Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Giải pháp là phát triển y tế cơ sở, củng cố, mở rộng, nâng cấp các trạm y tế xã. Muốn thế, phải có vốn đầu tư lớn và chính sách thoả đáng cho cán bộ y tế. Hiện nay, hàng nghìn bác sĩ ra trường không có việc làm nhưng không ai muốn trở về nông thôn phục vụ. Do đó, cơ chế chính sách là giải pháp cơ bản. Cùng với giáo dục, y tế cũng phải được xã hội hoá mới có điều kiện phát triển. Tuy nhiên, kinh phí nhà nước cho y tế trong giai đoạn trước mắt vẫn là yếu tố quyết định.
8. Phát huy hơn nữa vai trò của nhà nước trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta
Kinh nghiệm các nước Đông á cho thấy, khu vực nông thôn có vai trò to lớn và nó biến đổi mạnh mẽ nhờ các biện pháp tăng thu nhập ở nông thôn (giảm đói cùng kiệt và cải thiện phúc lợi xã hội, thể hiện rất rõ ở Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, Trung Quốc). Quá trình biến đổi nông thôn liên quan đến một loạt yếu tố như tăng năng suất lao động nông nghiệp, đẩy mạnh các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn và phát triển cơ sở hạ tầng, đưa thanh niên nông thôn đến những nơi có cơ hội làm việc, cải thiện y tế, xây dựng trường học và cung cấp nước sạch. Động lực để biến đổi nông thôn là sự thích ứng của các hộ gia đình với những cơ hội đang thay đổi. Tuy nhiên, việc nhà nước cung cấp các dịch vụ cơ bản ở nông thôn cũng có vai trò thiết yếu, nhất là trong giai đoạn đầu.
Một trong những vai trò dễ thấy nhất của nhà nước là cung cấp các dịch vụ nông thôn cơ bản như giáo dục tiểu học, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và cứu trợ xã hội. Những dịch vụ này, khi đến được những người có nhu cầu, sẽ làm tăng lợi ích cho xã hội. Hơn nữa, các hộ gia đình nhiều khi không thể tự bảo vệ trước những rủi ro như thiên tai, ốm đau nặng. Vì vậy, nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra một mạng lưới bảo hiểm để bảo vệ các hộ gia đình trước những rủi ro, giữ cho họ không lâm vào tình trạng khốn cùng và tạo điều kiện để họ đóng góp vào sự phát triển của đất nước
Các nhà nước ở Đông á đạt được thành công trong tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội đã phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn (đường xá, cầu cống, hệ thống vận tải, mạng lưới điện, nước và vệ sinh) trong những năm đầu của quá trình phát triển nông thôn. Họ cũng đầu tư nhiều vào con người (giáo dục, y tế, kế hoạch hoá gia đình) ở khắp các vùng nông thôn. Tỷ lệ chi tiêu công cộng dành cho giáo dục ở khu vực Đông á cao hơn rất nhiều khu vực khác. Trong khi tính trung bình, tất cả các nước đang phát triển dành 13% chỉ tiêu công cộng cho giáo dục (Nam á chỉ có 9%), thì các nước Đông á đã dành cho giáo dục khoản chi chiếm hơn 20% chi tiêu cộng trong hai thập kỷ tăng trưởng mạnh mẽ vừa qua. Hơn nữa, ở Đông á, phần lớn chi tiêu cho giáo dục bậc cao do khu vực tư nhân tài trợ còn chính phủ tập trung vào tiểu học và trung học. Sự kết hợp giữa đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn và đầu tư vào nguồn nhân lực đã cải thiện năng suất lao động, tăng cường các cơ hội phi nông nghiệp, hình thành những mối liên hệ thành thị - nông thôn rộng lớn hơn và tiến hành công nghiệp hoá nông thôn. Do sự gia tăng năng suất nông nghiệp đã diễn ra trên những vùng địa lý rộng lớn, và chính phủ cung cấp dịch vụ cơ bản không mất tiền hay được trợ cấp rất nhiều, số việc làm phi nông nghiệp đã gia tăng mạnh mẽ. Kết quả là, các nước Đông á không những đạt được thành tựu tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong 20 đến 30 năm qua mà còn giảm đói cùng kiệt một cách nhanh chóng.
Tài trợ của nhà nước cho các dịch vụ kinh tế và các dịch vụ xã hội có vai trò rất quan trọng đối với việc bảo đảm cung cấp đầy đủ các dịch vụ này. Các dịch vụ kinh tế - nhất là giao thông vận tải, thuỷ lợi và khuyên nông - đều quan trọng. Các cá nhân dân cư thiếu sự khuyến khích và các cộng đồng thường không có hệ thống tổ chức và nguồn lực để thực hiện các hoạt động mang lại lợi ích cho tất cả các vùng. Do vậy, chính phủ thường phải tài trợ toàn bộ từ nguồn thu của nhà nước. Cách tốt nhất để duy trì được cơ sở hạ tầng nông thôn, chẳng hạn như thuỷ lợi, là sự đóng góp trực tiếp của các cá nhân và cộng đồng địa phương dưới hình thức phí sử dụng hay bằng lao động. Về các dịch vụ xã hội, có lý do rất chính đáng để thực hiện một phương hướng phổ cập rộng rãi đảm bảo cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản được trợ giá đáng kể. Những dịch vụ quan trọng nhất là giáo dục tiểu học, y tế cộng đồng , chữa bệnh cơ bản cho người cùng kiệt và nước sạch. Ngân sách nhà nước có vai trò chính yếu đối với cả hai loại dịch vụ này, dù các hộ gia đình có thể đóng góp một phần, đặc biệt là các dịch vụ xã hội.
Thực tế cho thấy, các dịch vụ nông thôn ở Việt Nam, cũng giống như ở các nước Đông á khác, có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, giảm đói cùng kiệt và đảm bảo công bằng xã hội. Nhìn chung ở nông thôn Việt Nam, những hộ gia đình tham gia vào các hoạt động kinh tế đa dạng thường có mức sống cao hơn các gia đình khác. Việc đa dạng hoá này đòi hỏi có thông tin kiến thức, cũng như khả năng tiếp cận với công nghệ và thị trường.
Để đáp ứng được những thách thức của việc tăng trưởng kinh tế nhanh và rộng khắp, giảm đói cùng kiệt và đảm bảo công bằng xã hội đòi hỏi phải tăng đầu tư cộng đồng vào những dịch vụ cơ bản ở nông thôn. Chi tiêu công cộng thường bị dàn trải ra nhiều dịch vụ và lĩnh vực khác nhau. Nhà nước cần tập trung chi tiêu công cộng vào những danh mục đầu tư mà xét về toàn xã hội, nếu để cho khu vực tư nhân đảm nhận hay tài trợ toàn bộ sẽ không đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội và sẽ dẫn đến việc không khai thác hết được các dịch vụ đó. Các dịch vụ cơ bản cần được quan tâm hàng đầu ở nông thôn là giáo dục, y tế và cung cấp nước.





Mục lục


Lời mở đầu

PHần I: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội những khía cạnh lý thuyết .............................................................................................................3

I. Tăng trưởng và công bằng: khái niệm, thước đo..........................................3
II.Các quan điểm về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và Công bằng xã hội..5
1, Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đến bất bình đẳng..................................5
2. Ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng..........................................................5
3. Tăng trưởng đi liền với công bằng............................................................6

PHần II: Việt Nam với bài toán tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội....................................................................................................................8
I. Quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam.........9
II. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta..................9
III. Giải pháp cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam ...................................................................................................11
1, Tăng trưởng kinh tế................................................................................11
2, Tăng cường hơn nữa kế hoạch hóa gia đình...........................................12
3, Xóa đói giảm nghèo...............................................................................12
4, Chống tham nhũng và buôn lậu..............................................................13
5, Xây dựng kết cấu nông thôn...................................................................13
6, Phát triển giáo dục đào tạo ở nông thôn.................................................15
7, Phát triển y tế nông thôn.........................................................................15
8, Phát huy hơn nữa vai trò của nhà nước trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta........................................16

Loài người đang háo hức đón chờ một thiên niên kỷ mới với cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. Làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh, thôi thúc mọi quốc gia dân tộc vào một cuộc đua tranh quyết liệt vì sự phát triển. Nhưng dường như không phải dân tộc nào và những công dân của nó cũng được chuẩn bị đầy đủ để tham gia cuộc đua. Một số ít quốc gia dân tộc sẽ vươn lên nhanh chóng và một số nhóm người sẽ trở nên giàu có, để lại các dân tộc và những nhóm người còn phải sống trong cùng kiệt khổ.
Theo báo cáo của Liên hợp quốc, trong hơn ba thập kỷ qua, mặc dù nền kinh tế thế giới có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng: thu nhập quốc dân bình quân đầu người tăng lên 3 lần, GDP của thế giới tăng gần 6 lần, từ 4.000 tỷ USD năm 1960 lên 23.000 tỷ USD, nhưng hố ngăn cách giữa người giàu và người cùng kiệt trên thế giới đng ngày càng sâu thêm; thu nhập của 358 nhà tỷ phú trên hành tinh lớn hơn các khoản thu nhập tổng cộng của gần 2,3 tỷ người cùng kiệt nhất, chiếm 45% dân số toàn thế giới; chênh lệch về thu nhập giữa các nước côn nghiệp với các nước đang phát triển đã tăng 3 lần.
Trong hơn 30 năm qua, thu nhập của nhóm 20% người cùng kiệt nhất hành tinh đã giảm xuống còn 1,4% thu nhập của thế giới. Trong khi đó phần thu nhập của nhóm 20% người giàu nhất đã tăng lên đến 85%. Điều đáng lưu ý là từ năm 1965 đến 1980 có 200 triệu người có thu nhập giảm dần và từ năm 1980 đến 1993 có trên 1 tỷ người rơi vào tình trạng trên. ở Mỹ, số của cải do 1% những người giàu nhất nắm giữ đã tăng từ 20% lên 30% của cải quốc gia trong thời kỳ 1975-1990. ở các nước đang phát triển như Goatêmala, Panama hay Braxin, thu nhập của những người giàu gấp 30 lần thu nhập của những người nghèo.
Một điều hiển nhiên nữa là, không có tăng trưởng kinh tế thì không giải quyết được cùng kiệt đói và bất công. Nhưng phải chăng đói cùng kiệt và bất công là tất yếu trên con đường phát triển, là cái giá phải trả cho tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội luôn luôn là chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu là hoạch định chính sách ở mọi quốc gia.
Tuy nhiên, vì sự hạn chế về hiểu biết và kiến thức nên tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ và góp ý của thầy để em có thể hoàn thành tốt công việc nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành Thank thầy Đoàn Quang Thọ – giáo viên giảng dạy bộ môn Triết học Mác - Lênin đã giúp đỡ, giảng giải rất nhiều để em có thể hoàn thành bài tiểu luận này




Phần I
Tăng trưởng kinh tế và công bằng Xã hội
những khía cạnh lý thuyết

I. Tăng trưởng và công bằng: Khái niệm, thước đo
Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện một cách phổ quát theo quan điểm kinh tế học là sự tăng sản lượng thực tế của một nền kinh tế theo thời gian. Tăng trưởng kinh tế theo nghĩa này thường được đo lường bằng sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo thời gian hay tăng thu nhập theo đầu người. Nói cách khác tăng trưởng kinh tế chỉ thể hiện mặt lượng của nền kinh tế qua thời gian.
Tuy nhiên, khi xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, khái niệm tăng trưởng kinh tế được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Thứ nhất, liệu tăng trưởng kinh tế có đưa đến phát triển hay không, nói cách khác, tăng trưởng kinh tế có bảo đảm giải quyết tất cả các vấn đề xã hội có liên quan đến sự phát triển hay không. Thứ hai, liệu tăng trưởng kinh tế có thể diễn ra liên tục trong những điều kiện bất bình đẳng xã hội hay không. Những câu hỏi này đã được các nhà nghiên cứu về phát triển trả lời và quan điểm khá phổ biến hiện nay là không thể đồng nhất tăng trưởng kinh tế với phát triển. Một nội dung quan trọng của phát triển là công bằng xã hội. Vậy khái niệm công bằng xã hội được hiểu như thế nào.
Khác với khái niệm tăng trưởng kinh tế trong kinh tế học là cái có thể xác định bằng những con số, khái niệm công bằng xã hội mang tính chuẩn tắc,
Kết luận

Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là một trong những mối quan hệ cơ bản của quá trình phát triển. Có thể nói, thực chất của quan điểm phát triển hiện đại là tăng trưởng kinh tế đi liền với công bằng xã hội. Tăng trưởng là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất của phát triển, nhưng tự mó không đưa đến phát triển. Phát triển chỉ có được khi tăng trưởng kinh tế tạo ra những biến chuyển trong cơ cấu kinh tế và cấu trúc xã hội, ở đó mỗi người dân được hưởng những thành quả của tăng trưởng và nhờ đó phát triển cá nhân mình.
Công bằng trong phân phối thu nhập không hàm nghĩa đầy đủ sự công bằng xã hội. Công bằng xã hội chỉ có thể đạt được trong điều kiện ở đó mỗi cá nhân có các điều kiện như nhau tham gia vào các hoạt động cộng đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, có sự khác biệt về các điều kiện tuỳ theo giai đoạn lịch sử, điều kiện sinh sống, tố chất cá nhân. Do đó, công bằng xã hội luôn thể hiện ra như một xu hướng hơn là một trạng thái hiện thực. Trên thực tế, người ta chỉ có thể giảm bất bình đẳng và bất công chứ chưa thể đạt được công bằng tuyệt đối. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội do vậy phải được hiểu là mức độ giảm bất bình đẳng đạt được cùng với tăng trưởng.
Nền kinh tế thị trường hiện đại với đặc trưng cơ bản là đời sống kinh tế dân chủ kết hợp với vai trò hướng dẫn và điều tiết của nhà nước là cơ chế đảm bảo giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Tuy nhiên, vai trò điều tiết của nhà nước trên thực tế là một vấn đề hết sức phức tạp. Vai trò đó phải được hiểu là sự hỗ trợ những khiếm khuyết của thị trường thông qua các chính sách điều chỉnh vĩ mô hơn là làm thay đổi hay can thiệp trực tiếp vào các quan hệ thị trường.
Các chính sách mà chính phủ các nước đạt được thành tựu cao trong tăng trưởng và giảm bất bình đẳng là một tổ hợp các biện pháp điều tiết. Tổ hợp này khác nhau theo từng nước và trong thời kỳ ở mỗi nước. Vì vậy, khi xem xét kinh nghiệm của các nước này phải chú ý đặc biệt đến hoàn cảnh lịch sử và điều kiện cụ thể của mỗi nước. Không có một khuôn mẫu chung cho tất cả các nước.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu cao trong tăng trưởng kinh tế qua hơn 10 năm đổi mới, đời sống số đông nhân dân được cải thiện rõ rệt, giải quyết việc làm và xoá đói, giảm cùng kiệt có tiến bộ, trong công bằng xã hội đang từng bước được xoá bỏ. Chế độ phân phối gắn với thành quả và hiệu quả lao động đã tạo ra những động lực thúc đẩy tăng trưởng và tạo ra công bằng. Theo đánh giá của các cơ quan Liên hợp quốc có mặt ở Hà Nội, thì “Việt Nam giảm được một nửa tỷ lệ hộ đói cùng kiệt trong thập niên vừa qua là điều gần như chưa có nước nào đạt được”.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Nhuyen.149

New Member

Download Tiểu luận Việt Nam với bài toán tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội miễn phí





MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương I: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội những khía cạnh lý thuyết
I. Tăng trưởng và công bằng: khái niệm, thước đo
II. Các quan điểm về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và Công bằng xã hội
1. Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đến bất bình đẳng
2. Ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng
3. Tăng trưởng đi liền với công bằng
Chương II: Việt Nam với bài toán tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
I. Quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam
II. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta
III. Giải pháp cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam
Kết luận
Tài liệu tham khảo
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ức khoẻ... Để thực hiện một chiến lược như vậy, một mặt phải có được một nguồn tài chính lớn dành cho các khoản trợ cấp này, và mặc khác, xây dựng một mạng lưới nhằm phân bổ và thực hiện các dịch vụ cho người nghèo. Một loạt chính sách hỗ trợ cho mục tiêu này như thực hiên thuế, lãi suất, giá cả ưu đãi.
Mặc dù ý tưởng cuả chiến lược này khá hấp dẫn và hợp lý nhằm đảm bảo giải quyết công bằng trong điều kiện thúc đẩy tăng trưởng, song nó cũng bị phê phán về một số khía cạnh. Thứ nhất, để có thể thực hiện trợ cấp như vậy, chính phủ cần có một nguồn tài chính lớn mà trong nhiều trường hợp, đặc biệt ở giai đoạn đầu, lợi ích thu được từ tăng trưởng còn quá nhỏ. Thứ hai, liệu những trợ cấp như vậy có đủ đảm bảo cho người dân tham gia rộng rãi vào hệ thống kinh tế hay không, hay họ chỉ có khả tiếp cận đến giới hạn của cùng kiệt khổ. Nói cách khác, quan điểm hướng vào nhu cầu cơ bản của con người về cơ bản là chương trình hành động xã hội nhiều hơn là một chiến lược tổng thể đảm bảo một cơ chế tương hỗ thực sự giữa tăng trưởng và công bằng.
Hai là, tái phân phối cùng với tăng trưởng (Redistribution With Growth), hay được diễn đạt hơi khác đi như tăng trưởng với phân phối thu nhập được cải thiện, hay tăng trưởng cùng chia sẻ. Quan điểm này xét về mục đích giống như quan điểm trên nhưng khác về cách thức tiếp cận để đạt được mục tiêu. Đây là ý tưởng của Ngân hàng thế giới được thể hiện trong công trình nghiên cứu cùng tên do ngân hàng này đỡ đầu thực hiện. Phân phối lại cùng với tăng trưởng là con đường theo đó lợi ích thu được từ tăng trưởng kinh tế cần được phân phối lại sao cho cùng với thời gian, phân phối thu nhập dần dần được cải thiện hay không bị xấu đi trong khi quá trình tăng trưởng vẫn tiếp tục. Khác với quan điểm của những người theo mô hình hướng vào những nhu cầu cơ bản của con người nhấn mạnh vào việc đảm bảo các dịch vụ công cộng, quan điểm tái phân phối cùng với tăng trưởng nhấn mạnh việc tăng khả năng sản xuất và sức mua của dân chúng. Các chính sách của chính phủ cần đảm bảo một sự phát triển sao cho người dân tìm thấy những cơ hội kiếm tiền tốt hơn đồng thời nhận được những nguồn lợi cần thiết để tạo ra lợi nhuận. Theo một nhóm nghiêm cứu của Ngân hàng thế giới, có bảy công cụ chính sách có thể được sử dụng là:
Các biện pháp tạo ra sự biến đổi cả lao động và tư bản, khuyến khích sử dụng lao động lành nghề.
“Phân phối lại một cách năng động” tài sản bằng cách định hướng đầu tư vào các lĩnh vực mà những người cùng kiệt có thể là sở hữu tài sản như đất đai hay cửa hiệu nhỏ.
Mở rộng giáo dục để cải thiện mức độ biết đọc, biết viết, kĩ năng lành nghề, cách tiếp cận với nền kinh tế hiện đại.
Chế độ thuế tiến bộ.
Cung cấp rộng rãi các mặt hàng tiêu dùng như lương thực, thực phẩm thiết yếu cho người nghèo.
Can thiệp vào thị trường hàng hoá để giúp đỡ người sản xuất và tiêu thụ nghèo.
Phát triển công nghiệp nhằm giúp cho những người có thu nhập thấp có được năng lực sản xuất cao hơn.
Những biện pháp chính sách này là định hướng chung và được chú trọng cụ thể cho mỗi loại nước. Chẳng hạn, những nước sản xuất công nghiệp là chủ yếu thì phát triển nông thôn được chú trọng hơn.
Quan điểm tăng trưởng đi liền với công bằng dựa trên một giả thuyết rất quan trọng là công bằng không đối lập với tăng trưởng, ngược lại là một yếu tố góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Ngay từ năm 1968, Murdal là người đầu tiên đã khẳng định rằng bất bình đẳng có thể làm hại cho tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng ở mức thấp sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Tiếp đó, Ahluwalia (1974) đã khẳng định trong công trình nghiên cứu thực tế của mình rằng “không có mô hình tiêu biểu cho mối quan hệ giữa những thay đổi trong phân phối thu nhập và tốc độ tăng trưởng GDP... Điều này chỉ ra rằng, có rất ít cơ sở thực tế vững chắc để chứng minh cho quan điểm tốc độ tăng trưởng cao chắc chắn sẽ nảy sinh bất bình đẳng lớn hơn”. Hart Mut Elseahans (1989) cũng lập luận khá đầy đủ về tác động của công bằng đối với tăng trưởng. Nhiều nhà nghiên cứu khác như Alesina và Perrotti (1994), Alesina và Rodrik (1994), Nancey Birdsall, David Ross vàRichard Sobot (1995) cũng như các chuyên gia ở Ngân hàng thế giới đã tiến hành các công trình nghiên cứu và đưa ra bằng chứng để chứng minh tại sao bất bình đẳng cao có thể hạn chế tăng trưởng.
Chương II
Việt Nam với bài toán tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội
I. Quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam
Đề cập đến việc xử lý mối quan hệ giữa hai yếu tố cơ bản đó trong quá trình phát triển, Đại hội VI của Đảng mới chỉ bước đầu xác định: “ Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế.
Phải đến Đại hội VII của Đảng (6-1991), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá VI mới chính thức nêu lên các quan điểm có ý nghĩa triết lý chỉ đạo việc kết hợp hài hoà giữa cái kinh tế và cái xã hội trong quá trình đổi mới như sau:
Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người.
Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân.
Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đề ra quyết tâm tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, văn minh.
Đại hội VIII của Đảng (6-1996) lại bổ sung một quan điểm quan trọng nữa là: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”.
Rõ ràng chủ nghĩa tư bản hiện đại còn tự tiếp tục tự điều chỉnh để phát triển và cũng có khả năng phát triển mạnh về kinh tế trong những thập kỷ mới. Song dù tự điều chỉnh như thế nào, thì nó vẫn không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn...
Hi
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top