onlylove260287
New Member
Download Tiểu luận Địa vị pháp lý của người bào chữa trong luật tố tụng hình sự miễn phí
MỤC LỤC:
A. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1
I.Khái quát chung về chế định người bào chữa: 1
1.Tại sao phải đặt ra chế định người bào chữa: 1
2.Khái niệm người bào chữa: 1
3.Phân loại người bào chữa: 3
4.Địa vị pháp lý của người bào chữa: 4
II.Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa: 6
1.Quyền của người bào chữa: 6
2. Nghĩa vụ của người bào chữa: 8
4. Mối quan hệ giữa người bào chữa với bị can, bị cáo: 10
III.Thực trạng hoạt động của người bào chữa ở nước ta hiện nay: 12
IV.Một số kiến nghị: 13
C. KẾT LUẬN: 14
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho
Tóm tắt nội dung:
ề dân sự cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.Như đã trình bày, người bào chữa không có quyền và lợi ích trong vụ án hình sự. Việc họ tham gia tố tụng bất luận trong trường hợp nào cũng chỉ để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Cơ sở cho sự hiện diện của họ trong tố tụng hình sự xuất phát từ hợp đồng bào chữa giữa họ với người bị buộc tội (hay với người thay mặt hợp pháp của người bị buộc tội) và phải được sự chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp đặc biệt do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, nếu người bị buộc tội hay người thay mặt hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư cử người bào chữa cho họ và dĩ nhiên ngay trong trường hợp này sự tham gia của người bào chữa cũng phải được sự đồng ý của người bị buộc tội.
Từ những phân tích trên, có thể nói về khái niệm người bào chữa trong tố tụng hình sự như sau: “Người bào chữa trong tố tụng hình sự là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hay làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
3.Phân loại người bào chữa:
Điều 56, BLTTHS quy định về người bào chữa, bao gồm:
“a) Luật sư;
b) Người thay mặt hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Bào chữa viên nhân dân”.
Luật sư là người hoạt động bào chữa chuyên ngành hiệp hoạt động trong đoàn luật sư.
Người thay mặt của bị can, bị cáo có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa để bào vệ quyền và lợi ích của bị can bị cáo. Đây là trường hợp người thay mặt cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên hay có nhược điểm về thể chất hay tâm thần. Nếu bị can, bị cáo là người đủ 18 tuổi và không có nhược điểm gì về thể chất, tâm thần khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách bị can, bị cáo thì không có người thay mặt hợp pháp. Như vậy, chế định người thay mặt cho bị can, bị cáo chỉ được áp dụng đối với người phạm tội là người chưa thành niên hay người có nhược điểm về mặt tâm thần. Ví dụ: một hành vi phạm tội của bị can, bị cáo được thực hiện ở độ tuổi từ 14 đến dười 18 tuổi khi bại khởi tố bị can, cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chưa cho họ nếu như bị can hay gia đình bị can không mời người bào chữa, hay cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu gia đình cử người thay mặt hợp pháp tham gia trong suốt các giai đoạn tố tụng. Nếu thiếu người thay mặt hợp pháp khi tham gia tố tụng hay có người thay mặt hợp pháp của bị can, bị cáo mà không có chữ ký của họ trong biên bản hỏi cung của bị can thì biên bản đó không có giá trị.
Viện kiểm sát có quyền kiểm sát việc tuân theo Pháp luật của cơ quan điều tra trong hoạt động tố tụng của họ. Tại khoản 3, Điều132, BLTTHS quy định: “Khi hỏi cung có mặt người bào chữa, người thay mặt hợp pháp của bị can thì Điều tra viên phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ trong khi hỏi cung bị can. Bị can, người bào chữa, người thay mặt hợp pháp cùng ký vào biên bản hỏi cung”.
Bào chữa viên nhân dân: hiện nay được coi là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho bị can, bị cáo. Hoạt động của bào chữa viên nhân dân không mang tính chuyên nghiệp mà mang tính nghiệp dư.
Thực tế pháp luật quy định ba đối tượng trên đều là người bào chữa, nhưng trên thực tế, thông thường, luật sư là người xuất hiện nhiều nhất. Bởi xét cho cùng, trong ba đối tượng trên, luật sư là người có trình độ va hiểu biết pháp luật tốt hơn cả. Họ là người không liên quan đến bị can, bị cáo cũng như tòa án, vì vậy, họ có thể làm tốt công việc của mình, vừa có thể giúp bị can, bị cáo gỡ tội, vừa đảm bảo đúng pháp luật.
4.Địa vị pháp lý của người bào chữa:
Nói đến người bào chữa trong tố tụng hình sự không thể không nói đến địa vị pháp lý của họ. Về vấn đề này cũng có nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng người bào chữa là người giúp đỡ tòa án trong việc xác định những tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng tòa án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật.
Lại có quan điểm cho rằng người bào chữa trong tố tụng hình sự vừa là người thay mặt cho bị can, vừa là người tham gia tố tụng độc lập. Cơ sở của nhận định này xuất phát từ việc họ cho rằng người bào chữa không chỉ là người thay mặt cho tố tụng của bị can mà còn là người tham gia tố tụng độc lập, có thể đưa ra các quan điểm trong một số trường hợp mà không phụ thuộc vào ý chí của bị can.
Quan điểm khác lại cho rằng người bào chữa tham gia vào tố tụng hình sự với vị thế độc lập. Theo tôi, quan điểm này thuyết phục hơn cả.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo bằng những phương pháp, cách thức hợp pháp là một trong những nguyên tắc của tố tụng hình sự. Người bào chữa thể hiện vị trí tố tụng độc lập của mình cũng có nghĩa là người bào chữa không có quyền tuân theo những yêu cầu không hợp pháp, không có căn cứ của bị can, bị cáo.
Vị trí độc lập của người bào chữa trong tố tụng hình sự được xác định rõ bằng những quy phạm tố tụng hình sự trong đó chứa đựng những quyền và nghĩa vụ mà người bào chữa có như một chủ thể của tố tụng hình sự độc lập. Tại khỏa 3, điều 36, BLTTHS quy định người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sảng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, hay những tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ; giúp bị can bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Muốn thực hiện được các công việc trên, phải xác định được thời điểm bắt đầu cũng như thời điểm chấm dứt việc tham gia tố tụng của người bào chữa.
Xác định thời điểm bắt đầu hoạt động của người bào chữa trong tố tụng hình sự không chỉ đơn thuần là việc giải quyết theo tinh thần của cá quy phạm pháp luật tố tụng hình sự. trên thực tế, để xác định thời điểm đó cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Có người cho rằng hoạt động điều tra trước khi mở phiêm tòa là điều tra sơ bộ, là căn cứ để tiến hành các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Điều tra tại phiên tòa là điều tra công khai nhất, khách quan nhất. Vì thế bản án chủ yếu chỉ dựa trên những chứng cứ được xem xét tại phiên tòa. ..cho nên việc quy định thời điểm bắt đầu hoạt động của người bào chữa là từ giai đoạn khởi tố bị can là không thực sư cần thiết. Người bào chữa chỉ cần tham gia tố tụng từ khi có quyết định truy tố trước tòa án.
Xét về nguyên tắc khi nào quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo bị vi phạm thì họ đ...