LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI
NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1. Khái niệm
a) Định nghĩa
- Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng - giá các loại hàng hóa như lương thực, xăng dầu, xe ôtô tăng; tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng... giảm lạm phát có nghĩa là giá cả và chi phí nói chung hạ xuống.
- Lạm phát được thể hiện trong chỉ số giá cả. Chỉ số được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI, tức là chỉ số giá cả trung bình của một lô hàng tiêu dùng và dịch vụ chính (như thành phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vận tải và y tế) được tính trên cơ sở giá cả thị trường tại thời điểm xem xét so với giá cả của những thứ đó ở một thời điểm gốc để biết mức giá tăng là bao nhiêu.
Ngoài ra, lạm phát còn có thể được đo lường bằng hai chỉ số khác:
+ Chỉ số giá cả sản xuất (PPI) là chỉ số giá bán buôn.
+ Chỉ số giảm phát GNP là chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP, chỉ số này được xác định bằng tỷ lệ của GWP danh nghĩa và GNP thực tế.
b) Cách xác định tỷ lệ lạm phát
gp = [ip/ip-1] . 100
Trong đó: gp là tỷ lệ lạm phát (%)
Ip là chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu.
Ip -1 là chỉ số giá cả thời kỳ trước đó.
c) Mức lạm phát: Tùy theo mức lạm phát người ta chia lạm phát thành 3 loại:
+ Lạm phát vừa phải là tình trạng giá cả tăng chậm, thường là một con số (dưới 10%/năm). Trong điều kiện lạm phát vừa phải và ổn định, giá cả tương đối không khác mức bình thường nhiều.
+ Lạm phát phi mã là tình trạng giá cả hàng hóa tăng 2 hay 3 con số trong một năm.
+ Siêu lạm phát là lạm phát tăng đột biến với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã 3 con số trở lên tình trạng tiền giấy đưa vào lưu thông quá nhiều, giá cả tăng lên gấp nhiều lần mỗi tháng, siêu lạm phát gây thiệt hại, nghiêm trọng cho nền kinh tế.
2. Nguồn gốc của lạm phát
a) Lạm phát do cầu kéo
Tổng mức cầu vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh tế trong điều kiện có đầy đủ công ăn việc làm, nhưng người ta phải chi tiêu quá nhiều tiền để lấy một lượng cung hạn chế về hàng hóa, làm tăng giá, dẫn tới lạm phát.
Khi nhu cầu tăng đột biến thì tổng cầu AD dịch chuyển từ AD0 lên AD1 làm cho giá cả hàng hóa tăng từ P0 lên P1 gây lạm phát. Nghĩa là lạm phát xảy ra khi quá nhiều chi tiêu săn đuổi quá ít hàng hóa.
b) Lạm phát do phí đẩy
Chi phí đẩy giá lên ngay cả trong những thời kỳ tài nguyên không được sử dụng hết gọi là lạm phát do phí đẩy.
Ví dụ như việc tăng giá dầu hay tăng lượng lớn xảy ra khi nền kinh tế đang suy thoái đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng giá hàng hóa, dẫn tới lạm phát.
Trên đồ thị, những sự tăng chi phí đẩy đường cong AS từ AS0 đến AS1, bởi vậy giá cả hàng hóa tăng từ P0 lên P1.
c) Lạm phát nhập khẩu: Do ngoại tệ đổ vào trong nước nhiều, ngân hàng nhà nước xuất nội tệ để mua ngoại tệ, nhằm bình ổn tỷ giá tiền tệ.
3. Tác động của lạm phát
Các cuộc lạm phát làm cho tốc độ tăng giá cả không đồng đều giữa các loại hàng, tốc độ tăng giá và tăng lương cũng xảy ra không đồng thời. Điều này dẫn đến sự thay đổi tương đối về giá cả, gây tác động tới đời sống xã hội và nền kinh tế như sau:
- Phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân, tập đoàn và các giai cấp tầng lớp trong xã hội, đặc biệt đối với các tài sản có lãi suất danh nghĩa cố định và những người làm công ăn lương.
- Cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền kinh tế bị biến dạng, đặc biệt khi lạm phát tăng nhanh cùng với sự thay đổi mạnh mẽ của giá cả tương đối. Có những doanh nghiệp, ngành có thể "phất lên, trái lại cũng có những doanh nghiệp và ngành nghề suy sụp, phải chuyển hướng kinh doanh.
Để thấy rõ tác động của lạm phát người ta chia lạm phát thành hai loại: Lạm phát thấy trước và lạm phát không thấy trước.
+ Lạm phát thấy trước còn gọi là lạm phát dự kiến. Mọi người đoán khá chính xác sự tăng giá tương đối đều đặn. Loại này ít gây tổn hại thực cho nền kinh tế, tuy nhiên vẫn gây rắc rối trong các quan hệ giao dịch.
+ Lạm phát không thấy trước còn gọi là lạm phát không dự kiến được. Do bị bất ngờ về tốc độ tăng giá nên loại lạm phát này tác động xấu đến nền kinh tế như làm phát sinh đầu tư sai lầm, phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên.
Ngoài ra lạm phát còn được đo bởi sự phản ứng mạnh mẽ của các tầng lớp dân cư (hậu quả tâm lý xã hội). Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường, kiểm soát lạm phát là một trong những mục tiêu chủ yếu của chính sách kinh tế vĩ mô.
4. Những biện pháp kiểm soát lạm phát
- Chính phủ cần điều tiết và kiềm chế lượng cầu đang gây sức ép làm xuất hiện và gia tăng lạm phát bằng những giải pháp tài chính tiền tệ theo hướng thắt chặt, giảm phát hành tiền thu hẹp tín dụng nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất phát hành công trái và khuyến khích gửi tiền tiết kiệm; thu ngân sách giảm chi tiêu Chính phủ nhất là chi tiêu phi sản xuất và điều chỉnh quy mô, tốc độ đầu tư xây dựng cơ bản theo hướng thu hẹp và chậm hơn... tăng thu hồi nợ chống thất thoát lãng phí chi ngân sách...
- Để thúc đẩy tổng cung, giảm thiếu hụt khan hiếm và đáp ứng với sự tăng trưởng tổng cầu bằng cách như phát triển sản xuất hàng hóa, gia tăng dịch vụ bằng việc khai thác động viên những nguồn lực tiềm năng trong nước đến việc bổ sung bằng nguồn hàng và dịch vụ nhập khẩu bên ngoài.
- Cần đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý và tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ cung ứng.
- Kiểm soát giá cả, tỷ giá và tiền lương hay hướng dẫn tự nguyện.
- Dựa vào kỹ thuật của thị trường cạnh tranh để hạn chế việc tăng giá cả và tiền lương.
- Sử dụng chính sách thu nhập dựa trên thuế như trợ cấp cho những người mà tiền lương hay giá cả tăng chậm, đánh thuế vào những người làm tăng lạm phát.
- Dùng "chỉ số hóa" và những kỹ thuật thích ứng. "Chỉ số hóa" là một cơ chế, theo đó, người ta miễn dịch một phần hay hoàn toàn thay đổi trong mức giá nói chung.
- Sửa chữa, bổ khuyết các thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả như can thiệp hạn chế độc quyền, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh làm biến dạng cung cầu, giảm tính hiệu quả của kinh tế.
- Đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát những thăng trầm của chu kỳ kinh doanh. Chính phủ sử dụng quyền lực về tài chính, tiền tệ để tác động đến sản lượng, công ăn, việc làm và giá cả, giữ ổn định và thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển cả trong phạm vi quốc gia và thế giới.
II. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Lạm phát ở Việt Nam
Lạm phát ở Việt Nam có mầm mống từ trong những năm kháng chiến, nhưng cho đến sau kháng chiến thống nhất đất nước, lạm phát mới thể hiện rõ nét. Lạm phát phi mã ở nước ta trong những năm 1986 là 557,355 và cho đến năm 1990 rút xuống còn 67,4%. Theo nguồn tin từ tổng cục thống kê cho biết tỷ lệ lạm phát trong các năm từ 1987 đến 1997 như sau:
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
774,7
393,8
34,7
76,1
67,5
17,5
5,2
14,4
12,7
4,5
3,6
Nguyên nhân chủ yếu do chính sách sử dụng ngân sách của Chính phủ, do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nhà nước là chủ thể kinh tế thiên việc bao cấp cho các ngành sản xuất và do nhu cầu đảm bảo sự hoạt động bình thường của kinh tế trong thời kỳ suy thoái ngân sách nhà nước bị thâm hụt nặng nề, thu không đủ chi bắt buộc phải phát hành tiền để *****************
Tỷ lệ lạm phát cao như vậy đã gây hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế. Trước hết nó ảnh hưởng đến hệ thống tiền tệ tín dụng ngân hàng. Đồng tiền Việt Nam trong thời kỳ 1985 - 1991 mất giá liên tục, sức mua giảm liên tục qua các năm, giá cả đẩy lên hàng ngày, kéo theo nó là nạn đầu cơ hàng hóa. Hàng hóa nhập khẩu lúc này có ưu thế hơn nên ồ ạt tràn vào trong nước dưới nhiều hình thức gây tình trạng thua lỗ đình đốn sản xuất trong nước, ngân sách nhà nước thâm hụt nặng do thu không đủ chi nhất là thuế. Đời sống của người dân, đặc biệt là những người làm công ăn lương trở nên bấp bênh và tụt xuống nhiều, trong xã hội nảy sinh tình trạng thất nghiệp do nhiều nhà máy làm ăn thua lỗ ngừng hoạt động. Thực trạng kinh tế xã hội lúc đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải đề ra chính sách, biện pháp chống lạm phát. Nhờ có những chính sách đổi mới trong chính sách vĩ mô và hệ thống ngân hàng nên mức lạm phát phi mã đã dần dần bị đẩy lùi đến năm 1993 lạm phát chỉ còn 5,2%. Bên cạnh những thành quả bước đầu như vậy nhưng nguy cơ lạm phát vẫn luôn là bạn đồng hành của cơ chế thị trường do đó đòi hỏi cần rút kinh nghiệm từ chống lạm phát trước đây, chấn chỉnh hệ thống công cụ vĩ mô và đặc biệt là vai trò quản lý của Nhà nước và ngân hàng Trung ương để tiếp tục duy trì những thành quả đạt được và chống lạm phát gia tăng có hiệu quả.
2. Lạm phát ở Việt Nam hiện nay
Tám tháng đầu năm 2004, chỉ số giá của nước ta tăng 8,3% so với cuối năm 2003, chỉ số này vượt quá mức chỉ tiêu quốc hội cho phép (chỉ tiêu CPI Quốc hội dự kiến cho cả năm 2004 là 5%) và là mức tăng giá cao nhất trong vòng 8 năm trở lại đây. Như vậy nền kinh tế đang bị lạm phát.
Mức tăng giá lần này không thể xem thường bởi sự tăng giá với tốc độ cao có ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất, đến sức cạnh tranh, hiệu quả nền kinh tế, thu chi ngân sách và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân.
1) Nguyên nhân lạm phát hiện nay ở Việt Nam: Nguyên nhân lạm phát hiện nay ở nước ta là "lạm phát do chi phí đẩy".
Nhiều vật tư nhập khẩu dùng cho doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ tăng giá như: phôi thép hạt nhựa, hóa chất, sản xuất tân dược, xăng dầu, khí đốt hóa lỏng, phân bón hóa học, clinker, phụ hiệu ngành dệt may, giá tính bằng USD tăng và tính bằng VNĐ lại càng tăng. Lạm phát chi phí đẩy chưa từng xảy ra ở nước ta. Chi phí sản xuất tăng đối với doanh nghiệp và kinh tế hộ, bắt nguồn từ nước ngoài đội và nước ta. Biểu hiện của "Lạm phát chi phí đẩy" là sức sản xuất của doanh nghiệp không giảm, hàng hóa không thiếu, chỉ có giá cả hàng hóa tăng lên, trong khi thu nhập của nhân dân tăng không kịp hay chưa tăng so với giá cả hàng hóa. Theo một số nhà kinh tế, nguyên nhân của "Lạm phát chi phí đẩy khác với nguyên nhân lạm phát cầu kéo hay nhập khẩu lạm phát. Đối với lạm phát cầu kéo và nhập khẩu lạm phát, việc thu hồi một khối lượng nội tệ từ lưu thông về tài khoản tiền đã phát hành của ngân hàng nhà nước là đúng nguyên lý, chính vì vậy từ tháng 7-2004 khi ngân hàng nhà nước thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ điều hành bằng hai công cụ của chính sách tiền tệ là tăng tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại ngân hàng nhà nước đã tạo ra mâu thuẫn trong một tổ chức tín dụng: vừa hạn chế dư nợ cho vay và vừa phải mở rộng khối lượng dư nợ cho vay, sau khi gửi tiền dự trữ bắt buộc vào ngân hàng nhà nước và tình hình nền kinh tế vẫn trì trệ, lạm phát vẫn gia tăng.
Lạm phát chi phí đẩy, thể hiện sức mua của dân chúng bất cập so với giá cả hàng hóa tăng lên hay còn gọi là lạm phát trì trệ hàng hóa không thiếu, chậm tiêu thụ và nhân dân phải chi dùng cho cuộc sống hàng ngày nhiều tiền hơn. Theo nhận định của một số cơ quan chức năng, tháng 9-2004 chỉ số giá hàng tiêu dùng vẫn tiếp tục tăng.
2) Biện pháp để khắc phục lạm phát hiện nay ở Việt Nam
b) Về phía các tổ chức tín dụng
- Các TCTD không tăng lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Trong cuộc họp tháng 7-2004 vừa qua dưới sự chủ trì của Hiệp hội ngân hàng Việt Nam khối Ngân hàng đã thỏa thuận cam kết thống nhất với nhau không tăng lãi suất huy động.
- Các ngân hàng thương mại cần kiểm soát chặt chẽ các khoản cho vay ra. Đối với hệ thống NHNoPTNT Việt Nam, nơi có mạng lưới rộng nhất trong toàn quốc, chỉ cho phép tăng dư nợ trên cơ sở huy động được vốn tại chỗ. NHCT Việt Nam và NHNT Việt Nam chỉ cho phép các CN tăng dư nợ trên cơ sở chất lượng TD và CN và năng lực điều hành của giám đốc. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam chỉ đạo điều chỉnh cơ cấu tín dụng, hạn chế cho vay các DNNN hoạt động kém hiệu quả, hay tình hình tài chính yếu kém, chuyển mạnh sang vay doanh nghiệp vừa và nhỏ. NHNN chỉ đạo NHTM chỉ được tăng trưởng dư nợ chung của toàn ngành trong cả năm không quá 25%, thấp hơn mức tăng của các năm trước do lo ngại tình hình lạm phát, do đó các NHTM cũng hạn chế cho vay ra, hạn chế nhu cầu tín dụng, kiềm chế sức ép tăng lãi suất.
- Các NHTM cần tập trung sức lực phối hợp và sự giúp đỡ các cấp, các ngành liên quan để giải tỏa vốn đọng trong các khối tài sản thế chấp, tài sản liên quan đến các vụ án, nợ tồn đọng từ đầu năm 2000 trở về trước để đưa vốn ra quay vòng, tăng cường về vốn cho nhà kinh tế.
c) Về phía các doanh nghiệp
- Phải tiết kiệm chi phí sản xuất, không đẩy giá hàng lên trong lúc chi phí đầu vào tăng.
- Sản xuất phải đi vào chất lượng và hiệu quả, việc vay vốn ngân hàng của các doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn nếu dự án thiếu tính thuyết phục đối với các ngân hàng.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1. Khái niệm
a) Định nghĩa
- Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng - giá các loại hàng hóa như lương thực, xăng dầu, xe ôtô tăng; tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng... giảm lạm phát có nghĩa là giá cả và chi phí nói chung hạ xuống.
- Lạm phát được thể hiện trong chỉ số giá cả. Chỉ số được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI, tức là chỉ số giá cả trung bình của một lô hàng tiêu dùng và dịch vụ chính (như thành phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vận tải và y tế) được tính trên cơ sở giá cả thị trường tại thời điểm xem xét so với giá cả của những thứ đó ở một thời điểm gốc để biết mức giá tăng là bao nhiêu.
Ngoài ra, lạm phát còn có thể được đo lường bằng hai chỉ số khác:
+ Chỉ số giá cả sản xuất (PPI) là chỉ số giá bán buôn.
+ Chỉ số giảm phát GNP là chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP, chỉ số này được xác định bằng tỷ lệ của GWP danh nghĩa và GNP thực tế.
b) Cách xác định tỷ lệ lạm phát
gp = [ip/ip-1] . 100
Trong đó: gp là tỷ lệ lạm phát (%)
Ip là chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu.
Ip -1 là chỉ số giá cả thời kỳ trước đó.
c) Mức lạm phát: Tùy theo mức lạm phát người ta chia lạm phát thành 3 loại:
+ Lạm phát vừa phải là tình trạng giá cả tăng chậm, thường là một con số (dưới 10%/năm). Trong điều kiện lạm phát vừa phải và ổn định, giá cả tương đối không khác mức bình thường nhiều.
+ Lạm phát phi mã là tình trạng giá cả hàng hóa tăng 2 hay 3 con số trong một năm.
+ Siêu lạm phát là lạm phát tăng đột biến với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã 3 con số trở lên tình trạng tiền giấy đưa vào lưu thông quá nhiều, giá cả tăng lên gấp nhiều lần mỗi tháng, siêu lạm phát gây thiệt hại, nghiêm trọng cho nền kinh tế.
2. Nguồn gốc của lạm phát
a) Lạm phát do cầu kéo
Tổng mức cầu vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh tế trong điều kiện có đầy đủ công ăn việc làm, nhưng người ta phải chi tiêu quá nhiều tiền để lấy một lượng cung hạn chế về hàng hóa, làm tăng giá, dẫn tới lạm phát.
Khi nhu cầu tăng đột biến thì tổng cầu AD dịch chuyển từ AD0 lên AD1 làm cho giá cả hàng hóa tăng từ P0 lên P1 gây lạm phát. Nghĩa là lạm phát xảy ra khi quá nhiều chi tiêu săn đuổi quá ít hàng hóa.
b) Lạm phát do phí đẩy
Chi phí đẩy giá lên ngay cả trong những thời kỳ tài nguyên không được sử dụng hết gọi là lạm phát do phí đẩy.
Ví dụ như việc tăng giá dầu hay tăng lượng lớn xảy ra khi nền kinh tế đang suy thoái đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng giá hàng hóa, dẫn tới lạm phát.
Trên đồ thị, những sự tăng chi phí đẩy đường cong AS từ AS0 đến AS1, bởi vậy giá cả hàng hóa tăng từ P0 lên P1.
c) Lạm phát nhập khẩu: Do ngoại tệ đổ vào trong nước nhiều, ngân hàng nhà nước xuất nội tệ để mua ngoại tệ, nhằm bình ổn tỷ giá tiền tệ.
3. Tác động của lạm phát
Các cuộc lạm phát làm cho tốc độ tăng giá cả không đồng đều giữa các loại hàng, tốc độ tăng giá và tăng lương cũng xảy ra không đồng thời. Điều này dẫn đến sự thay đổi tương đối về giá cả, gây tác động tới đời sống xã hội và nền kinh tế như sau:
- Phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân, tập đoàn và các giai cấp tầng lớp trong xã hội, đặc biệt đối với các tài sản có lãi suất danh nghĩa cố định và những người làm công ăn lương.
- Cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền kinh tế bị biến dạng, đặc biệt khi lạm phát tăng nhanh cùng với sự thay đổi mạnh mẽ của giá cả tương đối. Có những doanh nghiệp, ngành có thể "phất lên, trái lại cũng có những doanh nghiệp và ngành nghề suy sụp, phải chuyển hướng kinh doanh.
Để thấy rõ tác động của lạm phát người ta chia lạm phát thành hai loại: Lạm phát thấy trước và lạm phát không thấy trước.
+ Lạm phát thấy trước còn gọi là lạm phát dự kiến. Mọi người đoán khá chính xác sự tăng giá tương đối đều đặn. Loại này ít gây tổn hại thực cho nền kinh tế, tuy nhiên vẫn gây rắc rối trong các quan hệ giao dịch.
+ Lạm phát không thấy trước còn gọi là lạm phát không dự kiến được. Do bị bất ngờ về tốc độ tăng giá nên loại lạm phát này tác động xấu đến nền kinh tế như làm phát sinh đầu tư sai lầm, phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên.
Ngoài ra lạm phát còn được đo bởi sự phản ứng mạnh mẽ của các tầng lớp dân cư (hậu quả tâm lý xã hội). Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường, kiểm soát lạm phát là một trong những mục tiêu chủ yếu của chính sách kinh tế vĩ mô.
4. Những biện pháp kiểm soát lạm phát
- Chính phủ cần điều tiết và kiềm chế lượng cầu đang gây sức ép làm xuất hiện và gia tăng lạm phát bằng những giải pháp tài chính tiền tệ theo hướng thắt chặt, giảm phát hành tiền thu hẹp tín dụng nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất phát hành công trái và khuyến khích gửi tiền tiết kiệm; thu ngân sách giảm chi tiêu Chính phủ nhất là chi tiêu phi sản xuất và điều chỉnh quy mô, tốc độ đầu tư xây dựng cơ bản theo hướng thu hẹp và chậm hơn... tăng thu hồi nợ chống thất thoát lãng phí chi ngân sách...
- Để thúc đẩy tổng cung, giảm thiếu hụt khan hiếm và đáp ứng với sự tăng trưởng tổng cầu bằng cách như phát triển sản xuất hàng hóa, gia tăng dịch vụ bằng việc khai thác động viên những nguồn lực tiềm năng trong nước đến việc bổ sung bằng nguồn hàng và dịch vụ nhập khẩu bên ngoài.
- Cần đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý và tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ cung ứng.
- Kiểm soát giá cả, tỷ giá và tiền lương hay hướng dẫn tự nguyện.
- Dựa vào kỹ thuật của thị trường cạnh tranh để hạn chế việc tăng giá cả và tiền lương.
- Sử dụng chính sách thu nhập dựa trên thuế như trợ cấp cho những người mà tiền lương hay giá cả tăng chậm, đánh thuế vào những người làm tăng lạm phát.
- Dùng "chỉ số hóa" và những kỹ thuật thích ứng. "Chỉ số hóa" là một cơ chế, theo đó, người ta miễn dịch một phần hay hoàn toàn thay đổi trong mức giá nói chung.
- Sửa chữa, bổ khuyết các thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả như can thiệp hạn chế độc quyền, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh làm biến dạng cung cầu, giảm tính hiệu quả của kinh tế.
- Đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát những thăng trầm của chu kỳ kinh doanh. Chính phủ sử dụng quyền lực về tài chính, tiền tệ để tác động đến sản lượng, công ăn, việc làm và giá cả, giữ ổn định và thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển cả trong phạm vi quốc gia và thế giới.
II. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Lạm phát ở Việt Nam
Lạm phát ở Việt Nam có mầm mống từ trong những năm kháng chiến, nhưng cho đến sau kháng chiến thống nhất đất nước, lạm phát mới thể hiện rõ nét. Lạm phát phi mã ở nước ta trong những năm 1986 là 557,355 và cho đến năm 1990 rút xuống còn 67,4%. Theo nguồn tin từ tổng cục thống kê cho biết tỷ lệ lạm phát trong các năm từ 1987 đến 1997 như sau:
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
774,7
393,8
34,7
76,1
67,5
17,5
5,2
14,4
12,7
4,5
3,6
Nguyên nhân chủ yếu do chính sách sử dụng ngân sách của Chính phủ, do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nhà nước là chủ thể kinh tế thiên việc bao cấp cho các ngành sản xuất và do nhu cầu đảm bảo sự hoạt động bình thường của kinh tế trong thời kỳ suy thoái ngân sách nhà nước bị thâm hụt nặng nề, thu không đủ chi bắt buộc phải phát hành tiền để *****************
Tỷ lệ lạm phát cao như vậy đã gây hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế. Trước hết nó ảnh hưởng đến hệ thống tiền tệ tín dụng ngân hàng. Đồng tiền Việt Nam trong thời kỳ 1985 - 1991 mất giá liên tục, sức mua giảm liên tục qua các năm, giá cả đẩy lên hàng ngày, kéo theo nó là nạn đầu cơ hàng hóa. Hàng hóa nhập khẩu lúc này có ưu thế hơn nên ồ ạt tràn vào trong nước dưới nhiều hình thức gây tình trạng thua lỗ đình đốn sản xuất trong nước, ngân sách nhà nước thâm hụt nặng do thu không đủ chi nhất là thuế. Đời sống của người dân, đặc biệt là những người làm công ăn lương trở nên bấp bênh và tụt xuống nhiều, trong xã hội nảy sinh tình trạng thất nghiệp do nhiều nhà máy làm ăn thua lỗ ngừng hoạt động. Thực trạng kinh tế xã hội lúc đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải đề ra chính sách, biện pháp chống lạm phát. Nhờ có những chính sách đổi mới trong chính sách vĩ mô và hệ thống ngân hàng nên mức lạm phát phi mã đã dần dần bị đẩy lùi đến năm 1993 lạm phát chỉ còn 5,2%. Bên cạnh những thành quả bước đầu như vậy nhưng nguy cơ lạm phát vẫn luôn là bạn đồng hành của cơ chế thị trường do đó đòi hỏi cần rút kinh nghiệm từ chống lạm phát trước đây, chấn chỉnh hệ thống công cụ vĩ mô và đặc biệt là vai trò quản lý của Nhà nước và ngân hàng Trung ương để tiếp tục duy trì những thành quả đạt được và chống lạm phát gia tăng có hiệu quả.
2. Lạm phát ở Việt Nam hiện nay
Tám tháng đầu năm 2004, chỉ số giá của nước ta tăng 8,3% so với cuối năm 2003, chỉ số này vượt quá mức chỉ tiêu quốc hội cho phép (chỉ tiêu CPI Quốc hội dự kiến cho cả năm 2004 là 5%) và là mức tăng giá cao nhất trong vòng 8 năm trở lại đây. Như vậy nền kinh tế đang bị lạm phát.
Mức tăng giá lần này không thể xem thường bởi sự tăng giá với tốc độ cao có ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất, đến sức cạnh tranh, hiệu quả nền kinh tế, thu chi ngân sách và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân.
1) Nguyên nhân lạm phát hiện nay ở Việt Nam: Nguyên nhân lạm phát hiện nay ở nước ta là "lạm phát do chi phí đẩy".
Nhiều vật tư nhập khẩu dùng cho doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ tăng giá như: phôi thép hạt nhựa, hóa chất, sản xuất tân dược, xăng dầu, khí đốt hóa lỏng, phân bón hóa học, clinker, phụ hiệu ngành dệt may, giá tính bằng USD tăng và tính bằng VNĐ lại càng tăng. Lạm phát chi phí đẩy chưa từng xảy ra ở nước ta. Chi phí sản xuất tăng đối với doanh nghiệp và kinh tế hộ, bắt nguồn từ nước ngoài đội và nước ta. Biểu hiện của "Lạm phát chi phí đẩy" là sức sản xuất của doanh nghiệp không giảm, hàng hóa không thiếu, chỉ có giá cả hàng hóa tăng lên, trong khi thu nhập của nhân dân tăng không kịp hay chưa tăng so với giá cả hàng hóa. Theo một số nhà kinh tế, nguyên nhân của "Lạm phát chi phí đẩy khác với nguyên nhân lạm phát cầu kéo hay nhập khẩu lạm phát. Đối với lạm phát cầu kéo và nhập khẩu lạm phát, việc thu hồi một khối lượng nội tệ từ lưu thông về tài khoản tiền đã phát hành của ngân hàng nhà nước là đúng nguyên lý, chính vì vậy từ tháng 7-2004 khi ngân hàng nhà nước thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ điều hành bằng hai công cụ của chính sách tiền tệ là tăng tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại ngân hàng nhà nước đã tạo ra mâu thuẫn trong một tổ chức tín dụng: vừa hạn chế dư nợ cho vay và vừa phải mở rộng khối lượng dư nợ cho vay, sau khi gửi tiền dự trữ bắt buộc vào ngân hàng nhà nước và tình hình nền kinh tế vẫn trì trệ, lạm phát vẫn gia tăng.
Lạm phát chi phí đẩy, thể hiện sức mua của dân chúng bất cập so với giá cả hàng hóa tăng lên hay còn gọi là lạm phát trì trệ hàng hóa không thiếu, chậm tiêu thụ và nhân dân phải chi dùng cho cuộc sống hàng ngày nhiều tiền hơn. Theo nhận định của một số cơ quan chức năng, tháng 9-2004 chỉ số giá hàng tiêu dùng vẫn tiếp tục tăng.
2) Biện pháp để khắc phục lạm phát hiện nay ở Việt Nam
b) Về phía các tổ chức tín dụng
- Các TCTD không tăng lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Trong cuộc họp tháng 7-2004 vừa qua dưới sự chủ trì của Hiệp hội ngân hàng Việt Nam khối Ngân hàng đã thỏa thuận cam kết thống nhất với nhau không tăng lãi suất huy động.
- Các ngân hàng thương mại cần kiểm soát chặt chẽ các khoản cho vay ra. Đối với hệ thống NHNoPTNT Việt Nam, nơi có mạng lưới rộng nhất trong toàn quốc, chỉ cho phép tăng dư nợ trên cơ sở huy động được vốn tại chỗ. NHCT Việt Nam và NHNT Việt Nam chỉ cho phép các CN tăng dư nợ trên cơ sở chất lượng TD và CN và năng lực điều hành của giám đốc. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam chỉ đạo điều chỉnh cơ cấu tín dụng, hạn chế cho vay các DNNN hoạt động kém hiệu quả, hay tình hình tài chính yếu kém, chuyển mạnh sang vay doanh nghiệp vừa và nhỏ. NHNN chỉ đạo NHTM chỉ được tăng trưởng dư nợ chung của toàn ngành trong cả năm không quá 25%, thấp hơn mức tăng của các năm trước do lo ngại tình hình lạm phát, do đó các NHTM cũng hạn chế cho vay ra, hạn chế nhu cầu tín dụng, kiềm chế sức ép tăng lãi suất.
- Các NHTM cần tập trung sức lực phối hợp và sự giúp đỡ các cấp, các ngành liên quan để giải tỏa vốn đọng trong các khối tài sản thế chấp, tài sản liên quan đến các vụ án, nợ tồn đọng từ đầu năm 2000 trở về trước để đưa vốn ra quay vòng, tăng cường về vốn cho nhà kinh tế.
c) Về phía các doanh nghiệp
- Phải tiết kiệm chi phí sản xuất, không đẩy giá hàng lên trong lúc chi phí đầu vào tăng.
- Sản xuất phải đi vào chất lượng và hiệu quả, việc vay vốn ngân hàng của các doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn nếu dự án thiếu tính thuyết phục đối với các ngân hàng.

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: