lanhgia007
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
LỜI MỠ ĐẦU
Đất nước Việt Nam với một thời gian dài bị chiến tranh tàn phá, sau ngày thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhân dân ta bước vào công cuộc xây dựng đất nước đi lên Chủ nghĩa xã hội với một nền nông nghiệp lạc hậu và bao nhiêu là tàn tích của chiến tranh để lại, bên cạnh đó nước ta còn phải bị sự bao vây cấm vận của các thế lực thù địch hòng chống phá để làm suy yếu công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhìn lại qúa trình cách mạng Nhân dân ta đã cống hiến không biết bao nhiêu là công sức để đổi lấy lại Độc lập Tự do cho dân tộc.
Ngày nay từ quá độ đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội là một qúa trình dài có thể nói đầy gian nan thử thách với một nền kinh tế nhiều thành phần đang vận hành theo cơ chế thị trường và với xu thế hội nhập kinh tế thế giới có thể nói đây là thời cơ song nó cũng là nguy cơ thách thức.
Từ những vấn đề nêu trên trong khi đất nước ta đang trong quá độ và cũng là trong qúa trình xây dựng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Vì thế đòi hỏi khách quan đặc ra là phải có đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhà nước và sự đóng góp của Nhân dân từ mọi phương diện. Nhằm tạo thành một sức mạnh tổng hợp để thực hiện thành công định hướng đề ra. Vì thế trong mỗi công cuộc cách mạng thì vai trò quần chúng Nhân dân là vấn đề cực kỳ quan trọng.
Học thuyết Mác- Lênin là thế giới quan khoa học là phương pháp luận cho con người về thế giới. Với một phương pháp biện chứng và khoa học đã chỉ rõ quần chúng Nhân dân là một lực lựơng sản xuất vật chất sáng tạo. Các giá trị văn hoá tinh thần là lực lượng cơ bản cho mỗi cuộc cách mạng xã hội. Đó là cơ sở lý luận khoa học giúp cho các Đảng giai cấp vô sản nhận thức và xây dựng một đường lối đúng đắn trong mỗi công cuộc cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh Người sáng lập và tui luyện Đảng ta lúc còn sống hoạt động cách mạng Người thường dạy “ Dễ trăm lần không dân cũng khó, khó vạn lần dân liệu cũng song”.
Ngày nay trong qúa trình đổi mới. Đường lối của Đảng ta nhất quán không định Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xác định mục tiêu đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội là vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Chính vì những vấn đề đã như nêu trên một lần nữa Đảng ta đã khẳng định con đường và mục tiêu cao cả mà Đảng ta và Nhân dân đã chọn. Xác định rõ sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân.
Xuất phát từ học thuyết Mác- Lênin về con người, về vai trò quần chúng Nhân dân là một vấn đề cực kỳ quan trọng có ý nghĩa cho việc đề ra các chủ trương nghị quyết của Đảng và nhà nước. Vấn đề cơ bản là phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân, do dân, vì dân. Và phải Xác định rằng Nhân dân là nền tảng là động lực là lực lượng cơ bản cho mỗi qúa trình cách mạng.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng như đã nêu trên. Từ nhận thức của bản thân tui chọn đề tài này viết Tiểu luận nhằm nâng cao cho bản thân về tư duy nhận thức, hiểu rõ hơn nữa những quan điểm đường lối của Đảng ta về nguồn lực con người, về sự nghiệp cách mạng của quần chúng Nhân dân và khẳng định rằng Bài học “ Lấy dân làm gốc” của Đảng ta một quan điểm toàn diện có tác động to lớn cho trước mắt và lâu dài xuyên suốt trong qúa trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Trên cơ sở đó bản thân sẽ ra sức phấn đấu hơn nữa góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước nói chung và nói riêng là ở địa phương cơ sở. Trong việc phát triển kinh tế xã hội xây dựng đời sống Nhân dân.
PHẦN 1
HỌC THUYẾT MÁC- LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ.
1. Quan điểm học thuyết Mác- Lênin về con người.
Việc luận giải về con người cũng như vai trò quần chúng Nhân dân trong lịch sử nó đã trở thành vấn đề tranh luận giữa các trường phái triết học.
Sự tạo hoá con người được hình thành từ đâu, quan niệm thế nào về cuộc sống trong mối quan hệ giữa tư nhân và xã hội, con người có cải tạo được thế giới hay không và sự nhận thức của họ thế nào đấy là vấn đề mà các nhà triết học đặc ra và giải thích về con người với nhiều cách khác nhau. Sự ra dời của chủ nghĩa duy vật lịch sử lần đầu tiên đánh thức các quan niệm nhận thức sai lệch về con người. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về bản chất con người đã đạt được những thành tựu quan trọng. Song do những hạn chế về nhận thức về lịch sử con người không hiểu được sức mạnh của thiên nhiên vừa là sự sống của con người nhưng cũng gây tai họa cho con người như giông tố lụt lội , sấm sét. Vì thế mà các nhà triết học trước Mác chưa giải thích triệt để về nguồn gốc bản chất con người kể cả triết học phương Đông và phương Tây, điều xem xét con người từ nhiều góc độ khác nhau. Nhưng họ cùng chung một ý tưởng là tìm ra con người để giải phóng cho con người.
Quan điểm triết học phong kiến thì cho rằng con người người sống trong tâm trạng dằn xé giữa hai thái cực vừa muốn vươn lên cái tốt đẹp cái thánh thiện vừa muốn giữ lấy cái thần tục. Đối với thời kỳ phục hưng và cận đại thì triết học lúc ấy phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp để giải phóng con người thoát khỏi xiền xích của tôn giáo triết học đã ca ngợi vẽ đẹp và tính thuần khiết của mỗi con người. Từ đó ước mơ con người ở trong một xã hội lý tưởng cho đến triết họccổ điển Đức được coi là đỉnh cao của triết học Mác với những tư tưởng vĩ đại của Phơ bách, Hê ghis. Đã có những luận giải khác về con người và xem con người là chủ của giới tự nhiên và gắn liền với lịch sử. Trong xã hội với ý niệm tuyệt đối ấy còn có những vấn đề trái ngược.
Quan điểm học thuyết Mác- Lênin nói chung triết học Mác- Lênin nói riêng là xem xét vấn đề con người là trung tâm của khoa học xã hội. Học thuyết Mác- Lênin ra đời nó xuất phát từ con người và mục đích cuối cùng của nó là soi sáng cho sự nghiệp giải phóng con người và cả loài người. Với quan điểm duy vật biện chứng CácMác đả đưa ra một quan điểm hoàn chỉnh về khái niệm con người cũng như về bản chất con người. Chủ nghĩa Mác khẳng định con người mang tính hai mặt, một là một thực thể sinh vật, hai là tính xã hội cao trong mối quan hệ xã hội.
Mác không phủ nhận mặt tự nhiên mặt sinh học khi xem xét con người với tư cách là cá nhân sống Mác viết : “ Vì vậy điểu cụ thể đầu tiên cần xác định tổ chức cơ thể của cá nhân ấy và mối quan hệ của tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ vàphần còn lại của giới tự nhiên”. Trên cơ bản Mác thừa nhận con người là một loài động vật thượng đẳng là sản phẩm của sự biến hoá lâu dài của giới sinh vật. Không phải như các loài động vật khác. Con người là một bộ phận của tự nhiên có tiềm thức ăn uống .v.v. Tuy nhiên Mác cũng không thừa nhận quan điểm cho rằng cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính inh dục là bản năng của con người… Con người vốn là sinh vật có đầy đủ đặc trưng của sinh vật nhưng lại có điểm phân biệt với các loài sinh vật khác.
Trước Mác và cùng thời Ông đã có những nhà tư tưởng vốn đưa ra tiêu chí phân biệt người và động vật ở chỗ : Con người biết sử dụng công cụ lao động. Arix Tôt đã gọi con người là một động vật có tính xã hội. Pascl nhấn mạnh đặc điểm của con người là ở sức mạnh ở chổ con người biết biết suy nghĩ tất cả các nhận định trên điều đúng khi nêu lên một khía cạnh về bản chất con người nhưng vẫn còn phiến diện chưa nói lên được nguồn gốc đặc điểm và mối quan hệ biện chứng giữa chúng với nhau.
Về con người quan điểm Chủ nghĩa Mác đã đưa ra một cách nhận thức toàn diện về mọi mặt mang đầy đủ tính khoa học và biện chứng trong qúa trình vận động và phát triển của nó. Ông đã đưa ra phân tích ở góc độ vai trò lao động sản xuất ơ con người vàsự phân biệt con người với con vật là bằng ý thức và sự sáng tạo sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho mình và như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra đời sống vật chất. Con người là một bộ phận của tự nhiên nhưng trong mối quan hệ với tự nhiên thì con người hoàn toàn khác biệt với con vật.
CácMác phân biệt rõ : Về thể xác con người sống bằng sản phẩm tự nhiên ấy dù là dưới hình thức sản phẩm như nhiên liệu quần áo nhà ở. Song về thực tiễn tính phổ biến của con người biểu hiện ra chính cái phổ biến toàn bộ giới tự nhiên thành phân thể vô cơ của con người. Và vì thế Mác kết luận con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên câu nói này nêu lên tính tất yếu của sự hoà hợp giữa con người và thiên nhiên. Nhờ qúa trình hoạt động con người quan hệ với thiên nhiên cũng có ý nghĩa là con người quan hệ với bản thân mình bỡi lẽ tự nhiên là thân thể vô cơ của con người và tính con người nói nó không phải là trừu tượng mà là tính xã hội có mối quan hệ tương tác với nhau. Ơ đây con người nó khác với con vật là con người mang tính xã hội, xã hội với tự nhiên là điều kiện tồn tại cho con người tính xã hội của con người là thể hiện ở sự hoạt động giao tiếp, hoạt động có ý thức và tư duy con người phát triển trong hoạt động đó. Trước hết là trong lao động sản xuất với ý nghĩa đó có thể nói con người phân biệt với động vật ở chổ tư duy bỡi tư duy là hoạt động thực tiễn của xã hội. Như thế ta có thể thấy rắng con người khác với con vật về bản chất ở ba mặt đó là quan hệ thiên nhiên, quan hệ xã hội, quan hệ bản thân.
Các Mác viết : “ Trong tính thiện thực của nó bản chất con người là tổng thể các mối quan he xã hội” nói như thế con người là cụ thể hoạt động trong một xã hội nhất định trong một điều kiện lịch sử nhất định. Con người cùng với xã hội của mình khai thác thiên nhiên sinh hoạt hoạt động xã hội phát triển ý thức và chính trong toàn bộ quan hệ xã hội đó con người mới bộc lộ được bản chất chính thống của mình. Vì lẽ đó trong qúa trình vận động phát triển tính xã hội con người được hình thành từ thấp lên cao từ hoạt động bản năng sàng hoạt động ý thức và bản năng xã hội là động lực cơ bản quan trọng trong sự phát triển con người nó là bản năng có ý thức chính là chức năng cơ bản trên từng võ não của người đây là vốn duy truyền trong sự vận động tiến hoá từ tổ tiên vượn người đã được thông qua những bước nhảy vọt là kết quả của sự phát triển lao động sản xuất xã hội ở giai đoạn xa xưa trong qúa trình trở thành loài người mà cái lao động xã hội là yếu tố quyết định cho sự sống và tiến hoá.
Khác hẳng với quan điểm của Hêghes- Phơbach các ông đã nhìn nhận con người và đưa con người vào vị thế biệt lập tách ra ở một thể. Ngược lại Mác đã chỉ rõ và hướng giải vấn đề con người trên hai phương diện. Trong mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội. Nhìn nhận sự vật hiện tượng trong mối liên hệ toàn diện trong sự vận động và phát triển của nó chính những quan niệm cách nhìn nhận sự vật Mác đã khẳng định con người là cụ thể, nó được sinh ra trong sự vận động tiến hoácó sự sống và nhận thức với nhiều góc độ. Và ông đã phủ nhận các quan điểm của các nhà triết học duy tâm bỡi lẽ nhìn nhận con người bằng chính hình tượng hoá suy dưỡng bằng một cơ sở hết sức hoan đường ảo tưởng. Đẩy con người vào thế tuyệt đối, giải phóng con người bằng định mệnh, bằng thần linh thượng đế.
Xuất phát từ thế giới quan và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin về con người dựa trên những thành tựu khoa học. Những năm gần đây đã đề cập làm sáng tỏ khía cạnh chủ yếu con người là môt thực thể của xã hội mang bản chất xã hội cũng đồng thời là một thực thể của tự nhiên, một cấu trúc sinh vật học, vì thế con người có các yếu tố vật chất tinh thần cần thiết và những lợi ích cá nhân của chính nó. Khoa học ngày nay đã làm sáng tỏ những vấn đề thuộc các quy luật tự nhiên tác động trong con người như khám phá về gen là một ví dụ cụ thể . Và chính vì lẽ đó tìm ra những động cơ sâu xa để phát huy làm sáng tỏ nhận thức về vấn đề con người đó chính là hoạt động lao động của con người là nguồn gốc của nền văn minh vật chất và tinh thần, là nguồn gốc trực tiếp của sự hình thành ý thức trong lao động sản xuất sự quan hệ con người với sự phân công lao động, phân phối sản phẩm đó là những quan hệ nền tảng làm hình thành các quan hệ xã hội khác.
Từ những đặc điểm trên ta thấy không có một xã hội thuần tuý tồn tại độc lập bên ngoài cái bản tính sinh học của con người. Không có xã hội thuần tuý cũng như cái sinh học thuần tuý tồn tại độc lập tách rời nhau. Mà xã hội là một cách cho con người thỏa mái các nhu cầu về vật chất, tinh thần ngày càng cao hơn, văn mnh hơn làm cho sự tồn tại con người hợp lý hơn đó cũng lá mục đích hành vi của xã hội loài người.
Mối quan hệ trên nó đã biểu hiện bản chất sâu xa và bộc lộ thường xuyên trong mọi hành vi sống của con người. Chẳng hạn do nhận thức rõ mối quan hệ trên gần đây ở nhiều nước trên thế giới người ta đã đưa môn tình dục học vào giảng dạy ở các trưởng phổ thông nhằm tạo ra một định hướng giáo dục hợp lý khắc phục những mâu thuẫn nảy sinh do sự phát triển vượt trội của nhu cầu sinh lý của con người giúp họ xử lý đúng đắn vừa đáp ứng nhu cầu mang tính tự nhiên vừa phù hợp với các chừng mực xã hội xây dựng các giá trị đạo đức.
Với bản chất xã hội con người gắng bó chặt chẽ với nhau đến mức không thể tách rời nhau đồng thời lại là những cá nhân với ý nghĩa ngày càng đầy đủ những cá thể mang tính “ tự thị” ngày càng trọn vẹn lịch sử loài người đã phát triển trong sự thống nhất tác động qua lại lẫn nhau giữa các khuynh hướng giao lưu cộng đồng và tách biệt cá nhân ngày càng trở nên bền vững. Mặt khác mỗi con người càng tách biệt thành những cá nhân độc lập với nhau.
- Cơ cấu kinh tế là : nông, ngư nghiệp kết hợp với thương nghiệp dịch vụ.
- Kết cấu xã hội : có 3 dân tộc đó là kinh, người Hoa và người Khơme.
- Kết cấu cơ sơ hạ tầng : ở mức độ thấp.
Thực hiện Nghị quyết Đảng bộ khóa 9 về tập trung phát triển kinh tế xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn nhìn chung được quán triệt trong Đảng, cán bộ và nhân dân trong toàn huyện qua thời gian tổ chức thực hiện đã đạt được những kết quả như sau :
* Trên lĩnh vực sản xuất nông lâm ngư nghiệp :
- Diện tích sản xuất có tăng lên từ 340.000 ha lên 520.000 ha.
- Năng suất bình quân 3,8 – 4 tấn/ha
- Thương nghiệp dịch vụ có trên 2.500 hộ sản xuất mua bán kinh doanh dịch vụ các loại.
- Bình quân thu nhập đầu người trung bình 2,5 – 3 triệu/ người/ năm.
* Trên lĩnh vực văn hóa xã hội :
- Hệ thống ý tế giáo dục được phân bố đều khắp trên các đơn vị cơ sở, các xã đều có trường cấp II và trung tâm ý tế.
- Các hoạt động văn hoá thể thao được xây dựng hoàn thành đưa vào hoạt động khá tốt. Tỷ lệ hộ gia đình văn hoá chiếm khoảng 60% trong toàn huyện.
- Giao thông đường bộ đã được phát triển từ trung tâm các xã đến huyện và có trên 30% dân số sử dụng điện cho sinh hoạt và sản xuất.
Nhìn chung những kết quả với hiện tại đã đạt được đó là sự phấn đấu nỗ lực quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân huyện nhà. Đặc biệt là trong việc chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu kinh tế – kết hợp giữa cây và con – đã có tác động to lớn. Từ sản xuất thuần nông đã chuyển sang sản xuất kết hợp, xoá bỏ thế độc canh cây lúa và bên cạnh đó từ việc nông nghiệp thâm canh, các loại hình thương nghiệp dịch vụ cũng được khuyến khích. Nếu so với một hai năm trước đây thì sức phát triển kinh tế có phần tăng lên đáng kể, đời sống nhân dân được nâng lên một bước về vật chất lẫn tinh thần.
Song bên cạnh đóvẫn còn tồn tại một số vấn đề cơ bản sau :
- Trên lĩnh vực chỉ đạo phát triển kinh tế chưa có nhiều giải pháp đột phá, chưa tập trung khai thác những tiềm năng lợi thế trong sản xuất.
- Đầu tu cho việc ứng dụng các thành tưu khoa học vào sản xuất còn kém.
- Chủ trương giải pháp còn 1 số khâu thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa kinh tế và văn hoá xã hội, đặc biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội còn tăng kém. Hệ thống lộ giao thông còn nhiều điều bất cập; trình độ dân trí còn nhiều hạn chế.
- Giải quyết vấn đề lao động chưa được quan tâm. Tỷ lệ hộ cùng kiệt khó còn khá cao, chiếm khoảng 20%. Bên cạnh đó còn có một số vấn đề khác về tệ nạn xã hội có chiều hướng phát sinh. Mô hình ấp văn hoá còn nhiều bất cập, chất lượng chưa cao.
B/ -Định hướng và giải pháp:
Từ thực trạng như đã nêu trên, vấn đề pháp triển kinh tế xã hội nó không đơn giản chỉ ở một góc độ đơn thuần mà nó còn phải liên quan đến từ nhiều vấn đề khác nhau. Song từ thực trạng trên để có sự phát triển bền vững cần tập trung vào một số giải pháp sau :
- Một là : Xem xét lại cơ cấu kinh tế, hạ thấp dần tỷ lệ sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ lệ thương nghiệp dịch vụ, nuôi trồng đáng bắt thuỷ sản. Đi đôi với việc sắp xếp sản xuất. Phải có biện pháp chỉ đạo kết hợp đồng bộ giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
- Hai là: Phải có quy hoạch từng nơi từng vùng theo đặc điểm cụ thể và phải xây dựng một cơ chế đầu tư thích hợp cho từng mô hình sản xuất cụ thể, tránh đầu tư tràn lan kém hiệu qủa.
- Ba là: Tăng cường công tác khuyến nông, khuyến ngư. Tổ chức học tập cho bà con nông dân về kỷ thuật canh tác và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bên cạnh đó tiếp tục đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật để đảm bảo phục vụ phát triển kinh tế cho trước mắt cũng như lâu dài.
- Bốn là : Chủ trương sản xuất phân hướng vào phát triển sản xuất hàng hoá, khuyến khích nhân dân phát triển đa dạng các mô hình kết hợp giữa cây và con. Đặc biệt là xây dựng mô hình kinh tế hợp tác, nhân rộng điển hình các nhân tố tích cực làm ăn có hiệu quả.
- Năm là : Từ sự phát triển kinh tế tăng cường tranh thủ huy động các nguồn lực cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như điện đường, trường, trạm. Tạo mọi điều kiện môi trường thu hút động viên cán bộ khoa học về công tác ở địa phương.
- Sáu là : Tăng cường mọi giải pháp thực hiện có hiệu quả chủ trương xoá đói giảm cùng kiệt cho nhân dân. Khuyến khích đầu tư mở rộng ngành nghề nhằm giải quyết vấn đề lao động.
- Bảy là : Kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt là ở xã, thị trấn. Quan tâm chú trọng công tác vận động quần chúng, xem nhiệm vụ vận động quần chúng là nhiệm vụ thường xuyên liên tục, là nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền các chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước và Các chỉ thị, Nghị quyết của địa phương đến tận quần chúng nhân dân. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở theo tinh thần chỉ thị 30CT TN – và Nghị định 29CP của chính phủ. Thực hiện tốt phương châm : dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Hướng các hoạt động phải vì lợi ích của nhân dân. Có như thế mới có thể tạo động lực thực hiện đạt được yêu cầu nhiệm vụ chính trị đề ra.
KẾT LUẬN
Từ quan điểm học thuyết Mác Lênin về con người và vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử đã chỉ a cho chúng ta thấy sự hình thành và phát triển của xã hội loài người và vai trò của họ trong lịch sử xã hội, với mối quan hệ ràng buộc giữa cá nhân và cộng đồng xã hội, làm sáng tỏ những nhân tố tác động cơ bản đến các cuộc cách mạng khi xã hội có giai cấp.
Với quan điểm nêu trên đó là cơ sở lý luận và thực tiễn rất cụ thể nhằm giúp cho mỗi Đảng của giai cấp vô ản cũng như mọi giới lãnh đạo nhận thấy được vị trí vai trò và tầm quan trọng của con người, của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Chính vì lẽ đó vận dụng quan điểm Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình cách mạng thực tiễn đã rút ra bài học “ lấy dân làm gốc” là hoàn toàn đúng dựa trên cơ sở khoa học và khách quan. Vì thế có thể có thể khẳng định rằng bài học lấy dân làm gốc là một đường lối sách lược hàng đầu trong quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng ta. Có nghĩa là nhằm quy tựu sức mạnh tổng hợp tạo thành một động lực và nền tảng vững vàng cho quá trình xây dựng cũng như bảo vệ tổ quốc.
Vì vậy ngày nay trong quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc đổi mới và quá trình hội nhập kinh tế thế giới thì bài học lấy dân làm gốc của Đảng ta càng có ý nghĩa quan trọng hơn, đòi hỏi mọi sự hoạt động của Đảng phải xuất phát từ tâm tư ý chí, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của quần chúng nhân dân. Mọi cán bộ đảng viên phải biết dựa vào dân và nắm lấy dân, hướng dẫn dìu dắt nhân dân, giáo dục họ để họ nhận thức và tự giác theo đường lối cách mạng của Đảng.
Song song bên cạnh đó phải tăng cường xây dựng củng cố hệ thống chính trị ở địa phương, phải thật sự quan tâm và xem công tác vận động quần chúng là công tác trọng tâm thường xuyên liên tục.
Kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện sai lệch tha hoá sa sút ý chí chiến đấu trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên cũng như các hiện tượng quan liêu của quyền hống hách, xa rời thực tế, xa rời quần chúng nhân dân.
Thực hiện đúng cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, xây dựng tốt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, quy tựu được khối Đại đoàn kết dân tộc để đảm bảo thực hiện thắng lợi công cuộc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đã đề ra với mục tiêu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
* KIẾN NGHỊ
Ngày nay đất nước ta đang trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đưa đất nước đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Nhân tố con người là một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất. Chính vì thế đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải có một cơ chế chính sách đào tạo cán bộ, đặc biệt hơn là cấp cơ sở xã, phường, thị trấn. Đi đôi với vần đề đào tạo là chế độ đãi ngộ nhằm đảm bảo cho các yêu cầu hoạt động trước mắt cũng như lâu dài, cần xem xét quan tâm hơn nữa về mọi mặt trong việc xây dựng phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân đặc biệt là vùng nông thôn, vùng căn cứ kháng chiến. Cụ thể là : quan tâm xây dựng quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế xã hội cho từng địa phương, cơ sở. Có một cơ chế chính sách đầu tư thích đáng cho sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn như : điện, đường, trường học, trạm y tế. Trong đó vấn đề quan trọng là phát triển mạng lưới trường phổ thông trung học và dạy nghề. Nhằm nâng cao trình độ văn hoá, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con em nhân dân được học tập dễ dàng, mặt khác cũng nhằm nâng cao trình độ dân trí, tạo nguồn lực cho trước mắt cũng như lâu dài để đáp ứng theo yêu cầu chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
LỜI MỠ ĐẦU
Đất nước Việt Nam với một thời gian dài bị chiến tranh tàn phá, sau ngày thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhân dân ta bước vào công cuộc xây dựng đất nước đi lên Chủ nghĩa xã hội với một nền nông nghiệp lạc hậu và bao nhiêu là tàn tích của chiến tranh để lại, bên cạnh đó nước ta còn phải bị sự bao vây cấm vận của các thế lực thù địch hòng chống phá để làm suy yếu công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhìn lại qúa trình cách mạng Nhân dân ta đã cống hiến không biết bao nhiêu là công sức để đổi lấy lại Độc lập Tự do cho dân tộc.
Ngày nay từ quá độ đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội là một qúa trình dài có thể nói đầy gian nan thử thách với một nền kinh tế nhiều thành phần đang vận hành theo cơ chế thị trường và với xu thế hội nhập kinh tế thế giới có thể nói đây là thời cơ song nó cũng là nguy cơ thách thức.
Từ những vấn đề nêu trên trong khi đất nước ta đang trong quá độ và cũng là trong qúa trình xây dựng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Vì thế đòi hỏi khách quan đặc ra là phải có đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhà nước và sự đóng góp của Nhân dân từ mọi phương diện. Nhằm tạo thành một sức mạnh tổng hợp để thực hiện thành công định hướng đề ra. Vì thế trong mỗi công cuộc cách mạng thì vai trò quần chúng Nhân dân là vấn đề cực kỳ quan trọng.
Học thuyết Mác- Lênin là thế giới quan khoa học là phương pháp luận cho con người về thế giới. Với một phương pháp biện chứng và khoa học đã chỉ rõ quần chúng Nhân dân là một lực lựơng sản xuất vật chất sáng tạo. Các giá trị văn hoá tinh thần là lực lượng cơ bản cho mỗi cuộc cách mạng xã hội. Đó là cơ sở lý luận khoa học giúp cho các Đảng giai cấp vô sản nhận thức và xây dựng một đường lối đúng đắn trong mỗi công cuộc cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh Người sáng lập và tui luyện Đảng ta lúc còn sống hoạt động cách mạng Người thường dạy “ Dễ trăm lần không dân cũng khó, khó vạn lần dân liệu cũng song”.
Ngày nay trong qúa trình đổi mới. Đường lối của Đảng ta nhất quán không định Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xác định mục tiêu đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội là vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Chính vì những vấn đề đã như nêu trên một lần nữa Đảng ta đã khẳng định con đường và mục tiêu cao cả mà Đảng ta và Nhân dân đã chọn. Xác định rõ sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân.
Xuất phát từ học thuyết Mác- Lênin về con người, về vai trò quần chúng Nhân dân là một vấn đề cực kỳ quan trọng có ý nghĩa cho việc đề ra các chủ trương nghị quyết của Đảng và nhà nước. Vấn đề cơ bản là phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân, do dân, vì dân. Và phải Xác định rằng Nhân dân là nền tảng là động lực là lực lượng cơ bản cho mỗi qúa trình cách mạng.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng như đã nêu trên. Từ nhận thức của bản thân tui chọn đề tài này viết Tiểu luận nhằm nâng cao cho bản thân về tư duy nhận thức, hiểu rõ hơn nữa những quan điểm đường lối của Đảng ta về nguồn lực con người, về sự nghiệp cách mạng của quần chúng Nhân dân và khẳng định rằng Bài học “ Lấy dân làm gốc” của Đảng ta một quan điểm toàn diện có tác động to lớn cho trước mắt và lâu dài xuyên suốt trong qúa trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Trên cơ sở đó bản thân sẽ ra sức phấn đấu hơn nữa góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước nói chung và nói riêng là ở địa phương cơ sở. Trong việc phát triển kinh tế xã hội xây dựng đời sống Nhân dân.
PHẦN 1
HỌC THUYẾT MÁC- LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ.
1. Quan điểm học thuyết Mác- Lênin về con người.
Việc luận giải về con người cũng như vai trò quần chúng Nhân dân trong lịch sử nó đã trở thành vấn đề tranh luận giữa các trường phái triết học.
Sự tạo hoá con người được hình thành từ đâu, quan niệm thế nào về cuộc sống trong mối quan hệ giữa tư nhân và xã hội, con người có cải tạo được thế giới hay không và sự nhận thức của họ thế nào đấy là vấn đề mà các nhà triết học đặc ra và giải thích về con người với nhiều cách khác nhau. Sự ra dời của chủ nghĩa duy vật lịch sử lần đầu tiên đánh thức các quan niệm nhận thức sai lệch về con người. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về bản chất con người đã đạt được những thành tựu quan trọng. Song do những hạn chế về nhận thức về lịch sử con người không hiểu được sức mạnh của thiên nhiên vừa là sự sống của con người nhưng cũng gây tai họa cho con người như giông tố lụt lội , sấm sét. Vì thế mà các nhà triết học trước Mác chưa giải thích triệt để về nguồn gốc bản chất con người kể cả triết học phương Đông và phương Tây, điều xem xét con người từ nhiều góc độ khác nhau. Nhưng họ cùng chung một ý tưởng là tìm ra con người để giải phóng cho con người.
Quan điểm triết học phong kiến thì cho rằng con người người sống trong tâm trạng dằn xé giữa hai thái cực vừa muốn vươn lên cái tốt đẹp cái thánh thiện vừa muốn giữ lấy cái thần tục. Đối với thời kỳ phục hưng và cận đại thì triết học lúc ấy phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp để giải phóng con người thoát khỏi xiền xích của tôn giáo triết học đã ca ngợi vẽ đẹp và tính thuần khiết của mỗi con người. Từ đó ước mơ con người ở trong một xã hội lý tưởng cho đến triết họccổ điển Đức được coi là đỉnh cao của triết học Mác với những tư tưởng vĩ đại của Phơ bách, Hê ghis. Đã có những luận giải khác về con người và xem con người là chủ của giới tự nhiên và gắn liền với lịch sử. Trong xã hội với ý niệm tuyệt đối ấy còn có những vấn đề trái ngược.
Quan điểm học thuyết Mác- Lênin nói chung triết học Mác- Lênin nói riêng là xem xét vấn đề con người là trung tâm của khoa học xã hội. Học thuyết Mác- Lênin ra đời nó xuất phát từ con người và mục đích cuối cùng của nó là soi sáng cho sự nghiệp giải phóng con người và cả loài người. Với quan điểm duy vật biện chứng CácMác đả đưa ra một quan điểm hoàn chỉnh về khái niệm con người cũng như về bản chất con người. Chủ nghĩa Mác khẳng định con người mang tính hai mặt, một là một thực thể sinh vật, hai là tính xã hội cao trong mối quan hệ xã hội.
Mác không phủ nhận mặt tự nhiên mặt sinh học khi xem xét con người với tư cách là cá nhân sống Mác viết : “ Vì vậy điểu cụ thể đầu tiên cần xác định tổ chức cơ thể của cá nhân ấy và mối quan hệ của tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ vàphần còn lại của giới tự nhiên”. Trên cơ bản Mác thừa nhận con người là một loài động vật thượng đẳng là sản phẩm của sự biến hoá lâu dài của giới sinh vật. Không phải như các loài động vật khác. Con người là một bộ phận của tự nhiên có tiềm thức ăn uống .v.v. Tuy nhiên Mác cũng không thừa nhận quan điểm cho rằng cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính inh dục là bản năng của con người… Con người vốn là sinh vật có đầy đủ đặc trưng của sinh vật nhưng lại có điểm phân biệt với các loài sinh vật khác.
Trước Mác và cùng thời Ông đã có những nhà tư tưởng vốn đưa ra tiêu chí phân biệt người và động vật ở chỗ : Con người biết sử dụng công cụ lao động. Arix Tôt đã gọi con người là một động vật có tính xã hội. Pascl nhấn mạnh đặc điểm của con người là ở sức mạnh ở chổ con người biết biết suy nghĩ tất cả các nhận định trên điều đúng khi nêu lên một khía cạnh về bản chất con người nhưng vẫn còn phiến diện chưa nói lên được nguồn gốc đặc điểm và mối quan hệ biện chứng giữa chúng với nhau.
Về con người quan điểm Chủ nghĩa Mác đã đưa ra một cách nhận thức toàn diện về mọi mặt mang đầy đủ tính khoa học và biện chứng trong qúa trình vận động và phát triển của nó. Ông đã đưa ra phân tích ở góc độ vai trò lao động sản xuất ơ con người vàsự phân biệt con người với con vật là bằng ý thức và sự sáng tạo sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho mình và như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra đời sống vật chất. Con người là một bộ phận của tự nhiên nhưng trong mối quan hệ với tự nhiên thì con người hoàn toàn khác biệt với con vật.
CácMác phân biệt rõ : Về thể xác con người sống bằng sản phẩm tự nhiên ấy dù là dưới hình thức sản phẩm như nhiên liệu quần áo nhà ở. Song về thực tiễn tính phổ biến của con người biểu hiện ra chính cái phổ biến toàn bộ giới tự nhiên thành phân thể vô cơ của con người. Và vì thế Mác kết luận con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên câu nói này nêu lên tính tất yếu của sự hoà hợp giữa con người và thiên nhiên. Nhờ qúa trình hoạt động con người quan hệ với thiên nhiên cũng có ý nghĩa là con người quan hệ với bản thân mình bỡi lẽ tự nhiên là thân thể vô cơ của con người và tính con người nói nó không phải là trừu tượng mà là tính xã hội có mối quan hệ tương tác với nhau. Ơ đây con người nó khác với con vật là con người mang tính xã hội, xã hội với tự nhiên là điều kiện tồn tại cho con người tính xã hội của con người là thể hiện ở sự hoạt động giao tiếp, hoạt động có ý thức và tư duy con người phát triển trong hoạt động đó. Trước hết là trong lao động sản xuất với ý nghĩa đó có thể nói con người phân biệt với động vật ở chổ tư duy bỡi tư duy là hoạt động thực tiễn của xã hội. Như thế ta có thể thấy rắng con người khác với con vật về bản chất ở ba mặt đó là quan hệ thiên nhiên, quan hệ xã hội, quan hệ bản thân.
Các Mác viết : “ Trong tính thiện thực của nó bản chất con người là tổng thể các mối quan he xã hội” nói như thế con người là cụ thể hoạt động trong một xã hội nhất định trong một điều kiện lịch sử nhất định. Con người cùng với xã hội của mình khai thác thiên nhiên sinh hoạt hoạt động xã hội phát triển ý thức và chính trong toàn bộ quan hệ xã hội đó con người mới bộc lộ được bản chất chính thống của mình. Vì lẽ đó trong qúa trình vận động phát triển tính xã hội con người được hình thành từ thấp lên cao từ hoạt động bản năng sàng hoạt động ý thức và bản năng xã hội là động lực cơ bản quan trọng trong sự phát triển con người nó là bản năng có ý thức chính là chức năng cơ bản trên từng võ não của người đây là vốn duy truyền trong sự vận động tiến hoá từ tổ tiên vượn người đã được thông qua những bước nhảy vọt là kết quả của sự phát triển lao động sản xuất xã hội ở giai đoạn xa xưa trong qúa trình trở thành loài người mà cái lao động xã hội là yếu tố quyết định cho sự sống và tiến hoá.
Khác hẳng với quan điểm của Hêghes- Phơbach các ông đã nhìn nhận con người và đưa con người vào vị thế biệt lập tách ra ở một thể. Ngược lại Mác đã chỉ rõ và hướng giải vấn đề con người trên hai phương diện. Trong mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội. Nhìn nhận sự vật hiện tượng trong mối liên hệ toàn diện trong sự vận động và phát triển của nó chính những quan niệm cách nhìn nhận sự vật Mác đã khẳng định con người là cụ thể, nó được sinh ra trong sự vận động tiến hoácó sự sống và nhận thức với nhiều góc độ. Và ông đã phủ nhận các quan điểm của các nhà triết học duy tâm bỡi lẽ nhìn nhận con người bằng chính hình tượng hoá suy dưỡng bằng một cơ sở hết sức hoan đường ảo tưởng. Đẩy con người vào thế tuyệt đối, giải phóng con người bằng định mệnh, bằng thần linh thượng đế.
Xuất phát từ thế giới quan và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin về con người dựa trên những thành tựu khoa học. Những năm gần đây đã đề cập làm sáng tỏ khía cạnh chủ yếu con người là môt thực thể của xã hội mang bản chất xã hội cũng đồng thời là một thực thể của tự nhiên, một cấu trúc sinh vật học, vì thế con người có các yếu tố vật chất tinh thần cần thiết và những lợi ích cá nhân của chính nó. Khoa học ngày nay đã làm sáng tỏ những vấn đề thuộc các quy luật tự nhiên tác động trong con người như khám phá về gen là một ví dụ cụ thể . Và chính vì lẽ đó tìm ra những động cơ sâu xa để phát huy làm sáng tỏ nhận thức về vấn đề con người đó chính là hoạt động lao động của con người là nguồn gốc của nền văn minh vật chất và tinh thần, là nguồn gốc trực tiếp của sự hình thành ý thức trong lao động sản xuất sự quan hệ con người với sự phân công lao động, phân phối sản phẩm đó là những quan hệ nền tảng làm hình thành các quan hệ xã hội khác.
Từ những đặc điểm trên ta thấy không có một xã hội thuần tuý tồn tại độc lập bên ngoài cái bản tính sinh học của con người. Không có xã hội thuần tuý cũng như cái sinh học thuần tuý tồn tại độc lập tách rời nhau. Mà xã hội là một cách cho con người thỏa mái các nhu cầu về vật chất, tinh thần ngày càng cao hơn, văn mnh hơn làm cho sự tồn tại con người hợp lý hơn đó cũng lá mục đích hành vi của xã hội loài người.
Mối quan hệ trên nó đã biểu hiện bản chất sâu xa và bộc lộ thường xuyên trong mọi hành vi sống của con người. Chẳng hạn do nhận thức rõ mối quan hệ trên gần đây ở nhiều nước trên thế giới người ta đã đưa môn tình dục học vào giảng dạy ở các trưởng phổ thông nhằm tạo ra một định hướng giáo dục hợp lý khắc phục những mâu thuẫn nảy sinh do sự phát triển vượt trội của nhu cầu sinh lý của con người giúp họ xử lý đúng đắn vừa đáp ứng nhu cầu mang tính tự nhiên vừa phù hợp với các chừng mực xã hội xây dựng các giá trị đạo đức.
Với bản chất xã hội con người gắng bó chặt chẽ với nhau đến mức không thể tách rời nhau đồng thời lại là những cá nhân với ý nghĩa ngày càng đầy đủ những cá thể mang tính “ tự thị” ngày càng trọn vẹn lịch sử loài người đã phát triển trong sự thống nhất tác động qua lại lẫn nhau giữa các khuynh hướng giao lưu cộng đồng và tách biệt cá nhân ngày càng trở nên bền vững. Mặt khác mỗi con người càng tách biệt thành những cá nhân độc lập với nhau.
- Cơ cấu kinh tế là : nông, ngư nghiệp kết hợp với thương nghiệp dịch vụ.
- Kết cấu xã hội : có 3 dân tộc đó là kinh, người Hoa và người Khơme.
- Kết cấu cơ sơ hạ tầng : ở mức độ thấp.
Thực hiện Nghị quyết Đảng bộ khóa 9 về tập trung phát triển kinh tế xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn nhìn chung được quán triệt trong Đảng, cán bộ và nhân dân trong toàn huyện qua thời gian tổ chức thực hiện đã đạt được những kết quả như sau :
* Trên lĩnh vực sản xuất nông lâm ngư nghiệp :
- Diện tích sản xuất có tăng lên từ 340.000 ha lên 520.000 ha.
- Năng suất bình quân 3,8 – 4 tấn/ha
- Thương nghiệp dịch vụ có trên 2.500 hộ sản xuất mua bán kinh doanh dịch vụ các loại.
- Bình quân thu nhập đầu người trung bình 2,5 – 3 triệu/ người/ năm.
* Trên lĩnh vực văn hóa xã hội :
- Hệ thống ý tế giáo dục được phân bố đều khắp trên các đơn vị cơ sở, các xã đều có trường cấp II và trung tâm ý tế.
- Các hoạt động văn hoá thể thao được xây dựng hoàn thành đưa vào hoạt động khá tốt. Tỷ lệ hộ gia đình văn hoá chiếm khoảng 60% trong toàn huyện.
- Giao thông đường bộ đã được phát triển từ trung tâm các xã đến huyện và có trên 30% dân số sử dụng điện cho sinh hoạt và sản xuất.
Nhìn chung những kết quả với hiện tại đã đạt được đó là sự phấn đấu nỗ lực quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân huyện nhà. Đặc biệt là trong việc chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu kinh tế – kết hợp giữa cây và con – đã có tác động to lớn. Từ sản xuất thuần nông đã chuyển sang sản xuất kết hợp, xoá bỏ thế độc canh cây lúa và bên cạnh đó từ việc nông nghiệp thâm canh, các loại hình thương nghiệp dịch vụ cũng được khuyến khích. Nếu so với một hai năm trước đây thì sức phát triển kinh tế có phần tăng lên đáng kể, đời sống nhân dân được nâng lên một bước về vật chất lẫn tinh thần.
Song bên cạnh đóvẫn còn tồn tại một số vấn đề cơ bản sau :
- Trên lĩnh vực chỉ đạo phát triển kinh tế chưa có nhiều giải pháp đột phá, chưa tập trung khai thác những tiềm năng lợi thế trong sản xuất.
- Đầu tu cho việc ứng dụng các thành tưu khoa học vào sản xuất còn kém.
- Chủ trương giải pháp còn 1 số khâu thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa kinh tế và văn hoá xã hội, đặc biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội còn tăng kém. Hệ thống lộ giao thông còn nhiều điều bất cập; trình độ dân trí còn nhiều hạn chế.
- Giải quyết vấn đề lao động chưa được quan tâm. Tỷ lệ hộ cùng kiệt khó còn khá cao, chiếm khoảng 20%. Bên cạnh đó còn có một số vấn đề khác về tệ nạn xã hội có chiều hướng phát sinh. Mô hình ấp văn hoá còn nhiều bất cập, chất lượng chưa cao.
B/ -Định hướng và giải pháp:
Từ thực trạng như đã nêu trên, vấn đề pháp triển kinh tế xã hội nó không đơn giản chỉ ở một góc độ đơn thuần mà nó còn phải liên quan đến từ nhiều vấn đề khác nhau. Song từ thực trạng trên để có sự phát triển bền vững cần tập trung vào một số giải pháp sau :
- Một là : Xem xét lại cơ cấu kinh tế, hạ thấp dần tỷ lệ sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ lệ thương nghiệp dịch vụ, nuôi trồng đáng bắt thuỷ sản. Đi đôi với việc sắp xếp sản xuất. Phải có biện pháp chỉ đạo kết hợp đồng bộ giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
- Hai là: Phải có quy hoạch từng nơi từng vùng theo đặc điểm cụ thể và phải xây dựng một cơ chế đầu tư thích hợp cho từng mô hình sản xuất cụ thể, tránh đầu tư tràn lan kém hiệu qủa.
- Ba là: Tăng cường công tác khuyến nông, khuyến ngư. Tổ chức học tập cho bà con nông dân về kỷ thuật canh tác và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bên cạnh đó tiếp tục đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật để đảm bảo phục vụ phát triển kinh tế cho trước mắt cũng như lâu dài.
- Bốn là : Chủ trương sản xuất phân hướng vào phát triển sản xuất hàng hoá, khuyến khích nhân dân phát triển đa dạng các mô hình kết hợp giữa cây và con. Đặc biệt là xây dựng mô hình kinh tế hợp tác, nhân rộng điển hình các nhân tố tích cực làm ăn có hiệu quả.
- Năm là : Từ sự phát triển kinh tế tăng cường tranh thủ huy động các nguồn lực cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như điện đường, trường, trạm. Tạo mọi điều kiện môi trường thu hút động viên cán bộ khoa học về công tác ở địa phương.
- Sáu là : Tăng cường mọi giải pháp thực hiện có hiệu quả chủ trương xoá đói giảm cùng kiệt cho nhân dân. Khuyến khích đầu tư mở rộng ngành nghề nhằm giải quyết vấn đề lao động.
- Bảy là : Kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt là ở xã, thị trấn. Quan tâm chú trọng công tác vận động quần chúng, xem nhiệm vụ vận động quần chúng là nhiệm vụ thường xuyên liên tục, là nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền các chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước và Các chỉ thị, Nghị quyết của địa phương đến tận quần chúng nhân dân. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở theo tinh thần chỉ thị 30CT TN – và Nghị định 29CP của chính phủ. Thực hiện tốt phương châm : dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Hướng các hoạt động phải vì lợi ích của nhân dân. Có như thế mới có thể tạo động lực thực hiện đạt được yêu cầu nhiệm vụ chính trị đề ra.
KẾT LUẬN
Từ quan điểm học thuyết Mác Lênin về con người và vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử đã chỉ a cho chúng ta thấy sự hình thành và phát triển của xã hội loài người và vai trò của họ trong lịch sử xã hội, với mối quan hệ ràng buộc giữa cá nhân và cộng đồng xã hội, làm sáng tỏ những nhân tố tác động cơ bản đến các cuộc cách mạng khi xã hội có giai cấp.
Với quan điểm nêu trên đó là cơ sở lý luận và thực tiễn rất cụ thể nhằm giúp cho mỗi Đảng của giai cấp vô ản cũng như mọi giới lãnh đạo nhận thấy được vị trí vai trò và tầm quan trọng của con người, của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Chính vì lẽ đó vận dụng quan điểm Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình cách mạng thực tiễn đã rút ra bài học “ lấy dân làm gốc” là hoàn toàn đúng dựa trên cơ sở khoa học và khách quan. Vì thế có thể có thể khẳng định rằng bài học lấy dân làm gốc là một đường lối sách lược hàng đầu trong quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng ta. Có nghĩa là nhằm quy tựu sức mạnh tổng hợp tạo thành một động lực và nền tảng vững vàng cho quá trình xây dựng cũng như bảo vệ tổ quốc.
Vì vậy ngày nay trong quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc đổi mới và quá trình hội nhập kinh tế thế giới thì bài học lấy dân làm gốc của Đảng ta càng có ý nghĩa quan trọng hơn, đòi hỏi mọi sự hoạt động của Đảng phải xuất phát từ tâm tư ý chí, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của quần chúng nhân dân. Mọi cán bộ đảng viên phải biết dựa vào dân và nắm lấy dân, hướng dẫn dìu dắt nhân dân, giáo dục họ để họ nhận thức và tự giác theo đường lối cách mạng của Đảng.
Song song bên cạnh đó phải tăng cường xây dựng củng cố hệ thống chính trị ở địa phương, phải thật sự quan tâm và xem công tác vận động quần chúng là công tác trọng tâm thường xuyên liên tục.
Kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện sai lệch tha hoá sa sút ý chí chiến đấu trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên cũng như các hiện tượng quan liêu của quyền hống hách, xa rời thực tế, xa rời quần chúng nhân dân.
Thực hiện đúng cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, xây dựng tốt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, quy tựu được khối Đại đoàn kết dân tộc để đảm bảo thực hiện thắng lợi công cuộc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đã đề ra với mục tiêu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
* KIẾN NGHỊ
Ngày nay đất nước ta đang trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đưa đất nước đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Nhân tố con người là một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất. Chính vì thế đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải có một cơ chế chính sách đào tạo cán bộ, đặc biệt hơn là cấp cơ sở xã, phường, thị trấn. Đi đôi với vần đề đào tạo là chế độ đãi ngộ nhằm đảm bảo cho các yêu cầu hoạt động trước mắt cũng như lâu dài, cần xem xét quan tâm hơn nữa về mọi mặt trong việc xây dựng phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân đặc biệt là vùng nông thôn, vùng căn cứ kháng chiến. Cụ thể là : quan tâm xây dựng quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế xã hội cho từng địa phương, cơ sở. Có một cơ chế chính sách đầu tư thích đáng cho sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn như : điện, đường, trường học, trạm y tế. Trong đó vấn đề quan trọng là phát triển mạng lưới trường phổ thông trung học và dạy nghề. Nhằm nâng cao trình độ văn hoá, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con em nhân dân được học tập dễ dàng, mặt khác cũng nhằm nâng cao trình độ dân trí, tạo nguồn lực cho trước mắt cũng như lâu dài để đáp ứng theo yêu cầu chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: tầm quan trọng của quần chúng nhân dân, quan điểm mac leenin về vi trí vai trò của công tác vận động quần chúng, tư tưởng mác - lênin về vai trò của quần chúng, tư tưởng mác về vai trò của quần chúng, theo em thì vai trò của quần chúng nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Lời mở đầu triết về lịch sử về con người và vai trò của quần chúng nhân dân, kết uận về QUAN ĐIỂM DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN, quan điểm lê nin về phát huy vai trò quần chúng, con người khác con vật chổ nào, các ví dụ về quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử về bản chất con người để nhận định những giá trị tích cực trong công cuộc xây dựng xã hộ, về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, bản chất của con người và vai trò quần chúng nhân dân trong sự phát triển triết học mác lê-nin, ý nghĩa phương pháp luận về vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử, lý thueyets về con người và bản chất con người triết, phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và liên hệ thực tiễn để làm sáng tỏ vai trò đó
Last edited by a moderator: