thang_ha69
New Member
Chuyên đề Bộ công cụ dệt may của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai
Trong quy trình dệt vải và cắt may trang phục của người Mông ở Cát Cát có một công đoạn làm tăng độ bóng cho vải. Đó là công đoạn lăn vải. Đây không phải là một công đoạn chính, không có tác dụng làm hình thành nên miếng vải đen truyền thống mà chỉ nhằm trang trí cho một loại vải cổ truyền thường được dùng để may trang phục mặc ngoài (áo khoác) dùng để mặc đi chơi, mặc trong đám cưới, đám hội và mặc cho người chết. Bộ công cụ lăn vải của người Mông ở Cát Cát gồm có thớt lăn vải (changr đauk qưr ntuôx) và đá lăn vải (poz jez qưr ntuôx).
Thớt lăn vải giống thớt lăn sợi về chất liệu tạo thành, chỉ khác về kiểu dáng và kích thước. Thớt lăn vải được làm từ một nửa thân gỗ bổ dọc nên một mặt có dạng vồng tròn; mặt còn lại thì có dạng phẳng và được tạo chân. Chiều dài của thớt là 65 cm; ngang 40 cm; dầy 20 cm. Tại tâm điểm của mặt phẳng, người ta đo đều về hai bên - mỗi bên 6 cm và cũng tại tâm điểm ấy đo thẳng lên trên một góc 450 với chiều cao của đường đo này là 7 cm. Ba điểm đo rồi được đánh dấu ấy là điểm người ta căn để tạo chân thớt bằng cách khoét rỗng lõi, để lại hai rìa cạnh (hai chân). Lõi thớt được khoét theo dạng vồng lên trên. Bề rộng của lõi là 12 cm; cao 7 cm. Mỗi chân thớt rộng 4 cm. Mặt thớt dày 13 cm. Chân thớt có tác dụng làm cho thớt được vững chãi hơn, khi thao tác sẽ không bị ngả nghiêng do gặp đất lồi lõm.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Giá đỡ trục cuốn sợi cũng được làm cùng loại gỗ với thân khung dệt. Giá đỡ gồm có 2 thanh gỗ dài 30 cm, đầu lượn tù tròn và thuôn nhỏ dần về cuối (Phần đầu rộng 7 cm; phần cuối rộng 5 cm; dầy 1,8 cm) được dóng từ thân khung (bằng kỹ thuật chui mộng). Phía đầu mỗi thanh có 1 lỗ tròn tạo thành cặp lỗ đối xứng để lắp thanh ngang. Mỗi lỗ có đường kính 3 cm. Tâm lỗ tròn cách đầu thanh ngang ≈ 4 cm, cách cạnh trên và cạch dưới đều ≈ 2 cm. Một bộ phận nằm trên giá đỡ trục cuốn sợi nhưng lại có chức năng tác động đến dây kéo cần nâng sợi chính là thanh ngang. Vì chức năng của thanh ngang là làm mốc giữ cho dây kéo cần nâng sợi ở khoảng cách hợp lý để không bị vướng vào sợi trong quá trình thao tác. Vì thế, người ta phải chế tác sao cho khi lắp đặt và vận hành, thanh ngang có thể quay trơn tru khi dây kéo cần nâng sợi trượt qua trượt lại (do tác động của lực kéo của chân). Thanh ngang có hình trụ tròn dài (dài 50 cm; đường kính 4 cm). Hai đầu thanh ngang được gọt dũa tạo thành 2 ống trục (đường kính ≈ 2 cm; dài 2 cm) để lắp vào hai lỗ tròn của hai thanh dọc dóng ra từ thân khung dệt.
3.2.2. Trục cuốn sợi (chênhx ntus)
Trục cuốn sợi có chức năng để giữ sợi trên khung dệt. Khi muốn mắc sợi vào khung, người phụ nữ Mông sẽ phải đặt sợi vào bộ phận này trước. Kỹ thuật lắp sợi (không kể đến số sợi) được thực hiện theo phương pháp cuộn tròn từ trong ra ngoài theo hướng ngược chiều kim đồng hồ để khi lắp xong, làn sợi dọc sẽ quay ra phía ngoài khung dệt. Đồng thời, ở mỗi tầng sợi, người ta phải lắp các cặp phân cách để tách các phần sợi không cho chúng rối vào nhau (một thanh đặt trên, một thanh đặt dưới điểm trung tâm là lõi trục).
Với kỹ thuật lắp sợi như trên. Bộ trục cuốn sợi sẽ có cấu tạo và kỹ thuật chế tác sao cho thích hợp. Trục cuốn sợi do đó sẽ có 2 bộ phận chủ yếu. Đó là lõi trục và các thanh phân cách.
Lõi trục cuốn sợi là một miếng gỗ có hình chữ H chạy dài theo chiều ngang làm cho nó được phân thành 3 đoạn rõ rệt. Lõi trục cuốn sợi có kích thước: dày 3 cm; rộng 5 cm, dài 75 cm. Chiều dài được chia đều cho 3 đoạn, mỗi đoạn dài 25 cm.
Các thanh phân cách ở trục cuốn sợi được làm đơn giản. Do đây chỉ là những cấu kiện tạm thời, dễ dàng thay thế nếu cần nên chúng chỉ được làm bằng các thanh tre hay cành que nhỏ to cỡ bằng một ngón tay. Mỗi thanh phân cách có chiều dài ≈ 27 – 28 cm. Do kỹ thuật xếp sợi ngang nêu trên nên trên trục cuốn sợi có bao nhiêu tầng sợi thì sẽ có bấy nhiêu cặp thanh phân cách.
3.2.3. Bộ cần nâng sợi (gangz ntus)
Cần nâng sợi có chức năng tách một tầng sợi để cho chúng tách xa ra khỏi tầng sợi còn lại trong quá trình vận hành của khung dệt, tạo điều kiện thuận lợi cho con thoi chạy qua chạy lại xen vào giữa hai làn sợi dọc để đưa sợi ngang đan đi đan lại liên tục thay đổi trình tự lượt trên - lượt dưới để tạo thành tấm vải (kỹ thuật đan theo lóng). Cần nâng sợi được cấu tạo bởi 04 thanh gỗ mỏng ghép lại với nhau bằng kỹ thuật chui mộng và được ghép với thân khung dệt bằng kỹ thuật buộc dây (khi khlôz).
Giữ ở vị trí trung tâm là một thanh gỗ cùng một loại gỗ với khung dệt. Miếng gỗ này có dày hay mỏng, tròn hay dẹt đều được. Chiều dài của nó thường là 41 cm. Ở giữa thanh ngang, người ta đục một lỗ mộng để lắp cần giật. Cách lỗ mộng cần giật đều về hai bên 11 cm, người ta đục 2 lỗ mộng khác để lắp 2 cần nâng.
Cần nâng và 2 cần nâng sợi có hình dáng, kích thước tương đối giống nhau. Chúng cũng được làm bằng cùng một loại gỗ với khung dệt. Về hình dáng, chúng có dạng mỏng, dẹt. Phần đáy nở to và thuôn nhỏ dần về phía trước. Đầu cần được đẽo gọt cho nở to ra tạo thành hình tròn hay bầu dục (tính tương đối) tạo thành đầu khấc có tác dụng như một mắt khoá để ngăn không cho dây buộc tuột ra trong quá trình vận hành. Về kích thước, mỗi chiếc cần có chiều dài khoảng 20 – 22 cm (có khi chiều dài của chúng lên tới 25 – 26 cm), dầy 1 cm. Phần đáy nở to ≈ 3 cm, càng về phía trước càng thuôn nhỏ dần. Sát với đầu khấc, thân cần nhỏ chỉ còn ≈ 1,2 cm. Ở đầu khấc, bề mặt của nó bất chợt nở rộng, đoạn phình nhất ≈ 2 cm.
Sau khi đẽo, gọt và lắp ghép với nhau, người ta lắp bộ cần nâng sợi vào thân khung dệt bằng kỹ thuật buộc dây. Dây buộc được bố trí ở hai đầu thanh gỗ mỏng, dẹt tạo thành hai đầu buộc đối xứng. Một đầu dây nối với thanh gỗ dẹt của bộ cần nâng sợi; đầu dây còn lại được buộc vào thân thanh gỗ giằng ngang phía trên thân khung dệt. Người ta phải buộc sao cho độ dài - ngắn của hai dây ở hai đầu bằng nhau. Điều này có tác dụng làm cho bộ cần nâng sợi có được tư thế thăng bằng, không bị nghiêng, không bị lệch.
Ở đầu cần giật, người ta buộc vào đó đầu của đoạn dây kéo cần nâng sợi. Dây kéo cần giật thường được làm bằng song hay mây (Ngày nay, người ta thay bằng dây ni lông). Dây có chiều dài ≈ 1,7 m. Một đầu dây được buộc với cần nâng. Thân dây được luồn từ cần nâng cho chạy xuống dưới – phía đằng sau thân khung, qua thanh trượt – thanh ngang đặt ở giá đỡ trục cuốn sợi rồi chạy luồn xuống dưới khung dệt. Đầu dây còn lại được buộc lại tạo thành vòng để xỏ vào chân người dệt tạo thành chức năng như một bàn đạp.
Ở đầu hai cần nâng, người ta buộc vào đó hai đoạn dây ngắn - gọi là dây nâng sợi. Dây này cũng được làm từ chất liệu truyền thống nhưng nhỏ hơn dây kéo cần nâng sợi. Dây nâng sợi to cỡ bằng chiếc đũa hay có thể nhỏ hơn một chút. Khi được buộc vào cần và lược chia sợi, mỗi đoạn dây nâng sợi có chiều dài ≈ 25 cm. Đặc biệt, hai đoạn dây nâng cần bằng nhau tuyệt đối. Có như vậy thì chúng mới có thể kéo cho lược chia sợi nâng lên hay hạ xuống đều được ở cả hai bên, các làn sợi nhờ đó mà được tách đều, không bị nghiêng, không bị lệch, con thoi vì thế cũng chạy qua chạy lại được dễ dàng hơn.
3.2.4. Cái dập sợi (duôx)
Cái dập sợi còn có thể gọi là lược dập sợi bởi trong thành phần cấu tạo của chúng có các nan khít đều nhau trông giống như răng lược. Cái dập sợi trong bộ khung dệt của người Mông ở Cát Cát có 2 loại phân biệt theo số nan và kích thước. Loại nhỏ dù...
Download Chuyên đề Bộ công cụ dệt may của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai miễn phí
Trong quy trình dệt vải và cắt may trang phục của người Mông ở Cát Cát có một công đoạn làm tăng độ bóng cho vải. Đó là công đoạn lăn vải. Đây không phải là một công đoạn chính, không có tác dụng làm hình thành nên miếng vải đen truyền thống mà chỉ nhằm trang trí cho một loại vải cổ truyền thường được dùng để may trang phục mặc ngoài (áo khoác) dùng để mặc đi chơi, mặc trong đám cưới, đám hội và mặc cho người chết. Bộ công cụ lăn vải của người Mông ở Cát Cát gồm có thớt lăn vải (changr đauk qưr ntuôx) và đá lăn vải (poz jez qưr ntuôx).
Thớt lăn vải giống thớt lăn sợi về chất liệu tạo thành, chỉ khác về kiểu dáng và kích thước. Thớt lăn vải được làm từ một nửa thân gỗ bổ dọc nên một mặt có dạng vồng tròn; mặt còn lại thì có dạng phẳng và được tạo chân. Chiều dài của thớt là 65 cm; ngang 40 cm; dầy 20 cm. Tại tâm điểm của mặt phẳng, người ta đo đều về hai bên - mỗi bên 6 cm và cũng tại tâm điểm ấy đo thẳng lên trên một góc 450 với chiều cao của đường đo này là 7 cm. Ba điểm đo rồi được đánh dấu ấy là điểm người ta căn để tạo chân thớt bằng cách khoét rỗng lõi, để lại hai rìa cạnh (hai chân). Lõi thớt được khoét theo dạng vồng lên trên. Bề rộng của lõi là 12 cm; cao 7 cm. Mỗi chân thớt rộng 4 cm. Mặt thớt dày 13 cm. Chân thớt có tác dụng làm cho thớt được vững chãi hơn, khi thao tác sẽ không bị ngả nghiêng do gặp đất lồi lõm.
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
còn phải đo và đánh dấu các điểm đặt cấu kiện. Các cấu kiện được lắp ráp với khung bằng kỹ thuật chui mộng (trxâux). Trên thân khung có 3 cặp mộng đối xứng. Trong đó, hai đôi mộng trên và dưới dùng để lắp hai thanh ngang có tác dụng làm vật giằng cho thân khung. Đôi mộng ở giữa là để người ta lắp giá đỡ trục cuốn sợi. Theo cách tính truyền thống. Cặp mộng dưới cùng được đánh dấu ở điểm cách đất ≈ 6 – 7 cm. Cặp mộng trên cùng được đánh dấu ở điểm cách đỉnh ≈ 4 – 5 cm. Cặp mộng ở giữa cách cặp mộng dưới cùng 55 cm và cách cặp mộng trên cùng 80 cm. Sau khi đã đánh dấu, người ta dùng búa và đục để đục lỗ mộng (trxâux khaor). Lỗ mộng ở thân khung dệt của người Mông thường có tiết diện 2 x 5 cm. Chiều sâu của lỗ mộng phụ thuộc vào chiều dầy của thân khung (≈ 5 cm).Giá đỡ trục cuốn sợi cũng được làm cùng loại gỗ với thân khung dệt. Giá đỡ gồm có 2 thanh gỗ dài 30 cm, đầu lượn tù tròn và thuôn nhỏ dần về cuối (Phần đầu rộng 7 cm; phần cuối rộng 5 cm; dầy 1,8 cm) được dóng từ thân khung (bằng kỹ thuật chui mộng). Phía đầu mỗi thanh có 1 lỗ tròn tạo thành cặp lỗ đối xứng để lắp thanh ngang. Mỗi lỗ có đường kính 3 cm. Tâm lỗ tròn cách đầu thanh ngang ≈ 4 cm, cách cạnh trên và cạch dưới đều ≈ 2 cm. Một bộ phận nằm trên giá đỡ trục cuốn sợi nhưng lại có chức năng tác động đến dây kéo cần nâng sợi chính là thanh ngang. Vì chức năng của thanh ngang là làm mốc giữ cho dây kéo cần nâng sợi ở khoảng cách hợp lý để không bị vướng vào sợi trong quá trình thao tác. Vì thế, người ta phải chế tác sao cho khi lắp đặt và vận hành, thanh ngang có thể quay trơn tru khi dây kéo cần nâng sợi trượt qua trượt lại (do tác động của lực kéo của chân). Thanh ngang có hình trụ tròn dài (dài 50 cm; đường kính 4 cm). Hai đầu thanh ngang được gọt dũa tạo thành 2 ống trục (đường kính ≈ 2 cm; dài 2 cm) để lắp vào hai lỗ tròn của hai thanh dọc dóng ra từ thân khung dệt.
3.2.2. Trục cuốn sợi (chênhx ntus)
Trục cuốn sợi có chức năng để giữ sợi trên khung dệt. Khi muốn mắc sợi vào khung, người phụ nữ Mông sẽ phải đặt sợi vào bộ phận này trước. Kỹ thuật lắp sợi (không kể đến số sợi) được thực hiện theo phương pháp cuộn tròn từ trong ra ngoài theo hướng ngược chiều kim đồng hồ để khi lắp xong, làn sợi dọc sẽ quay ra phía ngoài khung dệt. Đồng thời, ở mỗi tầng sợi, người ta phải lắp các cặp phân cách để tách các phần sợi không cho chúng rối vào nhau (một thanh đặt trên, một thanh đặt dưới điểm trung tâm là lõi trục).
Với kỹ thuật lắp sợi như trên. Bộ trục cuốn sợi sẽ có cấu tạo và kỹ thuật chế tác sao cho thích hợp. Trục cuốn sợi do đó sẽ có 2 bộ phận chủ yếu. Đó là lõi trục và các thanh phân cách.
Lõi trục cuốn sợi là một miếng gỗ có hình chữ H chạy dài theo chiều ngang làm cho nó được phân thành 3 đoạn rõ rệt. Lõi trục cuốn sợi có kích thước: dày 3 cm; rộng 5 cm, dài 75 cm. Chiều dài được chia đều cho 3 đoạn, mỗi đoạn dài 25 cm.
Các thanh phân cách ở trục cuốn sợi được làm đơn giản. Do đây chỉ là những cấu kiện tạm thời, dễ dàng thay thế nếu cần nên chúng chỉ được làm bằng các thanh tre hay cành que nhỏ to cỡ bằng một ngón tay. Mỗi thanh phân cách có chiều dài ≈ 27 – 28 cm. Do kỹ thuật xếp sợi ngang nêu trên nên trên trục cuốn sợi có bao nhiêu tầng sợi thì sẽ có bấy nhiêu cặp thanh phân cách.
3.2.3. Bộ cần nâng sợi (gangz ntus)
Cần nâng sợi có chức năng tách một tầng sợi để cho chúng tách xa ra khỏi tầng sợi còn lại trong quá trình vận hành của khung dệt, tạo điều kiện thuận lợi cho con thoi chạy qua chạy lại xen vào giữa hai làn sợi dọc để đưa sợi ngang đan đi đan lại liên tục thay đổi trình tự lượt trên - lượt dưới để tạo thành tấm vải (kỹ thuật đan theo lóng). Cần nâng sợi được cấu tạo bởi 04 thanh gỗ mỏng ghép lại với nhau bằng kỹ thuật chui mộng và được ghép với thân khung dệt bằng kỹ thuật buộc dây (khi khlôz).
Giữ ở vị trí trung tâm là một thanh gỗ cùng một loại gỗ với khung dệt. Miếng gỗ này có dày hay mỏng, tròn hay dẹt đều được. Chiều dài của nó thường là 41 cm. Ở giữa thanh ngang, người ta đục một lỗ mộng để lắp cần giật. Cách lỗ mộng cần giật đều về hai bên 11 cm, người ta đục 2 lỗ mộng khác để lắp 2 cần nâng.
Cần nâng và 2 cần nâng sợi có hình dáng, kích thước tương đối giống nhau. Chúng cũng được làm bằng cùng một loại gỗ với khung dệt. Về hình dáng, chúng có dạng mỏng, dẹt. Phần đáy nở to và thuôn nhỏ dần về phía trước. Đầu cần được đẽo gọt cho nở to ra tạo thành hình tròn hay bầu dục (tính tương đối) tạo thành đầu khấc có tác dụng như một mắt khoá để ngăn không cho dây buộc tuột ra trong quá trình vận hành. Về kích thước, mỗi chiếc cần có chiều dài khoảng 20 – 22 cm (có khi chiều dài của chúng lên tới 25 – 26 cm), dầy 1 cm. Phần đáy nở to ≈ 3 cm, càng về phía trước càng thuôn nhỏ dần. Sát với đầu khấc, thân cần nhỏ chỉ còn ≈ 1,2 cm. Ở đầu khấc, bề mặt của nó bất chợt nở rộng, đoạn phình nhất ≈ 2 cm.
Sau khi đẽo, gọt và lắp ghép với nhau, người ta lắp bộ cần nâng sợi vào thân khung dệt bằng kỹ thuật buộc dây. Dây buộc được bố trí ở hai đầu thanh gỗ mỏng, dẹt tạo thành hai đầu buộc đối xứng. Một đầu dây nối với thanh gỗ dẹt của bộ cần nâng sợi; đầu dây còn lại được buộc vào thân thanh gỗ giằng ngang phía trên thân khung dệt. Người ta phải buộc sao cho độ dài - ngắn của hai dây ở hai đầu bằng nhau. Điều này có tác dụng làm cho bộ cần nâng sợi có được tư thế thăng bằng, không bị nghiêng, không bị lệch.
Ở đầu cần giật, người ta buộc vào đó đầu của đoạn dây kéo cần nâng sợi. Dây kéo cần giật thường được làm bằng song hay mây (Ngày nay, người ta thay bằng dây ni lông). Dây có chiều dài ≈ 1,7 m. Một đầu dây được buộc với cần nâng. Thân dây được luồn từ cần nâng cho chạy xuống dưới – phía đằng sau thân khung, qua thanh trượt – thanh ngang đặt ở giá đỡ trục cuốn sợi rồi chạy luồn xuống dưới khung dệt. Đầu dây còn lại được buộc lại tạo thành vòng để xỏ vào chân người dệt tạo thành chức năng như một bàn đạp.
Ở đầu hai cần nâng, người ta buộc vào đó hai đoạn dây ngắn - gọi là dây nâng sợi. Dây này cũng được làm từ chất liệu truyền thống nhưng nhỏ hơn dây kéo cần nâng sợi. Dây nâng sợi to cỡ bằng chiếc đũa hay có thể nhỏ hơn một chút. Khi được buộc vào cần và lược chia sợi, mỗi đoạn dây nâng sợi có chiều dài ≈ 25 cm. Đặc biệt, hai đoạn dây nâng cần bằng nhau tuyệt đối. Có như vậy thì chúng mới có thể kéo cho lược chia sợi nâng lên hay hạ xuống đều được ở cả hai bên, các làn sợi nhờ đó mà được tách đều, không bị nghiêng, không bị lệch, con thoi vì thế cũng chạy qua chạy lại được dễ dàng hơn.
3.2.4. Cái dập sợi (duôx)
Cái dập sợi còn có thể gọi là lược dập sợi bởi trong thành phần cấu tạo của chúng có các nan khít đều nhau trông giống như răng lược. Cái dập sợi trong bộ khung dệt của người Mông ở Cát Cát có 2 loại phân biệt theo số nan và kích thước. Loại nhỏ dù...