Download Tiểu luận Logistics - Có hay không những thách thức và rào cản miễn phí





Những khó khăn và hạn chế trong luật pháp Việt Nam:
1. Về vấn đề giấy phép kinhdoanh (ĐKKD) logistics:
- Tổng quan: Rắc rối, rườm rà, nhiều khâu=> làm khó doanh nghiệp
- Chi tiết: Logistics là 1 ngành nghề kinh doanh có điều kiện nghĩa là ngoài GPKD, doanh nghiệp cần có thêm một số chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên các cơ quan chính phủ đã không hiểu hết được thực trạng,nguồn lợi to lớn mà logistics mang lại nên đã đặt ra những điều kiện mà doanh nghiệp khó lòng đáp ứng và đôi khi lại không cần thiết.
 Chủ doanh nghiệp sau khi đăng kí kinh doanh tại sở kế hoạch đầu tư phải xin được giấy phép kinh doanh đa cách của Bộ GTVT cấp, giấy phép đại lý làm thủ tục hải quan do cục Hải quan cấp, GPKD kho hải quan, điểm thông quan ngoài khu vực cửa khẩu và cảng cạn.
 Một số chứng từ trong hồ sơ xin phép DN phải xuất trình được "bản kê khai tài sản doanh nghiệp do cơ quan tài chính quản lý doanh nghiệp xác nhận". trong khi đó thực tế ở Việt Nam ;đặc biệt khu vực tư nhân không có cơ quan này
 Để đủ điều kiện làm đại lý hải quan DN phải có một nhân viên làm trong lĩnh vực hải quan (được cấp chứng chỉ nghiệp vụ hải quan sau khi tham gia 1 khóa học do cơ quan hải quan tổ chức)
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ĐỀ TÀI: LOGISTICS- CÓ HAY KHÔNG NHỮNG THÁCH THỨC VÀ RÀO CẢN
Ông Trần Văn Thanh hiện đang có trong tay một số vốn là 20 tỷ đồng và muốn thành lập một công ty kinh doanh về việc vận chuyển kho bãi...còn gọi là dịch vụ logistics. Tuy nhiên, ông còn có nhiều thắc mắc xung quanh những qui định của pháp luật dành cho loại hình kinh doanh này. Thắc mắc trên đã được ông mang đến văn phòng luật sư Hoàng Minh Duy. Và sau đây, chúng ta cùng theo dõi cuộc trao đổi giữa luật sư Duy và ông Thanh.
Ông Thanh:” Trước tiên, tui muốn hiểu rõ logistics là gì và những điều kiện cần có để kinh doanh dịch vụ này.”
Luật sư:
Theo điều 233 luật Thương mai: dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hay nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển,lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hay các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao.
Điều kiện cần có để kinh doanh dịch vụ này:
1.Đối với thương nhân kinh doanh các loại dịch vụ logistics chủ yếu: 
Thương nhân kinh doanh các loại dịch vụ logistics chủ yếu phải đáp ứng các điều kiện: phải là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam; có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu. Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics ngoài việc đáp ứng các điều kiện trên, chỉ được kinh doanh các dịch vụ logistics khi tuân theo những điều kiện cụ thể sau đây:
Trường hợp kinh doanh dịch vụ bốc dỡ hàng hoá thì chỉ được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 50%.
Trường hợp kinh doanh dịch vụ kho bãi thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%; hạn chế này chấm dứt vào năm 2014.
Trường hợp kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, được thành lập công ty liên doanh không hạn chế tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài kể từ năm 2014.
Trường hợp kinh doanh dịch vụ bổ trợ khác thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; hạn chế này là 51% kể từ năm 2010 và chấm dứt hạn chế vào năm 2014.
2. Đối với thương nhân kinh doanh các dịch vụ logistic liên quan đến vận tải.
Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic liên quan đến vận tải phải đáp ứng các điều kiện sau đây: Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam; tuân thủ các điều kiện về kinh doanh vận tải theo quy định của pháp luật Việt Nam. Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định trên chỉ được kinh doanh các dịch vụ logistics khi tuân theo những điều kiện cụ thể sau đây: 
Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hải thì chỉ được thành lập công ty liên doanh vận hành đội tàu từ năm 2009, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; được thành lập liên doanh cung cấp dịch vụ vận tải biển quốc tế trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, hạn chế này chấm dứt vào năm 2012. 
Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải thuỷ nội địa thì chỉ được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%. 
Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng không thì thực hiện theo quy định của Luật hàng không dân dụng Việt Nam. 
Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường sắt thì chỉ được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%. 
Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường bộ thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; hạn chế này là 51% kể từ năm 2010.
Không được thực hiện dịch vụ vận tải đường ống, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác. 
3. Đối với thương nhân kinh doanh các loại dịch vụ logistics liên quan khác.
Thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc liên quan khác phải là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam . Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics chỉ được kinh doanh các dịch vụ logistics khi tuân theo những điều kiện cụ thể sau đây: 
Trường hợp kinh doanh dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật: đối với những dịch vụ được cung cấp để thực hiện thẩm quyền của Chính phủ thì chỉ được thực hiện dưới hình thức liên doanh sau ba năm hay dưới các hình thức khác sau năm năm, kể từ khi doanh nghiệp tư nhân được phép kinh doanh các dịch vụ đó. Không được kinh doanh dịch vụ kiểm định và cấp giấy chứng nhận cho các phương tiện vận tải. Việc thực hiện dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật bị hạn chế hoạt động tại các khu vực địa lý được cơ quan có thẩm quyền xác định vì lý do an ninh quốc phòng. 
Trường hợp kinh doanh dịch vụ bưu chính, dịch vụ thương mại bán buôn, dịch vụ thương mại bán lẻ thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ.
Không được thực hiện các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Ông Thanh:” Vậy khi tham gia vào logistics thì thương nhân sẽ có những quyền và nghĩa vụ gì?”
Luật sư:
Luật Thương mại quy định: trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
Được hưởng thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách hàng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng, nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng.
Khi xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không thực hiện được một phần hay toàn bộ những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thông báo ngay cho khách hàng để xin chỉ dẫn.
Trường hợp không có thoả thuận về thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ với khách hàng thì phải thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thời hạn hợp lý.
Khi thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải tuân thủ các quy định của pháp luật và tập quán vận tải.
Ông Thanh: “Thế tui có phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những tổn thất trong quá trình tổ chức vận tải hay không?”
Luật sư:” Không hẳn là thế. Luật thương mại Việt Nam và Nghị định cũng có những qui định giới hạn trách nhiệm cùng một số trường hợp miễn trách nhiệm cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan về giới hạn trách nhiệm trong lĩnh vực vận tải. 
Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không ...
 

Ng M.Linh

New Member

Download Tiểu luận Logistics - Có hay không những thách thức và rào cản miễn phí





Những khó khăn và hạn chế trong luật pháp Việt Nam:
1. Về vấn đề giấy phép kinhdoanh (ĐKKD) logistics:
- Tổng quan: Rắc rối, rườm rà, nhiều khâu=> làm khó doanh nghiệp
- Chi tiết: Logistics là 1 ngành nghề kinh doanh có điều kiện nghĩa là ngoài GPKD, doanh nghiệp cần có thêm một số chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên các cơ quan chính phủ đã không hiểu hết được thực trạng,nguồn lợi to lớn mà logistics mang lại nên đã đặt ra những điều kiện mà doanh nghiệp khó lòng đáp ứng và đôi khi lại không cần thiết.
 Chủ doanh nghiệp sau khi đăng kí kinh doanh tại sở kế hoạch đầu tư phải xin được giấy phép kinh doanh đa cách của Bộ GTVT cấp, giấy phép đại lý làm thủ tục hải quan do cục Hải quan cấp, GPKD kho hải quan, điểm thông quan ngoài khu vực cửa khẩu và cảng cạn.
 Một số chứng từ trong hồ sơ xin phép DN phải xuất trình được "bản kê khai tài sản doanh nghiệp do cơ quan tài chính quản lý doanh nghiệp xác nhận". trong khi đó thực tế ở Việt Nam ;đặc biệt khu vực tư nhân không có cơ quan này
 Để đủ điều kiện làm đại lý hải quan DN phải có một nhân viên làm trong lĩnh vực hải quan (được cấp chứng chỉ nghiệp vụ hải quan sau khi tham gia 1 khóa học do cơ quan hải quan tổ chức)
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ĐỀ TÀI: LOGISTICS- CÓ HAY KHÔNG NHỮNG THÁCH THỨC VÀ RÀO CẢN
Ông Trần Văn Thanh hiện đang có trong tay một số vốn là 20 tỷ đồng và muốn thành lập một công ty kinh doanh về việc vận chuyển kho bãi...còn gọi là dịch vụ logistics. Tuy nhiên, ông còn có nhiều thắc mắc xung quanh những qui định của pháp luật dành cho loại hình kinh doanh này. Thắc mắc trên đã được ông mang đến văn phòng luật sư Hoàng Minh Duy. Và sau đây, chúng ta cùng theo dõi cuộc trao đổi giữa luật sư Duy và ông Thanh.
Ông Thanh:” Trước tiên, tui muốn hiểu rõ logistics là gì và những điều kiện cần có để kinh doanh dịch vụ này.”
Luật sư:
Theo điều 233 luật Thương mai: dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hay nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển,lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hay các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao.
Điều kiện cần có để kinh doanh dịch vụ này:
1.Đối với thương nhân kinh doanh các loại dịch vụ logistics chủ yếu:
Thương nhân kinh doanh các loại dịch vụ logistics chủ yếu phải đáp ứng các điều kiện: phải là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam; có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu. Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics ngoài việc đáp ứng các điều kiện trên, chỉ được kinh doanh các dịch vụ logistics khi tuân theo những điều kiện cụ thể sau đây:
Trường hợp kinh doanh dịch vụ bốc dỡ hàng hoá thì chỉ được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 50%.
Trường hợp kinh doanh dịch vụ kho bãi thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%; hạn chế này chấm dứt vào năm 2014.
Trường hợp kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, được thành lập công ty liên doanh không hạn chế tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài kể từ năm 2014.
Trường hợp kinh doanh dịch vụ bổ trợ khác thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; hạn chế này là 51% kể từ năm 2010 và chấm dứt hạn chế vào năm 2014.
2. Đối với thương nhân kinh doanh các dịch vụ logistic liên quan đến vận tải.
Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic liên quan đến vận tải phải đáp ứng các điều kiện sau đây: Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam; tuân thủ các điều kiện về kinh doanh vận tải theo quy định của pháp luật Việt Nam. Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định trên chỉ được kinh doanh các dịch vụ logistics khi tuân theo những điều kiện cụ thể sau đây:
Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hải thì chỉ được thành lập công ty liên doanh vận hành đội tàu từ năm 2009, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; được thành lập liên doanh cung cấp dịch vụ vận tải biển quốc tế trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, hạn chế này chấm dứt vào năm 2012.
Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải thuỷ nội địa thì chỉ được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%.
Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng không thì thực hiện theo quy định của Luật hàng không dân dụng Việt Nam.
Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường sắt thì chỉ được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%.
Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường bộ thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; hạn chế này là 51% kể từ năm 2010.
Không được thực hiện dịch vụ vận tải đường ống, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
3. Đối với thương nhân kinh doanh các loại dịch vụ logistics liên quan khác.
Thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc liên quan khác phải là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam . Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics chỉ được kinh doanh các dịch vụ logistics khi tuân theo những điều kiện cụ thể sau đây:
Trường hợp kinh doanh dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật: đối với những dịch vụ được cung cấp để thực hiện thẩm quyền của Chính phủ thì chỉ được thực hiện dưới hình thức liên doanh sau ba năm hay dưới các hình thức khác sau năm năm, kể từ khi doanh nghiệp tư nhân được phép kinh doanh các dịch vụ đó. Không được kinh doanh dịch vụ kiểm định và cấp giấy chứng nhận cho các phương tiện vận tải. Việc thực hiện dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật bị hạn chế hoạt động tại các khu vực địa lý được cơ quan có thẩm quyền xác định vì lý do an ninh quốc phòng.
Trường hợp kinh doanh dịch vụ bưu chính, dịch vụ thương mại bán buôn, dịch vụ thương mại bán lẻ thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ.
Không được thực hiện các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Ông Thanh:” Vậy khi tham gia vào logistics thì thương nhân sẽ có những quyền và nghĩa vụ gì?”
Luật sư:
Luật Thương mại quy định: trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
Được hưởng thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách hàng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng, nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng.
Khi xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không thực hiện được một phần hay toàn bộ những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thông báo ngay cho khách hàng để xin chỉ dẫn.
Trường hợp không có thoả thuận về thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ với khách hàng thì phải thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thời hạn hợp lý.
Khi thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải tuân thủ các quy định của pháp luật và tập quán vận tải.
Ông Thanh: “Thế tui có phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những tổn thất trong quá trình tổ chức vận tải hay không?”
Luật sư:” Không hẳn là thế. Luật thương mại Việt Nam và Nghị định cũng có những qui định giới hạn trách nhiệm cùng một số trường hợp miễn trách nhiệm cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan về giới hạn trách nhiệm trong lĩnh vực vận tải.
Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top