phân biệt với cái “phản giá trị”, “vô giá trị” đi ngược lại xu thế phát triển của lịch sử, ngăn cản sự tiến bộ của xó hội.
- Giá trị có tính lịch sử, tính khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà do yêu cầu của từng thời đại lịch sử, trong đó con người sống và hoạt động. Ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử, con người không ngừng tỡm kiếm, nhận thức cỏc chõn giỏ trị, tớch luỹ, chọn lọc tỡm ra cỏc giỏ trị mới phù hợp hơn cho sự phát triển của con người và xó hội. Do đó, bên cạnh hệ giá trị truyền thống luôn song hành các hệ giá trị mới.
- Giá trị chứa đựng các yếu tố nhận thức, tỡnh cảm, hành vi của chủ thể (cỏ nhõn, giai cấp, tộc người, cộng đồng quốc gia dân tộc...) trong quan hệ với các sự vật hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự đánh giá, lựa chọn của chủ thể.
- Giá trị được xác định trong mối quan hệ thực tiễn của con người, được xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người xuất phát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm. Thực tiễn “vừa là tiêu chuẩn của chân lý về bản chất của khỏch thể, vừa là tiờu chuẩn của chõn lý về giỏ trị của khỏch thể” [8, tr.129]. V.I.Lênin viết: "... Toàn bộ thực tiễn của con người - thực tiễn này vừa với tính cách là tiờu chuẩn của chõn lý vừa với tớnh cỏch là kẻ xỏc định một cách thực tế mối liên hệ giữa sự vật với những điều cần thiết đối với con người, cần được bao hàm trong "định nghĩa" đầy đủ của sự vật" [28, tr.364].
- Giá trị đóng vai trũ rất quan trọng trong đời sống của con người. Nó là cái con người dựa vào để xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của mỡnh. Là cỏi con người mong muốn được theo đuổi.
Tóm lại: “Nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đó bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp có khả năng thôi thúc con người hành động và sự nỗ lực vươn tới” [7, tr.16-19].
Hỡnh thức biểu hiện của giỏ trị là đa dạng, phụ thuộc vào tính đa dạng của các hoạt động và các mối quan hệ của con người. Trong nghiên cứu, ở cấp độ chung nhất, giá trị được chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị đạo đức là một yếu tố cấu thành của hệ thống các giá trị tinh thần trong đời sống xó hội, được xác định là những chuẩn mực, những khuụn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi của con người trên cơ sở tự nguyện tự giác. Giá trị đạo đức “được đánh giá là có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xó hội, được lương tâm đồng tỡnh, dư luận biểu dương. Giá trị đạo đức, vỡ thế, cú ý nghĩa thiết yếu đối với đời sống xó hội" [25, tr.51].
Giá trị đạo đức xét theo chiều thời gian (lịch đại) có thể phân thành giá trị đạo đức truyền thống và giá trị đạo đức hiện đại. Mỗi dân tộc đều có các giá trị đạo đức truyền thống được hỡnh thành trong suốt quỏ trỡnh hỡnh thành và phỏt triển của dõn tộc. Mỗi dõn tộc khỏc nhau cú truyền thống khỏc nhau, cựng một dõn tộc, qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau truyền thống cũng biểu hiện và có cách lý giải khỏc nhau.
Đặc trưng của truyền thống là, thứ nhất, có tính ổn định và bền vững tương đối, lặp đi lặp lại qua các thế hệ, trở thành những đức tính, thói quen, những phong tục tập quán trong xó hội, trong cộng đồng. Truyền thống có sức sống dai dẳng, tồn tại lâu dài. Cái nhất thời không phải là truyền thống; thứ hai là, truyền thống mang tính cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận ở nhiều cấp độ và hỡnh thức khỏc nhau; thứ ba là, truyền thống mang tính lưu truyền từ đời này sang đời khác, góp phần quy định những chuẩn mực giá trị, chuẩn mực ứng xử... trong cộng đồng, trong xó hội [46, tr.384]. Giá trị truyền thống là cái thể hiện bản chất nhất, đặc trưng nhất cốt lừi văn hóa dân tộc, bởi nó được kết tinh trong suốt quá trỡnh lịch sử dõn tộc [23, tr.8-11].
Truyền thống là sản phẩm của lịch sử, nên không thể ngay lập tức thay đổi, xoá bỏ. Nhận thức này sẽ quy định thái độ của hiện tại đối với truyền thống. Sùng bái truyền thống hay coi thường truyền thống đều dẫn đến những hậu quả tai hại. Sùng bái một
cách mù quáng đối với truyền thống, khụng phõn biệt những giỏ tớch cực với những gỡ là lạc hậu, tiờu cực trong truyền thống, khụng tớnh đến những biến đổi khách quan trong hiện đại mà đề cao thái quá truyền thống sẽ dẫn đến trỡ trệ, bảo thủ, cản trở tiến bộ. Ngược lại, nếu coi thường truyền thống trong giải quyết các vấn đề của hiện tại và tương lai, đoạn tuyệt với truyền thống sẽ dẫn đến sự phá huỷ tính kế thừa, tính liên tục trong sự phát triển của xó hội. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dõn tộc nào dung hoà được các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, tỡm được cách biểu hiện mới của giá trị truyền thống trong thời hiện đại thỡ sẽ phỏt triển. Nghĩa là cỏc giỏ trị truyền thống phải được biến đổi phù hợp với tinh thần thời đại. Trong quá trỡnh đó, các giá trị truyền thống được gạn lọc, được kết hợp với các giá trị mới để tao nên hệ giá trị mới mang tinh thần thời đại, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống nhưng lại có đặc điểm dân tộc.
Trong lịch sử dân tộc ta, giá trị truyền thống đó cú những lần đối mặt với thách thức của những hệ giá trị khác. Trong thời kỳ Bắc thuộc, phong kiến phương Bắc đó thực hiện chớnh sỏch ỏp đặt hệ giá trị nhằm đồng hoá văn hoá, nô dịch nhân dân ta. Khi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, hệ giá trị truyền thống lại bị thách thức bởi hệ giá trị của nền văn minh kỹ thuật phương Tây. Do yêu cầu đấu tranh giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, các giá trị truyền thống đó cú sự biến đổi sâu sắc. Tuy vậy, vẫn có những giá trị tiếp tục được thừa nhận và phát huy, kết hợp với những giá trị mới phù hợp với yêu cầu phỏt triển xó hội. Từ khi lónh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xó hội, Đảng chủ trương xây dựng nền văn hoá dân tộc, đại chúng, hiện đại, tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Khi bàn đến các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, giáo sư Nguyễn Hồng Phong cho rằng: "tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung của giá trị đạo đức truyền thống bao gồm: tính thập thể - cộng đồng, trọng đạo đức, cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lũng yờu chuộng hũa bỡnh, nhõn đạo, lạc quan” [45, tr.453-454].
Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vỡ nghĩa [19, tr.94].
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, trong những truyền thống quý bỏu của dõn tộc nổi bật lờn nhất là truyền thống đạo đức và khẳng định truyền thống đạo đức cao đẹp của dân tộc ta gồm: lũng yờu nước, truyền thống đoàn kết, lao động, cần cù, sáng tạo; tinh thần nhân đạo, lũng yờu thương quý trong con người, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc [24, tr.74-86].
Kết quả nghiên cứu của Chương trỡnh khoa học cụng nghệ cấp Nhà nước “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xó hội” (KX - 07), cũng đó bước đầu khẳng định: cốt lừi của cỏc giỏ trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất nhân cách con người Việt Nam, bao gồm: tinh thần yêu nước, vỡ nghĩa, lũng thương người [9, tr.32-34].
Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cũng đó được đề cập đến trong một số văn kiện của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết 9 của Bộ Chính trị “Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng” khẳng định: "Những giá trị văn hóa tinh thần bền vững của dân tộc Việt Nam là lũng yờu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần cù vượt khó, sáng tạo trong lao động ... Đó là nền tảng và sức mạnh tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng một xó hội phỏt triển tiến bộ cụng bằng, nhõn ỏi [12, tr.19]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” khẳng định:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là yêu nước nồng nàn, ý chớ tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đỡnh - làng xó - tổ quốc; lũng nhõn ỏi, khoan dung, trọng nghĩa tỡnh, đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong đời sống [14, tr.56].
Từ những quan điểm của Đảng ta và kết quả nghiên cứu của những nhà khoa học, có thể rút ra một số nhận xét về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc như sau:
Một là, trong hệ thống các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc ta, giá trị đạo đức chiếm vị trí nổi bật. Khi đề cập đến các giá trị văn hóa, giá trị tinh thần truyền thống, hầu hết các ý kiến đều nhấn mạnh giá trị đạo đức.
Hai là, trong các giá trị đạo đức truyền thống, chủ nghĩa yêu nước được khẳng định là cốt lừi, là giỏ trị định hướng cho các giá trị khác.
Ba là, một số phẩm chất đạo đức như tinh thần đoàn kết, lũng nhõn ỏi, đức tính cần cù, tinh thần lạc quan...cũng thường được đề cập và coi đó là những giá trị đạo đức truyền thống quý bỏu của dõn tộc ta.
Có thể khẳng định, các giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của dân tộc ta bao gồm chủ nghĩa yêu nước; tinh thần đoàn kết và ý thức cộng động sâu sắc; lũng thương người sâu sắc; đức tính cần kiệm; lũng dũng cảm, tinh thần bất khuất, tớnh khiờm tốn, giản dị, trung thực, thủy chung, lạc quan...
Trong hệ thống các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, chủ nghĩa yêu nước là "tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị" [19, tr.94], là động lực tỡnh cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc ta [24, tr.74].
Yêu nước là tỉnh cảm phổ biến của các dân tộc trên thế giới. Yêu nước biểu hiện ở sự hy vọng đối với đất nước, lũng trung thành với Tổ quốc, khát vọng hành động tích cực để phục vụ và đem lại những lợi ích cho tổ quốc và nhân dân. V.I.Lênin đó từng khẳng định: "Chủ nghĩa yêu nước là một trong những tỡnh cảm sõu sắc nhất đó được củng cố qua hàng trăm, hàng nghỡn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập" [27, tr.226]. Song sự hỡnh thành sớm hay muộn, nội dung cụ thể, hỡnh thức và mức độ biểu hiện của nó tùy thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc.
Đối với dân tộc Việt Nam, truyền thống yêu nước thấm sâu trong nhân dân như mạch nước ngầm trong lũng đất, nó bắt nguồn từ mỗi con người, từ mỗi làng xóm tạo thành truyền thống của cả cộng đồng, tạo thành chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam khác biệt với tư tưởng yêu nước của dân tộc khác, nó được đúc kết bằng xương máu, bằng trí tuệ trong trường kỳ lịch sử đấu tranh dựng và giữ nước, hỡnh thành nờn một hệ thống lý luận về dõn tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền, hỡnh thành nờn lý
luận khoa học và nghệ thuật chiến tranh với chiến lược, cách huy động sức mạnh toàn dân tộc biến thành hành động thực tiễn để xây dựng và bảo vệ độc lập dân tộc, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vỡ mục tiờu độc lập dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có nguồn gốc sâu xa từ ý thức cộng đồng, gắn kết cá nhân - gia đỡnh - làng xó - Tổ quốc trong quỏ trỡnh dựng nước và giữ nước đầy gian khổ chống thiên tai và chống ngoại xâm. Chủ nghĩa yêu nước biểu hiện trong cuộc sống là ý thức về cội nguồn, tự hào về văn hóa dân tộc và xây dựng giữ gỡn nền văn hoá dân tộc, ý thức về chủ quyền quốc gia, ý chớ tự lực tự cường, ý thức tự tôn dân tộc, đặt lợi ích của Tổ quốc của nhân dân lên trên hết, chăm lo xây dựng quê hương đất nước, sẵn sàng chống đô hộ và xâm lược bảo vệ toàn vẹn lónh thổ quốc gia. Đối với mỗi người, lũng yờu nước phát triển từ những tỡnh cảm bỡnh dị và gần gũi đối với những người ruột thịt, dần dần phát triển thành tỡnh cảm gắn bú với làng xúm, quờ hương, cao hơn hết là tỡnh yờu Tổ quốc, lũng tự hào dõn tộc. Yờu nước thể hiện trong niềm vui lao động, trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, đặc biệt là trong công cuộc giữ nước đó làm nổi bật lờn khớ phỏch quật cường của cả dân tộc. Lịch sử nước ta cũn ghi lại tinh thần “cưỡi gió lớn, đạp sóng giữ” của Bà Triệu. Ý chí “đền nợ nước, trả thù nhà” của Bà Trưng, thái độ “tự chủ, tự cường” của Lý Thường Kiệt, dũng khí quyết chiến và quyết thắng và nghệ thuật chiến tranh của Trần Hưng Đạo, ý chớ gan gúc quật cường của Lê Lợi và Nguyễn Trói, khớ phỏch hựng dũng của Quang Trung... Trong sự nghiệp giữ nước của mỡnh, dõn tộc Việt Nam đó tiến hành hàng chục, hàng trăm cuộc chiến tranh, khởi nghĩa lớn nhỏ khác nhau và trong những cuộc chiến tranh, khởi nghĩa đó, các thế hệ cha ông đó khụng tiếc mỏu xương dũng cảm hy sinh vỡ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chớ Minh đó từng khẳng định: "Dân ta có một lũng nồng nàn yêu nước, đó là một truyền thống quý bỏu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thỡ tinh thần ấy lại sụi nổi nú kết thành một làn súng vụ cựng mạnh mẽ, to lớn, nú vượt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn nó nhấn chỡm tất cả lũ bỏn nước và lũ cướp nước" [33, tr.171].
Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng là nhân tố tinh thần hợp thành động lực thúc đẩy quá trỡnh phỏt triển của lịch sử dõn tộc. Từ thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm và chống thiên tai của dân tộc, bài học được cha ông ta rút ra là phải coi trọng sức mạnh cộng
đồng. Đoàn kết là điều kiện tất yếu để bảo tồn dân tộc mỗi khi đất nước có họa xâm lăng. Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng, bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước, đó tạo nờn sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhờ có tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng mà cha ông ta đó sỏng tạo ra nền văn minh Sông Hồng - cơ sở của tiến trỡnh phỏt triển của dõn tộc. Tinh thần này luụn được nhân dân phát huy trong quá trỡnh sản xuất, chống thiờn tai, chinh phục thiên nhiên.
Trong những cuộc chiến tranh giữ nước, cả dân tộc ta đó kết lại thành một khối vững chắc, người Lạc Việt và người Âu Việt đoàn kết dưới sự lónh đạo của An Dương Vương. Nhân dân khắp Giao Chỉ, Cửu Chân nô nức hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng. Dựa vào tinh thần đoàn kết, sáng tạo, quyết chiến, quyết thắng, Ngô Quyền cùng nhân dân đó dỡm xuống sụng Bạch Đằng cả đội quân xâm lược Nam Hán, Hội nghị Diên Hồng mói mói nổi bật lờn ý chớ “Sỏt thỏt” muụn người như một của nhân dân đời Trần. Cuộc chiến đấu gian khổ của Lê Lợi chỉ có thể thắng được nhờ vào sự thu hút hết thảy sức lực và nhân tài cả nước quy tụ về dưới ngọn cờ khởi nghĩa Lam Sơn. Quang Trung đó huy động được lực lượng toàn dân từ Bắc đến Nam để có “thế chẻ tre” trong cuộc đại phá quân Thanh. Sau khi xâm lược, thực dân Pháp đó chia nước ta thành ba kỳ, đế quốc Mỹ âm mưu chia cắt hai miền đất nước, nhưng người Việt Nam khắp Bắc, Trung, Nam đều chung một mối căm hờn quân cướp nước, đoàn kết dưới sự lónh đạo của Đảng làm lên thắng lợi của các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Truyền thống yêu nước của dân tộc ta bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với lũng yờu thương quý trọng con người, nhất là người lao động.
Lũng thương người của cha ông ta bắt nguồn từ trong sinh hoạt cộng đồng công xó nụng thụn, được củng cố phát triển qua quá trỡnh cựng nhau khai phỏ giang sơn, gỡn giữ đất nước, bắt nguồn từ hoàn cảnh khổ đau của nhân dân, từ lũng căm thù sâu sắc kẻ áp bức, bóc lột, kiên cường gan góc vượt lên muôn vàn gian khổ. Nhà thơ Tố Hữu đó từng viết “khổ đau nhiều mới yêu thương lắm”.
Tỡnh thương yêu con người của người Việt Nam thấm đượm trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đỡnh, giữa gia đỡnh và làng xúm và mở rộng ra cả cộng
Hồ Chí Minh”; môn “Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam” (nội dụng được xây dựng trên cơ sở môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam và đường lối phát triển kinh tế - xó hội của Đảng).
Việc đổi mới công tác giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh cần chú trọng cả nội dung và phương pháp giảng dạy.
Về nội dung, cần bổ sung hoàn thiện cỏc kiến thức lý luận, cập nhập thụng tin phự hợp với tỡnh hỡnh phỏt triển mới của đất nước và tỡnh hỡnh quốc tế. Giảng viờn phải cú kiến thức sõu, rộng ở nhiều lĩnh vực, phải gắn lý luận với giải quyết các vấn đề của thực tiễn. Trên cơ sở giáo trỡnh quốc gia, cỏc trường biên soạn giáo trỡnh phự hợp với trường mỡnh.
Về phương pháp, cần sinh động hoá môn học với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật. Giảng viên phải có khả năng truyền tải thông tin, khả năng sư phạm phù hợp với đối tượng.
Hiện nay, đổi mới phương pháp giảng dạy, "lấy người học làm trung tâm” đang phát triển mạnh mẽ, nó cũng là một yếu tố khách quan, phù hợp với xu thế của thời đại, đặc biệt là một yêu cầu cấp bách của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay [20, tr.7]. Trong bài "Một số phương hướng cải tiến phương pháp giảng dạy ở Đại học" đăng trên Tạp chí phát triển giáo dục (số 3/2003), Bùi Ngọc Oánh có đề xuất đổi mới phương pháp giảng dạy theo năm phương hướng: Thuyết trỡnh kết hợp với vấn đáp, trực quan, nêu vấn đề; yêu cầu và tổ chức kiểm tra việc sinh viên đọc sách, sưu tầm và nghiên cứu tài liệu; cải tiến và sử dụng tốt phương pháp báo cáo thảo luận (xemina); tăng cường việc yêu cầu sinh viên làm các bài tập nghiên cứu, viết tiểu luận; nghiên cứu vận dụng những phương pháp dạy học mới một cách thích hợp [44, tr.17].
Ngày 13/12/1999, Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đó ký quyết định số 42/QĐ- BGD&ĐT về việc tổ chức cuộc thi Olympic các môn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh hai năm một lần, dành cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng. Đây là một cách làm mới để đưa các môn này thấm nhuần vào sinh viên dưới hỡnh thức thi, sõn khấu hoỏ sinh động và hấp dẫn, góp phần giải toả quan niệm thường gặp trong sinh viên
khi cho rằng các môn này là "khô khan, khó học". Các cuộc thi đó diễn ra hai năm một lần. Sinh viên Đại học Thái nguyên đó tham gia, đạt kết quả tốt.
Bên cạnh đó, có thể áp dụng các hỡnh thức giảng dạy trực quan như tham quan bảo tàng, di tích lịch sử cỏch mạng, tổ chức cỏc cuộc thi tỡm hiểu lịch sử.
Công cụ hỗ trợ hiện đại cho đổi mới phương pháp là công nghệ thông tin. Giáo viên có thể sử dụng giáo án điện tử, soạn bài trên máy tính, sơ đồ hoá bài học, chỉ điểm nội dung, tóm tắt kiến thức. Sinh viên được yêu cầu tự học dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Việc học trên lớp sẽ là học kiến thức, đồng thời là học phương pháp tự học, học cách phát hiện vấn đề và đưa ra các phương giải quyết án tối ưu, từ đó hỡnh thành phương pháp, kỹ năng sáng tạo giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Cần quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Giảng viên là chủ thể, là yếu tố cơ bản quyết định chất lượng và hiệu quả giảng dạy. Các trường thành viên của Đại học Thái Nguyên cần có kế hoạch tuyển dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho các giảng viên đi thực tế hàng năm, học tập nâng cao trỡnh độ. Tăng cường bồi dưỡng về ngoại ngữ, tin học để họ có thể sừ dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong giảng dạy. Cần tăng cường các tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh đạt kết quả cao.
2.3.2.4. Xõy dựng mụi trường xó hội lành mạnh, nhà trường nhõn văn , gia đỡnh văn hoỏ
Môi trường xó hội lành mạnh, nhà trường nhân văn, gia đỡnh văn hoá là cơ sở, là nền tảng trên đó hỡnh thành niềm tin, tỡnh cảm, hành vi đạo đức tốt đẹp của sinh viên, cũng là nơi sinh viên thể hiện các hành vi đạo đức của mỡnh, thể hiện phẩm chất, nhõn cỏch con người.
Môi trường xó hội lành mạnh đảm bảo sự phát triển hài hoà giữa kinh tế, chính trị, văn hoá - xó hội, đạo đức hướng đến mục tiêu vỡ hạnh phỳc của mỗi cỏ nhân của cả cộng đồng.
Để xây dựng môi trường xó hội lành mạnh, từ gúc độ quốc gia, một mặt Đảng ta chủ trương thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa nhằm phỏt triển kinh tế xõy dựng xó hội giàu mạnh, đồng thời thực hiện công bằng xó hội trong từng
bước phát triển, thực hiện dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa, tiến tới xó hội văn minh. Trong quỏ trỡnh đó, Đảng ta chú trọng kiện toàn cơ chế thị trường thông qua việc hoàn thiện hệ thống luật pháp phù hợp với sự vận hành lành mạnh của thị trường, hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, lành mạnh hoá các quan hệ xó hội; thực hiện xõy dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa. Việc xõy dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa khụng chỉ là đũi hỏi tất yếu của nền kinh tế thị trường mà cũn là yờu cầu trong xõy dựng cỏc chuẩn mực đạo đức mới, đảm bảo tạo việc làm, thu nhập chính đáng và cơ hội phát triển cho mọi người, trong đó có sinh viên. Tác động tiêu cực về kinh tế - xó hội từ mặt trỏi của kinh tế thị trường đó ảnh hưởng tiêu cực tới quan niệm, hành vi đạo đức ở sinh viên. Việc lành mạnh hoá môi trường xó hội, cụng bằng, dõn chủ, cú kỷ cương pháp luật, tạo dư luận xó hội phờ phỏn những biểu hiện đạo đức sai lệch sẽ có tác dụng củng cố niềm tin, ý chí phấn đấu trong sinh viên.
Nhà trường, học đường, ký tỳc xỏ, nhà trọ cũng chớnh là mụi trường xó hội thu nhỏ của sinh viên, là môi trường đặc biệt của sinh viên.
Nhà trường là nơi đào tạo không những về kiến thức, mà cũn giỏo dục đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên cho nên nhà trường cần giữ kỷ cương, nề nếp học đường, tạo môi trường lý tưởng cho học sinh, sinh viên hỡnh thành và phỏt triển nhân cách. Nhà trường nhân văn phải đảm bảo tính kỷ cương, kỷ luật học đường, dạy và học đạt chất lượng cao, quan hệ thầy trũ trong sỏng trờn cơ sở tinh thần tôn sư, trọng đạo, hiếu học, dân chủ. Mỗi giáo viên phải là những tấm gương sáng đầy thuyết phục để sinh viên học theo.
Học đường là nơi trực tiếp diễn ra các hoạt động giáo dục, rèn luyện của sinh viên. Cần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, bỡnh đẳng giữa thầy và trũ, giữa sinh viờn với cỏn bộ nhõn viờn trong trường trên cơ sở tôn sư, trọng đạo, phự hợp với tỡnh hỡnh mới. Mối quan hệ này đến lượt mỡnh lại tạo điều kiện cho quá trỡnh giảng dạy, học tập đạt hiệu quả cao. Sự bỡnh đẳng trên nguyên tắc vừa đảm bảo được đạo lý thầy trũ truyền thống, vừa tạo điều kiện dân chủ để phát huy tính sáng tạo, sự độc lập, có chủ kiến trong học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Hiện nay, môi trường học đường ít nhiều đó bị cỏc tiờu cực của mặt trỏi nền kinh tế thị trường xâm nhập, làm tha hoá một bộ phận cán bộ, giảng viên, sinh viên. Các hiện tượng tiêu cực như: lười học, thiếu ý thức trờn giảng đường, tiếp thu thụ động, gian dối trong học tập và thi cử, mua điểm, bán bằng.... đang trở thành vấn nạn. Phải "tăng cường trật tự, kỷ cương, xây dựng, củng cố nền nếp, thực hiện trường ra trường, lớp ra lớp, thầy ra thầy, trũ ra trũ, dạy ra dạy, học ra học. Phấn đấu để mọi hoạt động của nhà trường đều có tác dụng giáo dục thiết thực và sâu sắc đối với học sinh, sinh viên" [21, tr.13]. Một mặt nêu cao tinh thần trung thực, tự trọng của sinh viên, mặt khác cần có quy chế quản lý chặt chẽ, xử lý nghiờm khắc những trường hợp vi phạm đối với cả giáo viên và sinh viên. Cải tiến công tác thi cử, áp dụng phương pháp thi trắc nghiệm và làm bài tự luận ra đề thi theo hướng gắn lý thuyết với thực hành, gắn với hiểu biết và kinh nghiệm cá nhân của sinh viên để hạn chế tỡnh trạng sao chộp bài thi, bài luận.
Để sinh viên nhận thức được tính thiết thực của việc học tập sẽ tự giác điều chỉnh hành vi, không vi phạm quy chế học tập thi cử, nhà trường cần cần có chương trỡnh đào tạo thiết thực, chú ý đào tạo theo mục tiờu sử dụng phự hợp, khắc phục tỡnh trạng thiờn về trọng khoa cử, bằng cấp, khụng coi trọng hiệu quả thực tế. Trờn thực tế, nhiều sinh viờn học giỏi, nhưng ra trường làm việc không hiệu quả bởi chương trỡnh đào tạo nặng về lý thuyết, xa rời thực tế. Chớnh vỡ vậy, nhà trường cần kết hợp tạo điều kiện cho sinh viên tham gia phát triển kinh tế để sinh viên thử nghiệm kiến thức và bản lĩnh trong thực tế, kết hợp lý thuyết với thực hành, phỏt huy tớnh năng động, sáng tạo, tích luỹ kinh nghiệm, vun đắp tinh thần yêu lao động và trực tiếp đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xó hội của đất nước. Việc làm này vừa góp phần đào tạo sinh viên, vừa tạo nên sự gắn bó của các em với tập thể, với nhà trường hơn nữa.
Các chính sách ưu đói cũng cần thiết thực, phù hợp từng đối tượng (con em gia đỡnh chớnh sỏch, thương binh liệt sĩ, vùng sâu, vùng xa, miền núi, nhà nghèo). Chính sách thiên về ưu tiên cộng điểm, cắt xén chương trỡnh là việc làm khụng khoa học với học đường, nó dẫn đến chất lượng đào tạo thấp, bằng cấp không đúng thực chất. Sự ưu đói nờn thực hiện qua việc miễn giảm học phớ, tăng học bổng, trợ cấp, tạo điều kiện về tài liệu học tập, sách vở, thông tin, sinh hoạt, đi lại...
Cần mở rộng cụng tỏc tuyờn truyền, phũng chống các tệ nạn xó hội thâm nhập vào môi trường sinh viên, đấu tranh phũng chống vi phạm phỏp luật và các tệ nạn xó hội trong sinh viờn.
Hiện tại nhiều sinh viên đang gặp nhiều khó khăn về nhà ở do ký túc xá không đủ. Việc một số sinh viên phải thuê nhà ở ngoài có thể dễ bị nhiễm thói hư, tật xấu. Vỡ thế việc xõy dựng ký tỳc xỏ và nhà trọ sinh viờn văn hoá đang đặt ra rất cấp thiết.
Việc tổ chức có chất lượng, và phù hợp các hoạt động văn hoá, văn nghệ thể thao, cung cấp cho sinh viên trong ký túc xá những món ăn tinh thần lành mạnh sẽ góp phần xây dựng năng lực thẩm mỹ, tăng cường thể lực, hỡnh thành lối sống lành mạnh trong sinh viờn. Tại ký tỳc xỏ Khoa Cụng nghệ thụng tin đang tồn tại mô hỡnh đài phát thanh sinh viên ký tỳc xỏ, cú nội dung hướng dẫn sinh viên học tập, tạo môi trường giao lưu, phục vụ nhu cầu cập nhật thông tin, thời sự trong và ngoài nước, thưởng thức các bài hát hay, các áng thơ, văn đẹp của sinh viên. Trong những năm gần đây, các hội thi tiếng hát sinh viên, giải bóng đá sinh viên được tổ chức thường xuyên đó tạo ra những sõn chơi lành mạnh. Từ đó, ngăn chặn các hủ tục lạc hậu, mê tín, văn hoá đồi truỵ, kích động, bạo lực xâm nhập vào môi trường sinh viên.
Phỏt huy tớnh tớch cực xó hội của sinh viờn thụng qua việc thành lập đội sinh viên xung kích giữ gỡn an ninh trật tự trong trường, trong ký tỳc xỏ và ngoài xó hội. Phỏt triển về quy mụ, loại hỡnh cỏc phong trào sinh viờn tỡnh nguyện vỡ cộng đồng (tỡnh nguyện tại chỗ, tỡnh nguyện quanh năm) góp phần phát triển kinh tế, giữ gỡn trật tự an toàn giao thụng, vệ sinh môi trường, xây dựng nền quốc phũng toàn dõn bảo vệ Tổ quốc. Cú biện phỏp phũng ngừa và xử lý kịp thời cỏc hành vi của cỏc thế lực thự địch tuyên truyền, lừa bịp kích động lôi kéo sinh viên làm trái pháp lụât, gây mất ổn định chính trị, an ninh xó hội.
Xây dựng tinh thần tương thân, tương ái, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trong trong học tập, trong sinh hoạt ở ký tỳc xỏ. Tỡnh cảm đạo đức là nền tảng cho việc thực hiện các hành vi đạo đức trong thực tiễn.
Xây dựng môi trường gia đỡnh văn hoá, từ góc độ quốc gia, Đảng ta chủ trương phát động phong trào xây dựng gia đỡnh văn hoá với mối quan hệ tỡnh cảm tốt đẹp, có
trật tự đạo đức trên dưới giữa các thành viên trong gia đỡnh, cú gia phong và thuần phong mỹ tục của dõn tộc.
Gia đỡnh là tế bào của xó hội, là môi trường đầu tiên, môi trường quan trọng, trong đó mỗi cá nhân gắn bó, trưởng thành. Tổ ấm gia đỡnh cú tỏc dụng nuụi dưỡng tâm hồn con người, hỡnh thành nhõn cỏch và định hướng quan niệm đạo đức, hành vi đạo đức.
Trong xó hội hiện đại, mỗi cá nhân tích cực tham gia vào đời sống xó hội để tự khẳng định mỡnh. Với sinh viờn đó là các hoạt động học tập, làm thêm và tham gia vào một số lĩnh vực khác. Trong quá trỡnh hoạt động này, sự tự ý thức cá nhân được nâng cao, vai trũ của cỏ nhõn được khẳng định bên cạnh mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đỡnh dựa trờn cơ sở tỡnh thương huyết thống thiêng liêng, nghĩa vụ, bổn phận, sự quan tâm đến nhau. Vào đại học, đa phần sinh viên sống xa gia đỡnh. Đạo đức sinh viên là sự tiếp nối của đạo đức đó được hỡnh thành từ trong gia đỡnh. Sự xa cỏch về địa lý cũng không hoàn toàn cắt đứt mọi ảnh hưởng của gia đỡnh với mỗi cỏ nhõn sinh viờn. Sống xa nhà, nhưng họ lại tiếp tục gia nhập vào một dạng "gia đỡnh mới" - tập thể. Đặc biệt với những sinh viên học gần nhà, vẫn sống cùng gia đinh thỡ quan hệ gia đỡnh vẫn tiếp tục được duy trỡ.
Một tỡnh trạng đang diễn ra trong việc giáo dục đạo đức ở gia đỡnh hiện nay là thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm, hay phú mặc việc giỏo dục cho nhà trường. Một số gia đỡnh bố mẹ làm ăn phi pháp, đạo đức suy giảm... khụng cũn là tấm gương cho con cái.
Thanh niên sinh viên hôm nay, từ nhỏ đó được làm quen với khoa học công nghệ hiện đại, với những thiết bị được số hoá, vỡ thế lối sống thay đổi, khác nhiều so với thế hệ trước. Hơn nữa bối cảnh giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, sức ép cạnh tranh ngày càng cao, buộc họ phải có những thay đổi thích ứng và vươn lên trong môi trường mới. Trong quá trỡnh đó có thể xuất hiện những biểu hiện lệch lạc về lối sống, suy thoái về đạo đức ở một bộ phận thanh niờn sinh viờn, gõy tõm lý lo ngại ở cỏc bậc cha mẹ. Do đó, cần thiêt tạo dựng mối quan hệ gắn bó trong gia đỡnh. ễng bà, cha mẹ phải trở thành người bạn lớn tuổi của con cháu, sống mẫu mực, kịp thời uốn nắn những biểu hiện lệch lạc của các em; xây dựng mối quan hệ bỡnh đẳng phù hợp với
những biến đổi của gia đỡnh trong thời kỳ mới để các thành viên phát huy được năng lực của bản thân. Điều đó đặt nền tảng vững chắc cho sự hỡnh thành nhõn cỏch của cỏc em, đồng thời là điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận những tri thức khoa học, tri thức văn hoá - xó hội, phỏt huy và giữ gỡn những giỏ trị đạo đức truyền thống trong quá trỡnh xõy dựng đạo đức mới của sinh viên.
KẾT LUẬN
Là một bộ phận của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên được hỡnh thành trong quỏ trỡnh dựng nước và giữ nước của dân tộc, nó được các thế hệ thanh niên Việt Nam kế tiếp nhau giữ gỡn và phỏt huy vỡ vậy chỳng trở nờn trường tồn cùng lịch sử. Ngày nay trước những đổi thay của đất nước, giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên vẫn tiếp tục được khẳng định vị trí là cơ sở, nền tảng trong việc xây dựng nền đạo đức mới, cuộc sống mới cho thanh niên Việt Nam nói chung, sinh viên Việt Nam nói riêng.
Từ khi Đảng chủ trương đổi mới, nước ta đi vào xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Hoàn cảnh mới này đó dẫn đến sự biến đổi to lớn của những giá trị đạo đức xó hội theo hai chiều hướng cả tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là cỏc hiện tượng phản giá trị, đi ngược với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là ở sinh viên - lực lượng có vai trũ vụ cựng to lớn trong hiện tại cũng như đối với tương lai của đất nước.
Thực tế ấy đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên, nhằm xây dựng một lực lượng trẻ, khoẻ, yêu nước, hăng say, nhiệt tỡnh, sỏng tạo, biết yờu quý và cú ý thức giữ gỡn truyền thống tốt đẹp của thanh niên Việt Nam. Vỡ thế, việc xây dựng đạo đức cho sinh viên trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc nói chung, trị đạo đức truyền thống của thanh niên nói riêng và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại có một tầm quan trọng đặc biệt đối với tương lai đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Cũng như sinh viên cả nước, sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay đang tiếp tục giữ gỡn và phỏt huy cỏc giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong quá trỡnh xõy dựng đạo đức mới. Bên cạnh đó, do tác động của nhiều yếu tố khách quan và sự chi phối của những nhân tố chủ quan, vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên vẫn cũn nhiều hạn chế. Vỡ vậy, để phát huy hơn nữa các giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay nói chung, sinh viên Đại học Thái Nguyên nói riêng, chúng tui đề xuất những giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, tăng cường sự lónh đạo của các cấp uỷ đảng, Ban giám đốc, Ban giám hiệu và các đoàn thể, các phũng ban đối với việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên.
Hai là, tổ chức các phong trào hành động cách mạng, kích thích tính sáng tạo, tính chủ động để sinh viên có thể tự lực giải quyết những vấn đề của chính mỡnh.
Ba là, tăng cường đổi mới công tác giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bốn là, xây dựng môi trường xó hội lành mạnh, nhà trường nhân văn, gia đỡnh văn hoá.
Những giải pháp nêu trên cần được triển khai một cách đồng bộ, có hiệu quả nhằm phát huy tốt nhất các giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay nói chung, sinh viên Đại học Thái Nguyên nói riêng.
MỤC LỤC
Trang MỞ ĐẦU 1
Chương 1: GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH 7
Bậc học
Tổng số
Hỡnh thức kỷ luật
Nội dung vi phạm
Nội trú
Ngoại trú
Khiển trách
Cảnh cáo
Đỡnh chỉ
Buộc thôi học
Học tập
Sinh hoạt, đạo đức
Liên quan đến tệ nạn xó hội
Vi phạm khác
NIÊN ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO
SINH VIÊN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
1.1. Giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên Việt Nam - Một số vấn
đề lý luận 7
1.2. Vai trũ của giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay 31
1.3. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay là
yêu cầu khách quan 47
Chương 2: PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
CỦA THANH NIÊN TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO
ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 62
2.1. Thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong
việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện
nay 62
2.2. Nguyên nhân của những thành công và hạn chế của việc phát huy giá
trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức 86
mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay
2.3. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo
đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới
cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay 92
KẾT LUẬN 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115 PHỤ LỤC 119
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỞ ĐẦU
Thanh niên là lực lượng xó hội to lớn, là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đũi hỏi phải cú sự hy sinh gian khổ, phải cú sức khoẻ và sự sỏng tạo. Thanh niờn là độ tuổi sung sức về thể chất và phát triển về trí tuệ, thanh niên luôn năng động, sáng tạo và muốn khẳng định mỡnh. Song do cũn trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm nờn thanh niờn cần được sự giúp đỡ, chăm lo bồi dưỡng của thế hệ đi trước và toàn xó hội. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đó thường xuyên quan tâm, chăm lo, giáo dục, rèn luyện thanh niên để họ trở thành những người có đủ đức, đủ tài, có thể gánh vác được tương lai của Tổ quốc, của nhân dân. Trong Di chúc của mỡnh, Chủ tịch Hồ Chớ Minh đó căn dặn: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết".
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lónh đạo hơn hai mươi năm qua đó giành được nhiều thành tựu to lớn. Toàn Đảng, toàn dân ta đang phấn đấu để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh". Để đạt được mục tiêu này thỡ sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ kỹ thuật là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, sự tiến bộ kỹ thuật, sự tăng trưởng kinh tế không thể tách rời sự tiến bộ về văn hoá - xó hội, sự phát triển con người. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đó nờu rừ:
Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gỡn và nõng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp, ý thức cội nguồn và lũng tự hào dõn tộc; khắc phục tõm lý sựng bỏi đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn. Tiếp thu tinh hoa văn hoá các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam [13, tr.11].
Tinh thần này tiếp tục được Đảng ta khẳng định tại Đại hội lần thứ IX, lần X của Đảng, rằng văn hoá là nền tảng tinh thần của xó hội, xõy dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó
hội. Điều đó đũi hỏi mỗi người Việt Nam, trong đó có đội ngũ sinh viên phải hiểu biết sâu sắc những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc mỡnh, của cỏc thế hệ thanh niờn, để tiếp tục phát huy những giá trị này trong cuộc sống hôm nay.
Chúng ta đang tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xó hội chủ nghĩa, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp thu những thành tựu khoa học cụng nghệ và tiếp xỳc với văn hoá, lối sống hiện đại của thế giới. Những nhân tố này tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xó hội, trong đó có đạo đức. Các giá trị nói chung, các giá trị đạo đức nói riêng, đang vận động liên tục và ngày càng phức tạp. Nền kinh tế thị trường đó tỏ rừ những ưu thế của nó trong đời sống hiện thực, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, công nghệ, đồng thời tạo ra điều kiện để con người bộc lộ khả năng của mỡnh, con người trở nên năng động hơn, sáng tạo hơn, nhạy bén hơn, tự chủ hơn. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh các phản giá trị, tạo ra một bộ phận dân cư sống thực dụng, cá nhân hẹp hũi, bất chấp đạo lý, sống gấp, lừa đảo...
Thế hệ thanh niên, trong đó có đội ngũ sinh viên, cũng đang hàng ngày hàng giờ bị tác động bởi những nhân tố trên. Đáng lưu ý, sinh viờn là lực lượng đặc biệt quan trọng và trong tương lai gần họ sẽ là lực lượng lao động có trỡnh độ, là bộ phận sẽ tham gia vào đội ngũ trí thức góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, văn hoá - xó hội của đất nước. Bên cạnh đó, sinh viên đang phải đối mặt với nhiều áp lực sau khi ra trường về việc làm, về năng lực chuyên môn, ngoại ngữ, tin học... mà sự phát triển của xó hội hiện đại đũi hỏi. Trong khi đó, hàng ngày sinh viên đang gặp nhiều khó khăn về kinh tế, điều kiện học tập, nhà ở... Một bộ phận sinh viờn thiếu kiờn trỡ, nản chớ, mất niềm tin, mất phương hướng... đó mắc vào cỏc tệ nạn xó hội, thậm chớ là phạm tội.
Đại học Thái Nguyên là một trường Đại học vùng, có số lượng sinh viên đông (năm 2008 là 69.174 người). Sinh viên của Trường cũng đang đứng trước những thách thức mà sinh viên cả nước đang phải đối mặt.
Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết là phải nhận thức đúng đắn vai trũ của việc xõy dựng đạo đức mới và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong
việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên nói chung và sinh viên Đại học Thái Nguyên nói riêng.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài
Phát huy giá trị truyền thống, trong đó có giá trị đạo đức và vấn đề xây dựng đạo đức mới nói chung, xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ nói riêng đó được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Đáng chú ý là cỏc chuyờn khảo của cỏc nhà triết học, văn hoá học Xô Viết như:“Tính kế thừa trong sự phát triển văn hoá” (Matxcơva, 1969) của E.A.Bale, “Nguyờn lý đạo đức cộng sản” (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961) của A.Si-Skin, “Đạo đức học” Tập I và II (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1985) của G.Bandzeladze...
Ở nước ta, nhiều nhà khoa học đó đi sâu nghiên cứu giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đời sống văn hoá (trong đó có đời sống đạo đức) và con người Việt Nam thời đại mới như: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của G.S. Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xó hội, 1980), “Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong đổi mới tư duy” của GS.TS Nguyễn Ngọc Long (Tạp chớ Nghiờn cứu lý luận, 2/1987), “Đến hiện đại từ truyền thống” của GS.Trần Đỡnh Hựu (Nxb Văn hoá, Hà Nội 1995), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế thị trường trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay” của TS Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Triết học, 6/1996), “Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý” của PGS.TS Nguyễn Tĩnh Gia (Tạp chớ Nghiờn cứu lý luận 2/1997), “Giỏ trị truyền thống, nhõn lừi và sức sống bờn trong của sự phỏt triển đất nước, dân tộc” của PGS. Nguyễn Văn Huyên (Tạp chí Triết học 4/1998),“Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” do PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999), “Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh” của PGS.TS. Nguyễn Hùng Hậu (tạp chí triết học, 9/2005), “Từ đạo đức truyền thống đến đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh” của PGS. TS. Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Nghiờn cứu lý luận, 7/2006).
Vấn đề giữ gỡn và nõng cao giỏ trị đạo đức truyền thống cũng thu hút được sự quan tâm nghiên cứu như: Vũ Thị Huệ với luận văn thạc sỹ Triết học “Quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường với việc giữ gỡn và nâng cao những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, Cao Thu Hằng với luận văn thạc sỹ Triết học “Giá trị đạo đức truyền thống và sự phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002... Có những tác giả cũng đó đi sâu nghiên cứu việc xây dựng đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay như: Luận văn thạc sỹ triết học của Phan Văn Ba, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1998 “Vấn đề giáo dục truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ hiện nay - thực trạng và giải pháp”, Luận văn tiến sỹ triết học của Trần Sỹ Phán, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1999 “Giáo dục đạo đức và sự hỡnh thành phỏt triển nhõn cỏch sinh viờn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Triết học của Nguyễn Đỡnh Quế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2000 “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay (Qua thực tế ở Tỉnh Kiên Giang)”, Hoàng Chớ Bảo, Tạp chớ Nghiờn cứu lý luận 1/1995 với bài: “Văn hoá và sự phát triển nhân cách thanh niên”; “Mụ hỡnh nhõn cỏch thanh niờn năm 2000” của Phạm Hoàng Gia, Hà Nội, 1990.
Vấn đề kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc và xây dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay đó được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, nhưng vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên ở một Trường Đại học cụ thể như Đại học Thái Nguyên chưa có sự nghiên cứu mang tính chuyên đề chuyên sâu. Vỡ vậy, tụi chọn đề tài: “Phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Triết học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Qua thực tế ở một số Trường, Khoa thành viên trực thuộc Đại học Thái Nguyên, phân tích thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên, từ đó đề xuất phương hướng và một số giải
pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trũ của giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rừ giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên Việt Nam
Thứ hai, phõn tớch vai trũ của giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong
việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay.
Thứ ba, làm rừ việc phỏt huy giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay là yêu cầu khách quan. Thứ tư, phân tích thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên
trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại họcThái Nguyên hiện nay.
Thứ năm, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái
Nguyên hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Những giá trị đạo đức truyền thống tích cực của thanh niên cần được đội ngũ sinh viên kế thừa và phát huy .
- Luận văn chủ yếu tập trung phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức của sinh viên hiện nay, nảy sinh từ khi Đảng chủ chương tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đến nay (1986- 2009). Qua khảo sát thực tế ở một số sinh viên chính quy của các Trường, Khoa trực thuộc Đại học Thái Nguyên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn là dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, các công trỡnh nghiờn cứu trong và ngoài nước liên quan tới nội dung được đề cập trong luận văn.
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như sự thống nhất giữa lụgớc và lịch sử, giữa lý luận và thực tiễn...Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, phương pháp điều tra xó hội học...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Phân tích tầm quan trọng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên, những yêu cầu và thực trạng về việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên Đại học Thái Nguyên, từ đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ sinh viên nói chung và sinh viên Đại học Thái Nguyên nói riêng.
7. í nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần làm sảng tỏ sự cần thiết phải phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay trong đó có sinh viên Đại học Thái Nguyên.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức, các đoàn thể trực tiếp làm công tác thanh niên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH NIÊN ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
1.1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ Lí LUẬN
Khái niệm giá trị xuất hiện từ rất sớm. Thời kỳ cổ đại, khái niệm giá trị gắn chặt với Triết học. Từ nửa sau thế kỷ XIX, khái niệm giá trị trở thành khái niệm trung tâm của giá trị học. Hiện nay, khái niệm giá trị được sử dụng trong nhiều bộ môn khoa học xó hội và nhõn văn khác nhau, như triết học, xó hội học, tõm lý học, đạo đức học, kinh tế học...
Trong kinh tế học, khái niệm giá trị gắn với hàng hoá hay vật phẩm, là sự kết tinh của lao động xó hội trong hàng hoỏ hay vật phẩm đó. Hàng hoá có giá trị và giá trị sử dụng. Theo cách tiếp cận triết học, khái niệm giá trị được xác định trong mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể, là bản thân sự vật với những thuộc tính bản chất khách quan của nó và sự nhận thức (đánh giá) của chủ thể con người với khách thể đó. Giá trị là “giá trị của đối tượng”, mang tính khách quan, nhưng lại là kết quả của sự đánh giá của chủ thể về những phẩm chất, thuộc tính, bản chất vốn có của sự vật.
Theo Từ điển Bách khoa Triết học của Liên Xô (cũ) giá trị được định nghĩa là: “Khái niệm triết học và xó hội học dựng để chỉ, thứ nhất tầm quan trọng có tính khẳng định hay phủ định một khách thể nào đó, khác với đặc tính tồn tại và chất lượng của khách thể này...; thứ hai, khía cạnh chuẩn mực, mệnh lệnh – đánh giá của các hiện tượng ý thức của xó hội” [16, tr.7].
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Xô Viết định nghĩa:
Giá trị là một sự khẳng định hay phủ định ý nghĩa của các đối tuợng
thuộc thế giới xung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm hay toàn bộ xó hội núi chung. Giỏ trị được xác định không phải bởi bản tính các thuộc tính tự nhiên mà bởi tính chất cuốn hút (lôi cuốn) của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người, phạm vi các hứng thỳ và nhu cầu, cỏc mối quan
hệ xó hội, cỏc chuẩn mực và cách đánh giá ý nghĩa núi trờn được biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng, tâm thế và mục đích [56, tr.51-52].
Trong việc định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay, Ban thanh niên trường học cho rằng: “Giá trị là những cái thuộc về sự vật, hiện tượng và những thuộc tính của chúng, mà có ý nghĩa đối với xó hội, một nhúm người và cá nhân, với tư cách là phương tiện thoả món những nhu cầu và lợi ớch, đồng thời biểu thị niềm tin của con người về những mục đích và cách ứng xử lý tưởng” [2, tr.11].
Giá trị là phạm trù gắn với sự nhận thức đánh giá của chủ thể, do đó, trên thực tế, từ góc độ các cá nhân do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, sự đánh giá một sự vật hiện tượng nào đó về giá trị có thể có tỡnh trạng khụng thống nhất. Ở đây cần khẳng định, tuy giá trị biểu thị tác dụng và ý nghĩa của một khách thể đối với cuộc sống con người, nhưng giá trị không phải là sản phẩm được tạo ra từ hoạt động đánh giá của con người. Bản thân hoạt động đánh giá không tạo ra giá trị mà chỉ góp phần phát hiện giá trị trên cơ sở con người nhận thức về mức độ phù hợp, khả năng thoả món nhiều hay ớt của khỏch thể đối với hệ thống những yêu cầu, đũi hỏi về vật chất cũng như tinh thần của đời sống xó hội. Do vậy, khụng thể phủ nhận, cú những giỏ trị cú ý nghĩa trờn phạm vi rộng, mang tớnh thực tiễn - lịch sử, mang tớnh xó hội. Nghĩa là cú những giỏ trị cú tỏc dụng, cú ý nghĩa với cả cộng đồng xó hội, được xó hội thừa nhận, nú cũng giữ ý nghĩa chuẩn mực xó hội. Mang ý nghĩa như chuẩn mực xó hội, giỏ trị cú tỏc dụng tớch cực, nú định hướng cách ứng xử chung, phổ biến cho mọi cá nhân trong cộng đồng, điều tiết, thẩm định đánh giá hành vi của các cá nhân, của xó hội (về nhu cầu, sở thớch, niềm tin, lẽ sống, lý tưởng...). Như thế, giá trị là những gỡ hữu ớch gắn với chõn, thiện, mỹ.
Hệ thống giỏ trị xó hội vận động, biến đổi theo trỡnh độ nhận thức, nhu cầu phát triển của cá nhân và cộng đồng. Mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng xó hội cú những quan niệm giỏ trị khỏc nhau. Những giỏ trị khi đó trở thành tài sản văn hoá tinh thần chung của nhân loại và cộng đồng, thỡ cú ý nghĩa trường tồn. Lịch sử phát triển của loài người là quá trỡnh khụng ngừng tỡm kiếm, nhận thức các chân giá trị, tích luỹ, chọn
lọc thành giá trị truyền thống, giá trị phổ quát, từ đó nó kế thừa và tỡm ra cỏc giỏ trị mới phự hợp hơn với sự phát triển của con người và xó hội.
Từ đó, có thể nhấn mạnh các nội dung chủ yếu của phạm trù giá trị trên các khía cạnh:
- Giỏ trị là ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh thần, có khả năng thoả món nhu cầu tớch cực của con người, là tất cả những gỡ đem lại sự phát triển, sự tiến bộ, sự tốt đẹp cho con người và xó hội. Nội dung này của giỏ trị bao hàm trong nó sự phân biệt với cái “phản giá trị”, “vô giá trị” đi ngược lại xu thế phát triển của lịch sử, ngăn cản sự tiến bộ của xó hội.
- Giá trị có tính lịch sử, tính khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà do yêu cầu của từng thời đại lịch sử, trong đó con người sống và hoạt động. Ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử, con người không ngừng tỡm kiếm, nhận thức cỏc chõn giỏ trị, tớch luỹ, chọn lọc tỡm ra cỏc giỏ trị mới phù hợp hơn cho sự phát triển của con người và xó hội. Do đó, bên cạnh hệ giá trị truyền thống luôn song hành các hệ giá trị mới.
- Giá trị chứa đựng các yếu tố nhận thức, tỡnh cảm, hành vi của chủ thể (cỏ nhõn, giai cấp, tộc người, cộng đồng quốc gia dân tộc...) trong quan hệ với các sự vật hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự đánh giá, lựa chọn của chủ thể.
- Giá trị được xác định trong mối quan hệ thực tiễn của con người, được xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người xuất phát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm. Thực tiễn “vừa là tiêu chuẩn của chân lý về bản chất của khỏch thể, vừa là tiờu chuẩn của chõn lý về giỏ trị của khỏch thể” [8, tr.129]. V.I.Lênin viết: "... Toàn bộ thực tiễn của con người - thực tiễn này vừa với tính cách là tiờu chuẩn của chõn lý vừa với tớnh cỏch là kẻ xỏc định một cách thực tế mối liên hệ giữa sự vật với những điều cần thiết đối với con người, cần được bao hàm trong "định nghĩa" đầy đủ của sự vật" [28, tr.364].
- Giá trị đóng vai trũ rất quan trọng trong đời sống của con người. Nó là cái con người dựa vào để xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của mỡnh. Là cỏi con người mong muốn được theo đuổi.
Tóm lại: “Nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đó bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp có khả năng thôi thúc con người hành động và sự nỗ lực vươn tới” [7, tr.16-19].
Hỡnh thức biểu hiện của giỏ trị là đa dạng, phụ thuộc vào tính đa dạng của các hoạt động và các mối quan hệ của con người. Trong nghiên cứu, ở cấp độ chung nhất, giá trị được chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị đạo đức là một yếu tố cấu thành của hệ thống các giá trị tinh thần trong đời sống xó hội, được xác định là những chuẩn mực, những khuụn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi của con người trên cơ sở tự nguyện tự giác. Giá trị đạo đức “được đánh giá là có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xó hội, được lương tâm đồng tỡnh, dư luận biểu dương. Giá trị đạo đức, vỡ thế, cú ý nghĩa thiết yếu đối với đời sống xó hội" [25, tr.51].
Giá trị đạo đức xét theo chiều thời gian (lịch đại) có thể phân thành giá trị đạo đức truyền thống và giá trị đạo đức hiện đại. Mỗi dân tộc đều có các giá trị đạo đức truyền thống được hỡnh thành trong suốt quỏ trỡnh hỡnh thành và phỏt triển của dõn tộc. Mỗi dõn tộc khỏc nhau cú truyền thống khỏc nhau, cựng một dõn tộc, qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau truyền thống cũng biểu hiện và có cách lý giải khỏc nhau.
Đặc trưng của truyền thống là, thứ nhất, có tính ổn định và bền vững tương đối, lặp đi lặp lại qua các thế hệ, trở thành những đức tính, thói quen, những phong tục tập quán trong xó hội, trong cộng đồng. Truyền thống có sức sống dai dẳng, tồn tại lâu dài. Cái nhất thời không phải là truyền thống; thứ hai là, truyền thống mang tính cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận ở nhiều cấp độ và hỡnh thức khỏc nhau; thứ ba là, truyền thống mang tính lưu truyền từ đời này sang đời khác, góp phần quy định những chuẩn mực giá trị, chuẩn mực ứng xử... trong cộng đồng, trong xó hội [46, tr.384]. Giá trị truyền thống là cái thể hiện bản chất nhất, đặc trưng nhất cốt lừi văn hóa dân tộc, bởi nó được kết tinh trong suốt quá trỡnh lịch sử dõn tộc [23, tr.8-11].
Truyền thống là sản phẩm của lịch sử, nên không thể ngay lập tức thay đổi, xoá bỏ. Nhận thức này sẽ quy định thái độ của hiện tại đối với truyền thống. Sùng bái truyền thống hay coi thường truyền thống đều dẫn đến những hậu quả tai hại. Sùng bái một
cách mù quáng đối với truyền thống, khụng phõn biệt những giỏ tớch cực với những gỡ là lạc hậu, tiờu cực trong truyền thống, khụng tớnh đến những biến đổi khách quan trong hiện đại mà đề cao thái quá truyền thống sẽ dẫn đến trỡ trệ, bảo thủ, cản trở tiến bộ. Ngược lại, nếu coi thường truyền thống trong giải quyết các vấn đề của hiện tại và tương lai, đoạn tuyệt với truyền thống sẽ dẫn đến sự phá huỷ tính kế thừa, tính liên tục trong sự phát triển của xó hội. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dõn tộc nào dung hoà được các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, tỡm được cách biểu hiện mới của giá trị truyền thống trong thời hiện đại thỡ sẽ phỏt triển. Nghĩa là cỏc giỏ trị truyền thống phải được biến đổi phù hợp với tinh thần thời đại. Trong quá trỡnh đó, các giá trị truyền thống được gạn lọc, được kết hợp với các giá trị mới để tao nên hệ giá trị mới mang tinh thần thời đại, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống nhưng lại có đặc điểm dân tộc.
Trong lịch sử dân tộc ta, giá trị truyền thống đó cú những lần đối mặt với thách thức của những hệ giá trị khác. Trong thời kỳ Bắc thuộc, phong kiến phương Bắc đó thực hiện chớnh sỏch ỏp đặt hệ giá trị nhằm đồng hoá văn hoá, nô dịch nhân dân ta. Khi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, hệ giá trị truyền thống lại bị thách thức bởi hệ giá trị của nền văn minh kỹ thuật phương Tây. Do yêu cầu đấu tranh giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, các giá trị truyền thống đó cú sự biến đổi sâu sắc. Tuy vậy, vẫn có những giá trị tiếp tục được thừa nhận và phát huy, kết hợp với những giá trị mới phù hợp với yêu cầu phỏt triển xó hội. Từ khi lónh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xó hội, Đảng chủ trương xây dựng nền văn hoá dân tộc, đại chúng, hiện đại, tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Khi bàn đến các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, giáo sư Nguyễn Hồng Phong cho rằng: "tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung của giá trị đạo đức truyền thống bao gồm: tính thập thể - cộng đồng, trọng đạo đức, cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lũng yờu chuộng hũa bỡnh, nhõn đạo, lạc quan” [45, tr.453-454].
Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vỡ nghĩa [19, tr.94].
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, trong những truyền thống quý bỏu của dõn tộc nổi bật lờn nhất là truyền thống đạo đức và khẳng định truyền thống đạo đức cao đẹp của dân tộc ta gồm: lũng yờu nước, truyền thống đoàn kết, lao động, cần cù, sáng tạo; tinh thần nhân đạo, lũng yờu thương quý trong con người, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc [24, tr.74-86].
Kết quả nghiên cứu của Chương trỡnh khoa học cụng nghệ cấp Nhà nước “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xó hội” (KX - 07), cũng đó bước đầu khẳng định: cốt lừi của cỏc giỏ trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất nhân cách con người Việt Nam, bao gồm: tinh thần yêu nước, vỡ nghĩa, lũng thương người [9, tr.32-34].
Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cũng đó được đề cập đến trong một số văn kiện của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết 9 của Bộ Chính trị “Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng” khẳng định: "Những giá trị văn hóa tinh thần bền vững của dân tộc Việt Nam là lũng yờu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần cù vượt khó, sáng tạo trong lao động ... Đó là nền tảng và sức mạnh tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng một xó hội phỏt triển tiến bộ cụng bằng, nhõn ỏi [12, tr.19]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” khẳng định:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là yêu nước nồng nàn, ý chớ tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đỡnh - làng xó - tổ quốc; lũng nhõn ỏi, khoan dung, trọng nghĩa tỡnh, đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong đời sống [14, tr.56].
Từ những quan điểm của Đảng ta và kết quả nghiên cứu của những nhà khoa học, có thể rút ra một số nhận xét về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc như sau:
Một là, trong hệ thống các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc ta, giá trị đạo đức chiếm vị trí nổi bật. Khi đề cập đến các giá trị văn hóa, giá trị tinh thần truyền thống, hầu hết các ý kiến đều nhấn mạnh giá trị đạo đức.
Hai là, trong các giá trị đạo đức truyền thống, chủ nghĩa yêu nước được khẳng định là cốt lừi, là giỏ trị định hướng cho các giá trị khác.
Ba là, một số phẩm chất đạo đức như tinh thần đoàn kết, lũng nhõn ỏi, đức tính cần cù, tinh thần lạc quan...cũng thường được đề cập và coi đó là những giá trị đạo đức truyền thống quý bỏu của dõn tộc ta.
Có thể khẳng định, các giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của dân tộc ta bao gồm chủ nghĩa yêu nước; tinh thần đoàn kết và ý thức cộng động sâu sắc; lũng thương người sâu sắc; đức tính cần kiệm; lũng dũng cảm, tinh thần bất khuất, tớnh khiờm tốn, giản dị, trung thực, thủy chung, lạc quan...
Trong hệ thống các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, chủ nghĩa yêu nước là "tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị" [19, tr.94], là động lực tỡnh cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc ta [24, tr.74].
Yêu nước là tỉnh cảm phổ biến của các dân tộc trên thế giới. Yêu nước biểu hiện ở sự hy vọng đối với đất nước, lũng trung thành với Tổ quốc, khát vọng hành động tích cực để phục vụ và đem lại những lợi ích cho tổ quốc và nhân dân. V.I.Lênin đó từng khẳng định: "Chủ nghĩa yêu nước là một trong những tỡnh cảm sõu sắc nhất đó được củng cố qua hàng trăm, hàng nghỡn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập" [27, tr.226]. Song sự hỡnh thành sớm hay muộn, nội dung cụ thể, hỡnh thức và mức độ biểu hiện của nó tùy thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc.
Đối với dân tộc Việt Nam, truyền thống yêu nước thấm sâu trong nhân dân như mạch nước ngầm trong lũng đất, nó bắt nguồn từ mỗi con người, từ mỗi làng xóm tạo thành truyền thống của cả cộng đồng, tạo thành chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam khác biệt với tư tưởng yêu nước của dân tộc khác, nó được đúc kết bằng xương máu, bằng trí tuệ trong trường kỳ lịch sử đấu tranh dựng và giữ nước, hỡnh thành nờn một hệ thống lý luận về dõn tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền, hỡnh thành nờn lý
luận khoa học và nghệ thuật chiến tranh với chiến lược, cách huy động sức mạnh toàn dân tộc biến thành hành động thực tiễn để xây dựng và bảo vệ độc lập dân tộc, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vỡ mục tiờu độc lập dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có nguồn gốc sâu xa từ ý thức cộng đồng, gắn kết cá nhân - gia đỡnh - làng xó - Tổ quốc trong quỏ trỡnh dựng nước và giữ nước đầy gian khổ chống thiên tai và chống ngoại xâm. Chủ nghĩa yêu nước biểu hiện trong cuộc sống là ý thức về cội nguồn, tự hào về văn hóa dân tộc và xây dựng giữ gỡn nền văn hoá dân tộc, ý thức về chủ quyền quốc gia, ý chớ tự lực tự cường, ý thức tự tôn dân tộc, đặt lợi ích của Tổ quốc của nhân dân lên trên hết, chăm lo xây dựng quê hương đất nước, sẵn sàng chống đô hộ và xâm lược bảo vệ toàn vẹn lónh thổ quốc gia. Đối với mỗi người, lũng yờu nước phát triển từ những tỡnh cảm bỡnh dị và gần gũi đối với những người ruột thịt, dần dần phát triển thành tỡnh cảm gắn bú với làng xúm, quờ hương, cao hơn hết là tỡnh yờu Tổ quốc, lũng tự hào dõn tộc. Yờu nước thể hiện trong niềm vui lao động, trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, đặc biệt là trong công cuộc giữ nước đó làm nổi bật lờn khớ phỏch quật cường của cả dân tộc. Lịch sử nước ta cũn ghi lại tinh thần “cưỡi gió lớn, đạp sóng giữ” của Bà Triệu. Ý chí “đền nợ nước, trả thù nhà” của Bà Trưng, thái độ “tự chủ, tự cường” của Lý Thường Kiệt, dũng khí quyết chiến và quyết thắng và nghệ thuật chiến tranh của Trần Hưng Đạo, ý chớ gan gúc quật cường của Lê Lợi và Nguyễn Trói, khớ phỏch hựng dũng của Quang Trung... Trong sự nghiệp giữ nước của mỡnh, dõn tộc Việt Nam đó tiến hành hàng chục, hàng trăm cuộc chiến tranh, khởi nghĩa lớn nhỏ khác nhau và trong những cuộc chiến tranh, khởi nghĩa đó, các thế hệ cha ông đó khụng tiếc mỏu xương dũng cảm hy sinh vỡ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chớ Minh đó từng khẳng định: "Dân ta có một lũng nồng nàn yêu nước, đó là một truyền thống quý bỏu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thỡ tinh thần ấy lại sụi nổi nú kết thành một làn súng vụ cựng mạnh mẽ, to lớn, nú vượt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn nó nhấn chỡm tất cả lũ bỏn nước và lũ cướp nước" [33, tr.171].
Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng là nhân tố tinh thần hợp thành động lực thúc đẩy quá trỡnh phỏt triển của lịch sử dõn tộc. Từ thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm và chống thiên tai của dân tộc, bài học được cha ông ta rút ra là phải coi trọng sức mạnh cộng
đồng. Đoàn kết là điều kiện tất yếu để bảo tồn dân tộc mỗi khi đất nước có họa xâm lăng. Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng, bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước, đó tạo nờn sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhờ có tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng mà cha ông ta đó sỏng tạo ra nền văn minh Sông Hồng - cơ sở của tiến trỡnh phỏt triển của dõn tộc. Tinh thần này luụn được nhân dân phát huy trong quá trỡnh sản xuất, chống thiờn tai, chinh phục thiên nhiên.
Trong những cuộc chiến tranh giữ nước, cả dân tộc ta đó kết lại thành một khối vững chắc, người Lạc Việt và người Âu Việt đoàn kết dưới sự lónh đạo của An Dương Vương. Nhân dân khắp Giao Chỉ, Cửu Chân nô nức hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng. Dựa vào tinh thần đoàn kết, sáng tạo, quyết chiến, quyết thắng, Ngô Quyền cùng nhân dân đó dỡm xuống sụng Bạch Đằng cả đội quân xâm lược Nam Hán, Hội nghị Diên Hồng mói mói nổi bật lờn ý chớ “Sỏt thỏt” muụn người như một của nhân dân đời Trần. Cuộc chiến đấu gian khổ của Lê Lợi chỉ có thể thắng được nhờ vào sự thu hút hết thảy sức lực và nhân tài cả nước quy tụ về dưới ngọn cờ khởi nghĩa Lam Sơn. Quang Trung đó huy động được lực lượng toàn dân từ Bắc đến Nam để có “thế chẻ tre” trong cuộc đại phá quân Thanh. Sau khi xâm lược, thực dân Pháp đó chia nước ta thành ba kỳ, đế quốc Mỹ âm mưu chia cắt hai miền đất nước, nhưng người Việt Nam khắp Bắc, Trung, Nam đều chung một mối căm hờn quân cướp nước, đoàn kết dưới sự lónh đạo của Đảng làm lên thắng lợi của các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Truyền thống yêu nước của dân tộc ta bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với lũng yờu thương quý trọng con người, nhất là người lao động.
Lũng thương người của cha ông ta bắt nguồn từ trong sinh hoạt cộng đồng công xó nụng thụn, được củng cố phát triển qua quá trỡnh cựng nhau khai phỏ giang sơn, gỡn giữ đất nước, bắt nguồn từ hoàn cảnh khổ đau của nhân dân, từ lũng căm thù sâu sắc kẻ áp bức, bóc lột, kiên cường gan góc vượt lên muôn vàn gian khổ. Nhà thơ Tố Hữu đó từng viết “khổ đau nhiều mới yêu thương lắm”.
Tỡnh thương yêu con người của người Việt Nam thấm đượm trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đỡnh, giữa gia đỡnh và làng xúm và mở rộng ra cả cộng
Hồ Chí Minh”; môn “Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam” (nội dụng được xây dựng trên cơ sở môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam và đường lối phát triển kinh tế - xó hội của Đảng).
Việc đổi mới công tác giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh cần chú trọng cả nội dung và phương pháp giảng dạy.
Về nội dung, cần bổ sung hoàn thiện cỏc kiến thức lý luận, cập nhập thụng tin phự hợp với tỡnh hỡnh phỏt triển mới của đất nước và tỡnh hỡnh quốc tế. Giảng viờn phải cú kiến thức sõu, rộng ở nhiều lĩnh vực, phải gắn lý luận với giải quyết các vấn đề của thực tiễn. Trên cơ sở giáo trỡnh quốc gia, cỏc trường biên soạn giáo trỡnh phự hợp với trường mỡnh.
Về phương pháp, cần sinh động hoá môn học với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật. Giảng viên phải có khả năng truyền tải thông tin, khả năng sư phạm phù hợp với đối tượng.
Hiện nay, đổi mới phương pháp giảng dạy, "lấy người học làm trung tâm” đang phát triển mạnh mẽ, nó cũng là một yếu tố khách quan, phù hợp với xu thế của thời đại, đặc biệt là một yêu cầu cấp bách của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay [20, tr.7]. Trong bài "Một số phương hướng cải tiến phương pháp giảng dạy ở Đại học" đăng trên Tạp chí phát triển giáo dục (số 3/2003), Bùi Ngọc Oánh có đề xuất đổi mới phương pháp giảng dạy theo năm phương hướng: Thuyết trỡnh kết hợp với vấn đáp, trực quan, nêu vấn đề; yêu cầu và tổ chức kiểm tra việc sinh viên đọc sách, sưu tầm và nghiên cứu tài liệu; cải tiến và sử dụng tốt phương pháp báo cáo thảo luận (xemina); tăng cường việc yêu cầu sinh viên làm các bài tập nghiên cứu, viết tiểu luận; nghiên cứu vận dụng những phương pháp dạy học mới một cách thích hợp [44, tr.17].
Ngày 13/12/1999, Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đó ký quyết định số 42/QĐ- BGD&ĐT về việc tổ chức cuộc thi Olympic các môn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh hai năm một lần, dành cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng. Đây là một cách làm mới để đưa các môn này thấm nhuần vào sinh viên dưới hỡnh thức thi, sõn khấu hoỏ sinh động và hấp dẫn, góp phần giải toả quan niệm thường gặp trong sinh viên
khi cho rằng các môn này là "khô khan, khó học". Các cuộc thi đó diễn ra hai năm một lần. Sinh viên Đại học Thái nguyên đó tham gia, đạt kết quả tốt.
Bên cạnh đó, có thể áp dụng các hỡnh thức giảng dạy trực quan như tham quan bảo tàng, di tích lịch sử cỏch mạng, tổ chức cỏc cuộc thi tỡm hiểu lịch sử.
Công cụ hỗ trợ hiện đại cho đổi mới phương pháp là công nghệ thông tin. Giáo viên có thể sử dụng giáo án điện tử, soạn bài trên máy tính, sơ đồ hoá bài học, chỉ điểm nội dung, tóm tắt kiến thức. Sinh viên được yêu cầu tự học dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Việc học trên lớp sẽ là học kiến thức, đồng thời là học phương pháp tự học, học cách phát hiện vấn đề và đưa ra các phương giải quyết án tối ưu, từ đó hỡnh thành phương pháp, kỹ năng sáng tạo giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Cần quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Giảng viên là chủ thể, là yếu tố cơ bản quyết định chất lượng và hiệu quả giảng dạy. Các trường thành viên của Đại học Thái Nguyên cần có kế hoạch tuyển dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho các giảng viên đi thực tế hàng năm, học tập nâng cao trỡnh độ. Tăng cường bồi dưỡng về ngoại ngữ, tin học để họ có thể sừ dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong giảng dạy. Cần tăng cường các tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh đạt kết quả cao.
2.3.2.4. Xõy dựng mụi trường xó hội lành mạnh, nhà trường nhõn văn , gia đỡnh văn hoỏ
Môi trường xó hội lành mạnh, nhà trường nhân văn, gia đỡnh văn hoá là cơ sở, là nền tảng trên đó hỡnh thành niềm tin, tỡnh cảm, hành vi đạo đức tốt đẹp của sinh viên, cũng là nơi sinh viên thể hiện các hành vi đạo đức của mỡnh, thể hiện phẩm chất, nhõn cỏch con người.
Môi trường xó hội lành mạnh đảm bảo sự phát triển hài hoà giữa kinh tế, chính trị, văn hoá - xó hội, đạo đức hướng đến mục tiêu vỡ hạnh phỳc của mỗi cỏ nhân của cả cộng đồng.
Để xây dựng môi trường xó hội lành mạnh, từ gúc độ quốc gia, một mặt Đảng ta chủ trương thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa nhằm phỏt triển kinh tế xõy dựng xó hội giàu mạnh, đồng thời thực hiện công bằng xó hội trong từng
bước phát triển, thực hiện dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa, tiến tới xó hội văn minh. Trong quỏ trỡnh đó, Đảng ta chú trọng kiện toàn cơ chế thị trường thông qua việc hoàn thiện hệ thống luật pháp phù hợp với sự vận hành lành mạnh của thị trường, hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, lành mạnh hoá các quan hệ xó hội; thực hiện xõy dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa. Việc xõy dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa khụng chỉ là đũi hỏi tất yếu của nền kinh tế thị trường mà cũn là yờu cầu trong xõy dựng cỏc chuẩn mực đạo đức mới, đảm bảo tạo việc làm, thu nhập chính đáng và cơ hội phát triển cho mọi người, trong đó có sinh viên. Tác động tiêu cực về kinh tế - xó hội từ mặt trỏi của kinh tế thị trường đó ảnh hưởng tiêu cực tới quan niệm, hành vi đạo đức ở sinh viên. Việc lành mạnh hoá môi trường xó hội, cụng bằng, dõn chủ, cú kỷ cương pháp luật, tạo dư luận xó hội phờ phỏn những biểu hiện đạo đức sai lệch sẽ có tác dụng củng cố niềm tin, ý chí phấn đấu trong sinh viên.
Nhà trường, học đường, ký tỳc xỏ, nhà trọ cũng chớnh là mụi trường xó hội thu nhỏ của sinh viên, là môi trường đặc biệt của sinh viên.
Nhà trường là nơi đào tạo không những về kiến thức, mà cũn giỏo dục đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên cho nên nhà trường cần giữ kỷ cương, nề nếp học đường, tạo môi trường lý tưởng cho học sinh, sinh viên hỡnh thành và phỏt triển nhân cách. Nhà trường nhân văn phải đảm bảo tính kỷ cương, kỷ luật học đường, dạy và học đạt chất lượng cao, quan hệ thầy trũ trong sỏng trờn cơ sở tinh thần tôn sư, trọng đạo, hiếu học, dân chủ. Mỗi giáo viên phải là những tấm gương sáng đầy thuyết phục để sinh viên học theo.
Học đường là nơi trực tiếp diễn ra các hoạt động giáo dục, rèn luyện của sinh viên. Cần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, bỡnh đẳng giữa thầy và trũ, giữa sinh viờn với cỏn bộ nhõn viờn trong trường trên cơ sở tôn sư, trọng đạo, phự hợp với tỡnh hỡnh mới. Mối quan hệ này đến lượt mỡnh lại tạo điều kiện cho quá trỡnh giảng dạy, học tập đạt hiệu quả cao. Sự bỡnh đẳng trên nguyên tắc vừa đảm bảo được đạo lý thầy trũ truyền thống, vừa tạo điều kiện dân chủ để phát huy tính sáng tạo, sự độc lập, có chủ kiến trong học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Hiện nay, môi trường học đường ít nhiều đó bị cỏc tiờu cực của mặt trỏi nền kinh tế thị trường xâm nhập, làm tha hoá một bộ phận cán bộ, giảng viên, sinh viên. Các hiện tượng tiêu cực như: lười học, thiếu ý thức trờn giảng đường, tiếp thu thụ động, gian dối trong học tập và thi cử, mua điểm, bán bằng.... đang trở thành vấn nạn. Phải "tăng cường trật tự, kỷ cương, xây dựng, củng cố nền nếp, thực hiện trường ra trường, lớp ra lớp, thầy ra thầy, trũ ra trũ, dạy ra dạy, học ra học. Phấn đấu để mọi hoạt động của nhà trường đều có tác dụng giáo dục thiết thực và sâu sắc đối với học sinh, sinh viên" [21, tr.13]. Một mặt nêu cao tinh thần trung thực, tự trọng của sinh viên, mặt khác cần có quy chế quản lý chặt chẽ, xử lý nghiờm khắc những trường hợp vi phạm đối với cả giáo viên và sinh viên. Cải tiến công tác thi cử, áp dụng phương pháp thi trắc nghiệm và làm bài tự luận ra đề thi theo hướng gắn lý thuyết với thực hành, gắn với hiểu biết và kinh nghiệm cá nhân của sinh viên để hạn chế tỡnh trạng sao chộp bài thi, bài luận.
Để sinh viên nhận thức được tính thiết thực của việc học tập sẽ tự giác điều chỉnh hành vi, không vi phạm quy chế học tập thi cử, nhà trường cần cần có chương trỡnh đào tạo thiết thực, chú ý đào tạo theo mục tiờu sử dụng phự hợp, khắc phục tỡnh trạng thiờn về trọng khoa cử, bằng cấp, khụng coi trọng hiệu quả thực tế. Trờn thực tế, nhiều sinh viờn học giỏi, nhưng ra trường làm việc không hiệu quả bởi chương trỡnh đào tạo nặng về lý thuyết, xa rời thực tế. Chớnh vỡ vậy, nhà trường cần kết hợp tạo điều kiện cho sinh viên tham gia phát triển kinh tế để sinh viên thử nghiệm kiến thức và bản lĩnh trong thực tế, kết hợp lý thuyết với thực hành, phỏt huy tớnh năng động, sáng tạo, tích luỹ kinh nghiệm, vun đắp tinh thần yêu lao động và trực tiếp đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xó hội của đất nước. Việc làm này vừa góp phần đào tạo sinh viên, vừa tạo nên sự gắn bó của các em với tập thể, với nhà trường hơn nữa.
Các chính sách ưu đói cũng cần thiết thực, phù hợp từng đối tượng (con em gia đỡnh chớnh sỏch, thương binh liệt sĩ, vùng sâu, vùng xa, miền núi, nhà nghèo). Chính sách thiên về ưu tiên cộng điểm, cắt xén chương trỡnh là việc làm khụng khoa học với học đường, nó dẫn đến chất lượng đào tạo thấp, bằng cấp không đúng thực chất. Sự ưu đói nờn thực hiện qua việc miễn giảm học phớ, tăng học bổng, trợ cấp, tạo điều kiện về tài liệu học tập, sách vở, thông tin, sinh hoạt, đi lại...
Cần mở rộng cụng tỏc tuyờn truyền, phũng chống các tệ nạn xó hội thâm nhập vào môi trường sinh viên, đấu tranh phũng chống vi phạm phỏp luật và các tệ nạn xó hội trong sinh viờn.
Hiện tại nhiều sinh viên đang gặp nhiều khó khăn về nhà ở do ký túc xá không đủ. Việc một số sinh viên phải thuê nhà ở ngoài có thể dễ bị nhiễm thói hư, tật xấu. Vỡ thế việc xõy dựng ký tỳc xỏ và nhà trọ sinh viờn văn hoá đang đặt ra rất cấp thiết.
Việc tổ chức có chất lượng, và phù hợp các hoạt động văn hoá, văn nghệ thể thao, cung cấp cho sinh viên trong ký túc xá những món ăn tinh thần lành mạnh sẽ góp phần xây dựng năng lực thẩm mỹ, tăng cường thể lực, hỡnh thành lối sống lành mạnh trong sinh viờn. Tại ký tỳc xỏ Khoa Cụng nghệ thụng tin đang tồn tại mô hỡnh đài phát thanh sinh viên ký tỳc xỏ, cú nội dung hướng dẫn sinh viên học tập, tạo môi trường giao lưu, phục vụ nhu cầu cập nhật thông tin, thời sự trong và ngoài nước, thưởng thức các bài hát hay, các áng thơ, văn đẹp của sinh viên. Trong những năm gần đây, các hội thi tiếng hát sinh viên, giải bóng đá sinh viên được tổ chức thường xuyên đó tạo ra những sõn chơi lành mạnh. Từ đó, ngăn chặn các hủ tục lạc hậu, mê tín, văn hoá đồi truỵ, kích động, bạo lực xâm nhập vào môi trường sinh viên.
Phỏt huy tớnh tớch cực xó hội của sinh viờn thụng qua việc thành lập đội sinh viên xung kích giữ gỡn an ninh trật tự trong trường, trong ký tỳc xỏ và ngoài xó hội. Phỏt triển về quy mụ, loại hỡnh cỏc phong trào sinh viờn tỡnh nguyện vỡ cộng đồng (tỡnh nguyện tại chỗ, tỡnh nguyện quanh năm) góp phần phát triển kinh tế, giữ gỡn trật tự an toàn giao thụng, vệ sinh môi trường, xây dựng nền quốc phũng toàn dõn bảo vệ Tổ quốc. Cú biện phỏp phũng ngừa và xử lý kịp thời cỏc hành vi của cỏc thế lực thự địch tuyên truyền, lừa bịp kích động lôi kéo sinh viên làm trái pháp lụât, gây mất ổn định chính trị, an ninh xó hội.
Xây dựng tinh thần tương thân, tương ái, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trong trong học tập, trong sinh hoạt ở ký tỳc xỏ. Tỡnh cảm đạo đức là nền tảng cho việc thực hiện các hành vi đạo đức trong thực tiễn.
Xây dựng môi trường gia đỡnh văn hoá, từ góc độ quốc gia, Đảng ta chủ trương phát động phong trào xây dựng gia đỡnh văn hoá với mối quan hệ tỡnh cảm tốt đẹp, có
trật tự đạo đức trên dưới giữa các thành viên trong gia đỡnh, cú gia phong và thuần phong mỹ tục của dõn tộc.
Gia đỡnh là tế bào của xó hội, là môi trường đầu tiên, môi trường quan trọng, trong đó mỗi cá nhân gắn bó, trưởng thành. Tổ ấm gia đỡnh cú tỏc dụng nuụi dưỡng tâm hồn con người, hỡnh thành nhõn cỏch và định hướng quan niệm đạo đức, hành vi đạo đức.
Trong xó hội hiện đại, mỗi cá nhân tích cực tham gia vào đời sống xó hội để tự khẳng định mỡnh. Với sinh viờn đó là các hoạt động học tập, làm thêm và tham gia vào một số lĩnh vực khác. Trong quá trỡnh hoạt động này, sự tự ý thức cá nhân được nâng cao, vai trũ của cỏ nhõn được khẳng định bên cạnh mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đỡnh dựa trờn cơ sở tỡnh thương huyết thống thiêng liêng, nghĩa vụ, bổn phận, sự quan tâm đến nhau. Vào đại học, đa phần sinh viên sống xa gia đỡnh. Đạo đức sinh viên là sự tiếp nối của đạo đức đó được hỡnh thành từ trong gia đỡnh. Sự xa cỏch về địa lý cũng không hoàn toàn cắt đứt mọi ảnh hưởng của gia đỡnh với mỗi cỏ nhõn sinh viờn. Sống xa nhà, nhưng họ lại tiếp tục gia nhập vào một dạng "gia đỡnh mới" - tập thể. Đặc biệt với những sinh viên học gần nhà, vẫn sống cùng gia đinh thỡ quan hệ gia đỡnh vẫn tiếp tục được duy trỡ.
Một tỡnh trạng đang diễn ra trong việc giáo dục đạo đức ở gia đỡnh hiện nay là thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm, hay phú mặc việc giỏo dục cho nhà trường. Một số gia đỡnh bố mẹ làm ăn phi pháp, đạo đức suy giảm... khụng cũn là tấm gương cho con cái.
Thanh niên sinh viên hôm nay, từ nhỏ đó được làm quen với khoa học công nghệ hiện đại, với những thiết bị được số hoá, vỡ thế lối sống thay đổi, khác nhiều so với thế hệ trước. Hơn nữa bối cảnh giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, sức ép cạnh tranh ngày càng cao, buộc họ phải có những thay đổi thích ứng và vươn lên trong môi trường mới. Trong quá trỡnh đó có thể xuất hiện những biểu hiện lệch lạc về lối sống, suy thoái về đạo đức ở một bộ phận thanh niờn sinh viờn, gõy tõm lý lo ngại ở cỏc bậc cha mẹ. Do đó, cần thiêt tạo dựng mối quan hệ gắn bó trong gia đỡnh. ễng bà, cha mẹ phải trở thành người bạn lớn tuổi của con cháu, sống mẫu mực, kịp thời uốn nắn những biểu hiện lệch lạc của các em; xây dựng mối quan hệ bỡnh đẳng phù hợp với
những biến đổi của gia đỡnh trong thời kỳ mới để các thành viên phát huy được năng lực của bản thân. Điều đó đặt nền tảng vững chắc cho sự hỡnh thành nhõn cỏch của cỏc em, đồng thời là điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận những tri thức khoa học, tri thức văn hoá - xó hội, phỏt huy và giữ gỡn những giỏ trị đạo đức truyền thống trong quá trỡnh xõy dựng đạo đức mới của sinh viên.
KẾT LUẬN
Là một bộ phận của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên được hỡnh thành trong quỏ trỡnh dựng nước và giữ nước của dân tộc, nó được các thế hệ thanh niên Việt Nam kế tiếp nhau giữ gỡn và phỏt huy vỡ vậy chỳng trở nờn trường tồn cùng lịch sử. Ngày nay trước những đổi thay của đất nước, giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên vẫn tiếp tục được khẳng định vị trí là cơ sở, nền tảng trong việc xây dựng nền đạo đức mới, cuộc sống mới cho thanh niên Việt Nam nói chung, sinh viên Việt Nam nói riêng.
Từ khi Đảng chủ trương đổi mới, nước ta đi vào xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Hoàn cảnh mới này đó dẫn đến sự biến đổi to lớn của những giá trị đạo đức xó hội theo hai chiều hướng cả tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là cỏc hiện tượng phản giá trị, đi ngược với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là ở sinh viên - lực lượng có vai trũ vụ cựng to lớn trong hiện tại cũng như đối với tương lai của đất nước.
Thực tế ấy đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên, nhằm xây dựng một lực lượng trẻ, khoẻ, yêu nước, hăng say, nhiệt tỡnh, sỏng tạo, biết yờu quý và cú ý thức giữ gỡn truyền thống tốt đẹp của thanh niên Việt Nam. Vỡ thế, việc xây dựng đạo đức cho sinh viên trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc nói chung, trị đạo đức truyền thống của thanh niên nói riêng và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại có một tầm quan trọng đặc biệt đối với tương lai đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Cũng như sinh viên cả nước, sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay đang tiếp tục giữ gỡn và phỏt huy cỏc giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong quá trỡnh xõy dựng đạo đức mới. Bên cạnh đó, do tác động của nhiều yếu tố khách quan và sự chi phối của những nhân tố chủ quan, vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên vẫn cũn nhiều hạn chế. Vỡ vậy, để phát huy hơn nữa các giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay nói chung, sinh viên Đại học Thái Nguyên nói riêng, chúng tui đề xuất những giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, tăng cường sự lónh đạo của các cấp uỷ đảng, Ban giám đốc, Ban giám hiệu và các đoàn thể, các phũng ban đối với việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên.
Hai là, tổ chức các phong trào hành động cách mạng, kích thích tính sáng tạo, tính chủ động để sinh viên có thể tự lực giải quyết những vấn đề của chính mỡnh.
Ba là, tăng cường đổi mới công tác giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bốn là, xây dựng môi trường xó hội lành mạnh, nhà trường nhân văn, gia đỡnh văn hoá.
Những giải pháp nêu trên cần được triển khai một cách đồng bộ, có hiệu quả nhằm phát huy tốt nhất các giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay nói chung, sinh viên Đại học Thái Nguyên nói riêng.
MỤC LỤC
Trang MỞ ĐẦU 1
Chương 1: GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH 7
Bậc học
Tổng số
Hỡnh thức kỷ luật
Nội dung vi phạm
Nội trú
Ngoại trú
Khiển trách
Cảnh cáo
Đỡnh chỉ
Buộc thôi học
Học tập
Sinh hoạt, đạo đức
Liên quan đến tệ nạn xó hội
Vi phạm khác
NIÊN ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO
SINH VIÊN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
1.1. Giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên Việt Nam - Một số vấn
đề lý luận 7
1.2. Vai trũ của giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay 31
1.3. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay là
yêu cầu khách quan 47
Chương 2: PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
CỦA THANH NIÊN TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO
ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 62
2.1. Thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong
việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện
nay 62
2.2. Nguyên nhân của những thành công và hạn chế của việc phát huy giá
trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức 86
mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay
2.3. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo
đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới
cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay 92
KẾT LUẬN 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115 PHỤ LỤC 119
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: