dracula_ken

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối


DẪN LUẬN

Hoa văn là một yếu tố thể hiện tư duy, trình độ thẩm mĩ và kỹ năng, kỹ xảo của người nghệ nhân tạo hình, nói rộng ra là của cả một cộng đồng dân cư. Nó phản ánh trình độ kinh tế, văn hoá, xã hội, lịch sử và dấu ấn thời đại của cộng đồng dân cư đó.
Người Mông ở Cát Cát có một kho tàng văn hoá rất phong phú, độc đáo, trong đó hệ thống hoa văn trong nghệ thuật tạo hình dân gian nói chung, trang trí trên vải nói riêng đóng góp những giá trị không nhỏ. Nó hiện lên một cách đa dạng và mang theo phong cách tộc người góp phần hình thành bản sắc văn hoá dân tộc Mông.
Về mặt kỹ thuật, trong quy trình tạo hình và trang trí hoa văn trên vải, người Mông nơi đây đã vận dụng nhiều kỹ năng, kỹ xảo một cách điêu luyện như triết nếp, khâu đột, khâu luồn sợi, khâu vắt; các kỹ thuật tạo hoa văn như thêu (thêu đột, thêu luồn sợi, thêu xoắn chỉ), in hoa văn bằng sáp ong (kỹ thuật ba tít), ghép vải. Công việc này được các em gái học từ những người bà, người mẹ, người chị ngay từ khi còn nhỏ theo phương pháp cầm tay chỉ việc vào những thời điểm nông nhàn hay những khi đi đường, đi chợ.
Về mặt mĩ thuật, hệ thống hoa văn với các mô típ, các đồ án và phương pháp xử lý bố cục, màu sắc hoa văn trên vải của người Mông ở Cát Cát, nhất là trang phục phụ nữ của rực rỡ và cố tình vượt lên sắc xanh của thiên nhiên để tôn con người trước khung cảnh của núi rừng.
Phong cách trang trí và tính quy phạm của các loại hoa văn với màu sắc của nó cũng thể hiện những luật tục, những kiêng kỵ trong cộng đồng. Như vậy, có thể khẳng định, hoa văn cũng là một trong những nguồn sử liệu quý khi nghiên cứu về lịch sử văn hoá tộc người.
Chuyên đề Hoa văn trên vải của người Mông ở thôn Cát Cát, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai nhằm tìm hiểu những nét độc đáo trong trang trí dân gian trên trang phục của người Mông nơi đây. Chuyên đề nằm trong Đề tài Bảo tồn nghề dệt truyền thống, thuộc dự án Đầu tư bảo tồn làng truyền thống dân tộc Mông ở làng Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chuyên đề được thực hiện bằng các phương pháp dân tộc học truyền thống, lấy kết quả điền dã làm tài liệu nghiên cứu chủ yếu.

1. ĐẶC ĐIỂM TƯ DUY TÁC ĐỘNG TỚI THỊ HIẾU THẨM MĨ VÀ HOA VĂN TRÊN VẢI
1.1. Lịch sử đấu tranh và di cư của người Mông tác động tới tư duy, tình cảm cộng đồng
Vào đời nhà Chu, thế kỷ IX trước Công nguyên, trên khu vực người Mông cư trú ở vùng tiếp giáp Giang Tây – Quý Châu - Hồ Nam đã hình thành một nhà nước Sở, đánh dấu sự phát triển của cộng đồng người Mông: Có lãnh thổ, tiếng nói, có đời sống văn hoá riêng, có ý thức cố thủ ở một vùng hiểm yếu để bảo toàn nòi giống, có lúc hùng mạnh đã cùng người Hán xưng hùng, xưng bá.
Nhưng các triều đại nhà Hán đã đánh tan nước Sở, đẩy người Mông di cư về miền núi non hẻo lánh ở phía Tây nam Quý Châu. Cuộc đấu tranh giành quyền sống của người Mông diễn ra rất khốc liệt trong suốt chiều dài lịch sử của chế độ phong kiến Trung Quốc. Nhưng nỗi đau lớn nhất của người Mông trong lịch sử là càng khởi nghĩa càng thất bại, càng đấu tranh càng thua thiệt, mất mát.
Hoàn cảnh lịch sử đó đã đặt người Mông trước sự lựa chọn: hay là chịu đồng hoá của người Hán, hay là chống lại sự đồng hoá đó, người Mông đã chọn con đường không chịu khuất phục, chống lại sự đồng hoá để bảo tồn bản sắc văn hoá. Do thất bại bằng con đường đấu tranh bằng vũ lực, họ đã phải di cư đến các vùng đất xa xôi, hẻo lánh, cách xa các thế lực phong kiến để bảo toàn nòi giống.
Quá trình đó, người Mông không những phải đấu tranh với các thế lực áp bức bóc lột mà còn phải luôn luôn thích nghi với sự thay đổi môi trường và điều kiện sống: từ đồng bằng trung du lên miền núi cao chót vót, từ canh tác lúa nước sang canh tác nương rẫy, dựa vào thiên nhiên. Cuộc sống khép kín, cách biệt với xã hội bên ngoài. Hoàn cảnh lịch sử đó làm cho người Mông chỉ tin vào những điều gì thiết thực, cụ thể, lối tư duy duy cảm hình thành và phát triển.
1.2. Ý thức đấu tranh kiên cường bảo vệ Bản sắc văn hoá dân tộc tác động đến việc bảo tồn, lưu giữ các mẫu hoa văn cổ
Cũng như các cộng đồng người Mông khác, lịch sử của người Mông ở Cát Cát là lịch sử đấu tranh bảo vệ sự trường tồn của dân tộc. Trên thế giới, không ít dân tộc khi bị xâm lược, áp bức thì bị mất tiếng nói, mất văn hoá truyền thống, bị đồng hoá, thậm chí bị diệt vong. Dân tộc Mông trong quá khứ cũng đã từng đụng độ với các thế lực phong kiến, bị chúng tìm mọi cách tiêu diệt, đánh đuổi, phải di cư liên tục qua các miền núi non, hiểm trở, khắc nghiệt, phải thay đổi cả tập quán canh tác, sinh hoạt, ấy vậy mà họ vẫn giữ được bản sắc văn hoá dân tộc của mình, không để pha lẫn vào dân tộc khác.
Ý thức đấu tranh bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc đã làm hình thành nên bản chất của người Mông. Người già bao giờ cũng truyền lại tinh thần này cho con cháu. Bản chất này được biểu hiện trong kho tàng văn học dân gian, diễn xướng dân gian… và thấm đẫm trong các sinh hoạt gia đình, cộng đồng.
Ngay từ khi đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời, người Mông đã đề cao ý thức ngoan cường chiến đấu bảo vệ cộng đồng dân tộc. Trong lễ gọi hồn cho đứa trẻ sơ sinh là bé trai, người Mông đặt tên, nỏ, súng kíp lên bàn thờ với ý niệm là mong cho đứa trẻ sau này sẽ trở thành một chiến binh ngoan cường. Kể cả trong lễ tang, điệu kèn tiến quân, đội hình để đuổi giặc chạy quanh người đã khuất cũng mang ý nghĩa này.
1.3. Tính cộng đồng, dòng họ bền chặt tác động đến tính đặc trưng và thống nhất trong hệ thống hoa văn
Dân tộc nào cũng có tính cộng đồng, nhưng tính cộng đồng dân tộc, dòng họ của người Mông rất bền chặt trong suốt chiều dài lịch sử. Trong hoàn cảnh luôn luôn phải thiên di, đấu tranh chống lại sự áp bức của các thế lực phong kiến, bảo toàn nòi giống, đấu tranh chống thiên tai khắc nghiệt, người Mông phải cố kết, dựa vào cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng dòng họ.
Biểu hiện của tính cộng đồng là ở sự thống nhất của các lễ hội, phong tục tập quán, cách thức cúng ma, ở nguyên tắc nội hôn tộc người, ngoại hôn dòng họ… Dù mới gặp nhau lần đầu, dù là ở bất cứ đâu nhưng nếu đã nhận ra người cùng dân tộc, dòng họ thì người Mông đều coi nhau như anh em ruột thịt, sống chết vì nhau.
Để duy trì, bảo vệ được tính cố kết cộng đồng, người Mông tiến hành bằng nhiều biện pháp: Chú trọng giáo dục thế hệ trẻ, đặt ra nhiều tập tục, quy ước sinh hoạt cộng đồng, nhất là các cộng đồng dòng họ, ai vi phạm sẽ bị xử phạt và bị dư luận lên án. Tất cả các công việc của một gia đình, một cá nhân từ làm nhà, cưới xin, ma chay cho đến dệt một tấm vải, sáng tác một bài hát giao duyên… đều quy tụ anh em trong dòng họ tham gia, không có một việc gì, một cá nhân nào phải làm việc lẻ loi, cô độc. Khi cư trú, người Mông cư tụ theo dòng họ, huyết thống để dựa vào nhau trong cuộc sống và sản xuất.
1.4. Đức tính lao động cần cù, thông minh sáng tạo tác động đến chất lượng và mẫu mã của hoa văn
Cư trú trên môi trường núi cao, quanh năm mây mù, khí hậu khắc nghiệt, con người phải giành giật với thời gian và thiên nhiên để đảm bảo sự sống. Vì vậy, người Mông lao động quanh năm, đức tính cần cù, chịu khó, làm ra làm, chơi ra chơi, người Mông rất ghét những ai lười lao động. Các lễ hội vui chơi đều bố trí thời gian mùa vụ nông nhàn, khi đã lao động là làm đến nơi đến chốn, Quá trình lao động người Mông sáng tạo ra nhiều công cụ cho năng xuất cao, kết hợp luân canh, xen canh gối vụ, sinh hoạt gia đình tằn tiện, tiết kiệm, chi tiêu hợp lý, biết kết hợp nương rẫy với khai thác rừng tự nhiên, dược liệu quý, phát triển chăn nuôi và các nghề phụ, ở lĩnh vực nào người Mông cũng có sản phẩm đạt chất lượng cao, mang đậm nét bản sắc văn hoá tộc người.
Người Mông ở Cát Cát làm bất cứ việc gì cũng có ý thức đạt cho được nhiều mục đích, khai thác cho hết chức năng của đối tượng. Chẳng hạn, khi tổ chức lễ hội, không chỉ là sinh hoạt văn hoá vui chơi mà là hoạt động cố kết cộng đồng, ôn lại các truyền thuyết lịch sử tổ tiên, học lại các phong tục tập quán, là sự thưởng thức âm nhạc, nghệ thuật văn hoá, thêu dệt, là nơi trai gái trao duyên. Khi khai thác thế giới thực vật, vừa làm lương thực, vừa làm dược liệu chữa bệnh, vừa trang trí, vừa làm hàng hoá. Sự khai thác khám phá đầy sáng tạo này cũng chính là một yếu tố đảm bảo tiết kiệm, giữ gìn tính bền vững của tự nhiên.
1.5. Kiểu tư duy đối ngẫu tác động đến sự hình thành và tồn tại của mô típ và các kỹ thuật xử lý hoa văn
Từ các cuộc thiên di lớn xuyên quốc gia và liên tục phải đấu tranh giành dật sự tồn tại và phát triển đã tạo ra ở người Mông những đặc điểm tư duy và quan điểm thẩm mĩ rất riêng thể hiện ở đặc điểm tư duy của người Mông như sau:
Đặc điểm nổi bật trong phương pháp tư duy của người Mông ở Cát Cát là kiểu tư duy đối ngẫu. Khi tư duy về hiện thực, về kế mưu sinh hàng ngày là lối tư duy trực quan, cụ thể, cảm tính nhưng khi tư duy về đời sống tâm linh thì lại là lối tư duy siêu thực, ấp ủ, mơ ước, nuối tiếc và hi vọng lãng mạn. Nguyên nhân hình thành kiểu tư duy này có nguyên nhân bắt nguồn từ lịch sử đấu tranh đầy máu và nước mắt với kẻ thù và tiếp theo đó là những cuộc thiên di. Đi cùng với nó là hiện thực luôn luôn phải thích nghi với sự thay đổi môi trường và điều kiện sống. Hoàn cảnh lịch sử đó đã hình thành nên tính cách của người Mông là chỉ tin vào những điều gì thiết thực, cụ thể. Nhưng đồng bào lại luôn gửi gắm niềm tin vào những điều tốt đẹp và thể hiện nó qua thế giới tâm linh. Lối tư duy cảm tính do đó mà hình thành và phát triển.
Chính vì kiểu tư duy đối ngẫu (thiết thực – mơ ước; cụ thể - lãng mạn) đã dẫn đến đặc điểm là tuy xã hội người Mông là một cộng đồng tự quản, khép kín; nhưng sự khép kín đó lại luôn trong một thể thức vận động. Đồng bào có thể học tập văn hoá mưu sinh của các dân tộc khác, nhưng còn trong văn hoá tâm linh và quan điểm thẩm mĩ thì thường không chấp nhận những yếu tố bên ngoài.
Cách tư duy của đồng bào luôn luôn đi từ những hình tượng cụ thể trong tự nhiên, quy luật của tự nhiên để suy đoán, cắt nghĩa các vấn đề xã hội, trực giác, giàu óc quan sát nhưng lại so sánh ví von, hình tượng. Sinh sống nơi môi trường núi cao với thiên nhiên hùng vĩ mà thơ mộng nên tư duy của đồng bào thường nhạy cảm với các hiện tượng tự nhiên từ quan sát đến phán đoán rồi suy luận, từ cái tự nhiên để giải thích các vấn đề trong đời sống. Chẳng hạn, để giải thích vì sao có núi nhấp nhô, có ao hồ, đồng bào đi từ thực tế các vật có mặt phẳng khi co lại thì tạo thành làn sóng nhấp nhô nên họ giải thích mặt đất rộng hơn bầu trời, nên mặt đất co lại cho khớp, co lại nên tạo thành núi cao nhấp nhô, sông hồ. Khi muốn cắt nghĩa vì sao phải làm lễ cưới hỏi thì đồng bào ví như quay sợi thì phải có guồng, dệt vải thì phải có khung, có thoi thì việc dựng vợ gả chồng cũng phải có lễ cưới hỏi. Khi nói về một cô gái đẹp, người ta cũng có thể ví cô gái đẹp ấy với cái điếu, vì cái điếu làm cho người ta say mà cô gái đẹp cũng làm cho người ta say nên cô gái đẹp giống như cái điếu.v.v…
1.6. Tính bảo thủ tác động tới việc bảo lưu hoa văn
Cũng như người Mông ở những nơi khác, người Mông rất bảo thủ nhưng lại ưa lý lẽ. Một mặt, họ rất muốn biết rõ lý do, phân biệt phải trái đến cùng, nếu đã kiện nhau là kiện đến cùng nhưng mặt khác, họ bao giờ cũng bảo vệ cho luận điểm của mình và thường tìm cách né tránh khi đuối lý. Điều đó đã làm nên cái gọi là “cái lý” của người Mông. “Cái lý” của người Mông dựa trên các cơ sở sau:
Một là, dựa trên các quy luật tự nhiên, từ “cái lý” của tự nhiên.
Thế mới có chuyện người Mông đi bán mật ong, người mua xin thử chất lượng để mua. Xem xong, người mua nghi ngờ mật ong bị pha và trách người Mông. Người Mông cãi lý: Tao không làm ra mật ong được. Mày không tin thì đi mà hỏi con ong.
Đây là kiểu lập luận vừa tự nhiên (con ong làm ra mật) lại vừa là lối đánh tráo khái niệm kiểu né tránh mang tính hài hước, người Mông tránh không tranh luận điều đó bằng cách bảo người mua đi mà hỏi con ong.
Hai là, dựa trên các luật tục, quy ước sinh hoạt của cộng đồng, từ “cái lý” của cộng đồng.
Thế mới có chuyện chia nửa con bò. Có một con bò vào nương ăn lúa, dẫm nát hết rau, quả. Chủ nương mang súng ra bắn chết con bò. Làm thịt nó rồi giữ lại một nửa, chia cho chủ bò một nửa. Chủ bò không chịu, chủ nương cãi lý: con bò trị giá 4 triệu, nương của tao thu hoạch bán hết cả thóc, rau và quả cũng được 4 triệu, thiệt hại ngang nhau thì con bò phải chia đôi ra.
Đây là kiểu lập luận dựa trên luật tục của người Mông. Kiểu luật tục này trước đây phổ biến trong các thôn/làng người Mông.
Ba là, kết hợp “cái lý” của tự nhiên và cộng đồng với các quan niệm về đạo đức và vai trò của người có uy tín.
Thế mới có chuyện người Mông tập xe. Người Mông tập đi xe máy, đâm vào người đi bộ. Người đi bộ đau chân nên bắt đền người đi xe. Người đi xe cãi lý: Đường thì là đường chung, mày cũng có quyền đi, tao cũng có quyền đi. Tao tránh khó vì phải lái cả cái xe to, còn mày tránh dễ vì mày chỉ phải lái có hai cái chân thì mày phải tránh tao chứ.
Đây là kiểu lập luận kết hợp giữa luật tục, quy ước của dân tộc, dòng họ, với quy luật tự nhiên, kết hợp cả quan niệm về đạo đức, lối sống.
Bốn là, tôn trọng người chăm chỉ, thù ghét kẻ lười biếng.
Thế mới có chuyện người Mông xử phạt. Có hai kẻ cùng bị xử phạt. Một kẻ ăn trộm một nén bạc. Một kẻ ăn trộm một tẩu thuốc. Khi phân xử, người Mông phạt kẻ lấy trộm tẩu thuốc tội nặng hơn. Cái lý của họ là: nén bạc tuy đắt nhưng lao động bình thường không làm ra được. Cái tẩu thuốc tuy rẻ nhưng ai cũng làm được. Vì thế, kẻ ăn trộm cái tẩu phải phạt thêm tội lười lao động.
Cái lý của người Mông vừa thể hiện một quy tắc của cộng đồng nhưng đồng thời cũng thể hiện một quan niệm về lao động, tôn trọng người chăm chỉ, thù ghét kẻ lười nhác.
Các đặc điểm về lịch sử, tâm lý, tính cách và lối tư duy trên đã kết tinh một cách toàn diện, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống văn hoá của người Mông, tạo nên cách lập luận kiểu “cái lý” người Mông. Và đồng thời nó cũng thể hiện trên nghệ thuật trang trí dân gian trên trang phục với lối trang trí đối ngẫu và cũng rất hình tượng thể hiện trên cả các mô típ, đồ án, bố cục, màu sắc của hoa văn nói chung, hoa văn trên vải nói riêng. Nói cách khác, hoa văn trên vải như những lớp trầm tích đươc kết tinh qua quá trình lịch sử, phản ánh đậm nét bản sắc văn hoá tộc người.

2. HOA VĂN TRÊN VẢI CỦA NGƯỜI MÔNG Ở CÁT CÁT
Trong đời sống văn hoá của người Mông ở Cát Cát, hoa văn không chỉ có mặt trên vải mà còn có mặt trên các chất liệu khác như đồ đồng, đồ trang sức, trên các công trình điêu khắc, kiến trúc, trong các tác phẩm nghệ thuật dân gian. Hoa văn xuất hiện đa dạng trong đời sống và mang theo phong cách tộc người, góp phần hình thành bản sắc văn hoá tộc người. Trong đó, hoa văn trên vải là đặc trưng hơn cả
2.1. Kỹ thuật tạo hoa văn trên vải
Trong cách trang trí hoa văn, người Mông ở Cát Cát dùng cả ba kỹ thuật: thêu, ghép vải và in sáp ong. Quần nam không trang trí hoa văn, áo nam và nữ đều trang trí như nhau. Bộ phận được trang trí chủ yếu là ở tay áo với các kỹ thuật thêu và ghép vải. Viền cổ, nẹp áo và thắt lưng thường được trang trí bằng hoa văn thêu. Váy được trang trí bằng cả ba kỹ thuật thêu, ghép vải và in sáp ong.
2.1.1. In sáp ong
- Bộ công cụ in sáp ong
Bộ công cụ để in sáp ong của người Mông ở Cát Cát hiện nay gồm có chảo đun sáp ong (jav) và các loại bút (Đar), ngòi được làm bằng đồng nên được gọi là bút ngòi đồng (Đar sưr taz) Xét về kích thước, bút có 2 loại: to và nhỏ. Xét về cấu tạo ngòi bút, bút cũng có 2 loại: loại 1 khoang bụng gọi là Đar nrơư; và loại 2 khoang bụng gọi là Đar changz zsangz. Đặc điểm của mỗi loại công cụ như sau:
+ Chảo đun sáp ong: là loại chảo rán cỡ nhỏ được mua ở chợ, thường được làm bằng gang hay hợp kim nhôm. Kích thước của chảo thường cao 4 cm; đường kính 20 cm. Khi đun sáp ong, người ta dùng chảo này đặt trên bếp nấu cơm của gia đình (trái nhà bên phải) để đun.
+ Bút: gồm có 2 bộ phận chính là quản bút (đar) và ngòi bút (sưr).
Quản bút giống nhau ở cả hai loại cấu tạo bởi chúng đều được làm bằng tre (siôngz); dài 12 – 13 cm (loại nhỏ) và 16 – 17 cm (loại to); rộng 0,7 cm (loại nhỏ) và 1 cm (loại to); dày 1 mm (loại nhỏ) và 2 mm (loại to). Quản bút là nơi người nghệ nhân tạo hình dùng tay cầm vào đó để thực hiện thao tác. Nhìn chung, quản bút in sáp ong của người Mông không có gì đặc biệt. Điều đặc biệt và làm nên tác dụng chính của bút là ở ngòi bút.
Ngòi bút in sáp ong của người Mông ở Cát Cát được làm bằng đồng. Gồm có 4 loại khác nhau là: - loại nhỏ 1 khoang bụng; - loại to 1 khoang bụng; - loại nhỏ 2 khoang bụng; - loại to 2 khoang bụng.
Về cấu tạo, loại bút 1 khoang bụng được ghép bởi 2 lá đồng có dạng hình thang chéo, phình to ở bụng bút và hẹp về phía rìa cạnh lưỡi và giáp quản. Phần giáp quản được cố định với quản bút bởi đai và chốt giữ (cũng đều được làm bằng đồng). Trong khoang bụng là một khoảng trống – đó chính là buồng chứa sáp ong. Loại bút 2 khoang bụng thoạt nhìn bề ngoài cũng có cấu tạo như trên, chỉ khác là bên trong có thêm một lá đồng ngăn giữa khiến cho khoang bụng được chia thành 2 ngăn.
Về kích thước, rìa cạnh lưỡi dài 2,5 cm (loại to) và 1,7 cm (loại nhỏ). Do ngòi bút có dạng hình thang chéo nên 2 đường chéo có chiều cao khác nhau. Trong đó, chiều cao cạnh chéo dài - Cạnh phía ngoài, phía đầu bút là 1,5 cm (loại to) và 11 cm (loại nhỏ). Chiều cao cạnh chéo ngắn - cạnh phía trong, gần với quản bút là 1 cm (loại to) và 0,8 cm (loại nhỏ). Hai đỉnh trên của hai cạnh chéo cách nhau 1,5 cm (loại to) và 0,8 cm (loại nhỏ). Đai ôm ngòi bút với quản bút dài bằng chiều dài cạnh đỉnh trên của hai cạnh chéo. Chiều cao của đai là 0,6 cm (loại to) và 0,3 cm (loại nhỏ). Để tăng thêm độ chắc chắn cho ngòi bút không bị tuột ra khỏi thân bút, ở chính giữa đai ôm ngòi bút, người ta đặt thêm 01 chốt giữ bằng cách khoan 1 lỗ xuyên qua cả ngòi - đầu quản và đai ôm, lồng 1 lá đồng nhỏ qua rồi bẻ gập 2 đầu của chốt giữ sang 2 bên là được.
Mỗi khi vẽ, người nghệ nhân tạo hình chấm bút này vào chảo sáp nóng chảy, sáp ong sẽ tràn vào buồng này. Khi nhấc bút lên, sáp người ta cầm ở tư thế cho cạnh lưỡi nằm song song với bề mặt mặt đất để sáp ong không chảy ra. Khi in, người ta nghiêng dần ngòi bút cho sáp ong chảy ra. Khi mới in, người ta nghiêng ít. Độ nghiêng cứ lớn dần tỷ lệ thuận với lượng sáp ong đã chảy ra khỏi buồng chứa cho đến khi sáp chảy hết hay lượng sáp không còn đủ để thể hiện hoa văn theo ý đồ người tạo hình thì người ta mới lại chấm tiếp.
Cũng theo kết quả khảo sát của chúng tôi, ở Cát Cát hiện nay chỉ còn 04 người còn có thể in được sáp ong. Trong đó, có 02 nghệ nhân cao tuổi là Thào Thị Sung (1960, đội III) và Sùng Thị Sao (1963, đội I). Ngoài ra, còn có 01 phụ nữ trẻ là Vàng Thị Mảo (1981, con của nghệ nhân Thào Thị Sung) và 01 thiếu nữ là Vàng Thị Me (1985, đội I). Cả 04 người này đều khẳng định từ lâu nay, người Mông ở Cát Cát đều chỉ in sáp ong trên mấy loại bút kể trên, kể cả in hoa, in chấm nhỏ, in đường xoáy, in đường kẻ, đường riềm…
Trên thực tế, nghệ thuật batit (in sáp ong) của người Mông còn có 02 loại bút nữa là bút chuyên in các đường xoáy (ngòi được tạo sẵn hình xoáy) và bút chuyên in các chấm nhỏ (ngòi là những que sắt nhỏ trông như chiếc bàn chải). Nhưng có lẽ bởi những nguyên nhân nào đó mà 02 loại bút này và kỹ thuật sử dụng nó đã bị thất truyền đối với người Mông nơi đây.
- Kỹ thuật in hoa văn bằng sáp ong
In sáp ong, tiếng Mông gọi là nthu taz. Kỹ thuật vẽ hoa văn bằng sáp ong là nhúng bút vào sáp ong (chaz mur) nấu chảy rồi vẽ lên vải mộc các hoạ tiết hoa văn. Sáp ong sẽ dính lại trên nền vải. Sau đó, người phụ nữ Mông đem tấm vải đã được vẽ sáp ong đi nhuộm chàm 15 - 18 lần cho đến khi miếng vải có được mầu như ý muốn. Những chỗ đã vẽ sáp ong thì nước chàm sẽ không thấm vào. Giặt xong, người ta cứ để thế phơi khô. Khi vải đã khô, người ta nhúng vào nước sôi làm cho sáp ong bám trên nền vải tan ra để lại những hoạ tiết trắng trên nền vải tối.
2.1.2. Kỹ thuật thêu
Thêu, tiếng Mông gọi là xơưs. Trang phục của người phụ nữ Mông không chỉ đẹp ở kỹ thuật cắt may mà còn rất dễ gây ấn tượng qua các mô típ trang trí và màu sắc hoa văn. Những người phụ nữ Mông ở Cát Cát thực sự là những nghệ nhân của nghệ thuật tạo hình trên vải. Họ thêu hoa văn không cần mẫu. Chỉ dùng để thêu thường là sợi tơ tằm to, vừa bền sợi, vừa bền màu. Đặc biệt, sắc màu óng luột của tơ tằm sẽ làm tăng vẻ đẹp của hoa văn, làm cho hoa văn càng thêm mượt mà. Người phụ nữ Mông ở Cát Cát có cái nhìn khái quát, giàu óc tưởng tượng, hoàn toàn dựa vào trí nhớ để thêu hoa văn. Hầu như ai cũng thuộc sẵn mẫu hoa văn mà mình thích. Họ không cần nhìn vào mẫu mà vẫn thêu được những hoạ tiết đẹp. Trước khi thêu, họ phải tính toán tỉ mỉ, đếm từng sợi chỉ, nhớ từng kích thước từng hoạ tiết trang trí trong toàn bộ mảng hoa văn. Vì vậy, ngay từ khâu dệt, người phụ nữ đã dệt tấm vải nền theo một kỹ thuật sao cho các sợi vải không quá xít với nhau, giành ra những khoảng cách nhỏ li ti tạo điều kiện thuận lợi cho việc đếm sợi, bố cục các hoạ tiết khi thêu. Một số khăn đội đầu của phụ nữ Mông còn được làm bằng loại vải lanh trắng dệt kẻ ô vuông bằng các sợi tím hay đỏ sẫm. Kỹ thuật thêu đột càng phức tạp hơn vì người ta thêu ở mặt trái của vải nhưng các hình mẫu của sản phẩm lại nổi lên ở mặt phải, đòi hỏi người phụ nữ phải thật kiên trì, cẩn thận vì nếu chỉ cần một sơ suất nhỏ, nhầm một mũi kim, tính sai một sợi vải là đã khiến cho mũi thêu bị sai lệch.
2.2.4. Kỹ thuật ghép vải
Kỹ thuật ghép vải tạo hoa văn cũng được người phụ nữ Mông sử dụng để tạo thành các băng dải, các khoang vải màu khác nhau ở cổ áo, ống tay, nẹp ngực và cả khoang dài gẫu váy, vuông vải che váy (tạp dề). Kỹ thuật ghép vải không chỉ tạo ra các khoang mảng màu mà còn tạo ra các đường nét hoa văn. Trên hình chữ nhật ở cổ áo của người Mông ở Cát Cát đã xuất hiện nhiều kiểu hoa văn hình học bằng kỹ thuật ghép vải. Các đường nét hoa văn nhỏ, phức tạp ở yếm, cổ tay áo cũng đều là vải ghép. Vải ghép khá tỉ mỉ, thường là có gam màu nóng hay vải trắng làm riềm nhỏ bao bọc cho các hoạ tiết hoăc tự tạo thành một mô típ hoa văn riêng biệt. Người phụ nữ Mông Cát Cát sử dụng một miếng vải đỏ vàng có tiết diện nhỏ từ 0,5 – 1 cm được viền xung quanh ghép vào vải nền tạo thành các hình xếp nếp hay các đường viền của hoạ tiết chính.
Ngoài ra, trong các kỹ thuật tạo hoa văn của người Mông ở Cát Cát còn phải kể đến biện pháp kỹ thuật ghép các hạt cườm nhựa, bạc… lên trang phục. Ở mũ áo của những đứa trẻ cầu tự, trên lưng áo của một số người già còn xuất hiện hình thức ghép gắn những đồng bạc trắng, đồng xu nhỏ, hạt cườm… tạo cho những chiếc mũ, chiếc áo này có vẻ đẹp độc đáo, rực rỡ nhưng mang đầy tính biểu tượng.
Các biện pháp in sáp ong, thêu chỉ màu, ghép vải màu, ghép gắn hạt cườm nhựa, bạc… lại được khéo léo kết hợp với nhau tạo ra sự phong phú về hoa văn khiến cho mô típ tuy không nhiều nhưng được kết hợp bằng nhiều kiểu sẽ sinh ra nhiều mô típ khác. Đồng thời với các khổ vải ghép đậm, bên cạnh những đường thêu thanh mảnh tạo cảm giác hoa văn luôn biến đổi liên tục. Kết hợp với các biện pháp kỹ thuật còn góp phần tạo hiệu quả về màu sắc. Màu xanh lơ nhạt của vải in sáp ong trở thành màu trung gian, dung hoà với các màu đậm cảu vải ghép chỉ thêu. Nhờ vậy mà màu sắc, đường nét mô típ của hoa văn có sự chuyển động khá phong phú, vui mắt.
* Các kỹ thuật trang trí, tạo hoa văn trên vải đã làm cho tấm vải không chỉ sống động về màu sắc, mô típ hoa văn mà cũng trở lên phong phú về kỹ thuật tạo hình, phản ánh trình độ tác nghiệp của người phụ nữ. Với các kỹ thuật trên, người phụ nữ Mông không chỉ thành thục trong việc thể hiện các hoạ tiết dưới dạng đường thẳng mà còn thành thục trong việc bố cục một cách uyển chuyển, nhịp nhàng, thanh thoát các đồ án hoa văn hình tròn, đường cong, hình xoáy trôn ốc hay biến thể của nó là 2 hình xoáy trôn ốc được bố trí đối xứng tạo thành hình móc hay bố trí trục quay thành hình chữ S làm cho bố cục của mỗi mảng hoa văn trở nên hài hoà và tránh được sự đơn điệu.
2.2. Mô típ hoa văn
Hoa văn trên vải của người Mông ở Cát Cát có hai mảng chính là hoa văn hình học và hoa văn hiện thực. Nếu như mảng hoa văn thứ hai là phương tiện giúp người ta chuyển tải tư duy hay thể hiện những suy nghĩ về cuộc sống của mình thì hoa văn hình học chỉ đơn thuần phục vụ thẩm mỹ với chức năng làm nền.
2.3.1. Hoa văn hình học
Hoa văn hình học trên vải của người Mông ở Cát Cát có các mô típ cơ bản sau:
- Nhóm hoa văn hình núi hay còn có thể gọi bằng các tên gọi khác như hoa văn hình rẻ quạt, hoa văn hình răng cưa, hoa văn hình gấp khúc song song. Nhóm hoa văn này được người Mông ở Cát Cát gọi là nar kơ thường được thể hiện bằng kỹ thuật thêu hay in sáp ong. Nhóm hoa văn này có tần số xuất hiện nhiều trên trang phục của người Mông ở Cát Cát (váy, áo, tạp dề) và thường là các đường viền đóng khung trong mảng hoa văn chính.thường được trang trí làm nền và xen kẽ giữa các hình thoi, hình tam giác, hình chong chóng ở trên thân váy và tạp dề hay viền mép xung quanh một ô hoa văn trên váy, áo và chỗ tiếp giáp giữa các phần với nhau.
- Nhóm hoa văn hình chấm tròn to nhỏ khác nhau: thường được thể hiện bằng kỹ thuật in sáp ong. Nhóm hoa văn này cũng có tần số xuất hiện khá nhiều trên thân váy với mô típ chạy theo từng chuỗi dài vòng quanh thân váy, các chấm này cách đều nhau làm thành những vành hoa văn độc lập.
- Nhóm hoa văn những đường gạch dài song song hay cũng có thể gọi là những đường thẳng song song. Người Mông ở Cát Cát gọi loại hoa văn này là cêr nđangx. Mô típ của nhóm hoa văn này nhìn chung đơn điệu, thường là những đường gạch dài in sáp ong hay thêu bằng chỉ mầu hay ghép bằng vải màu thành các đường song song đóng khung cho mảng hoa văn chính như hoa văn trên áo và tạp dề. Ở váy, chúng được thể hiện nhiều bằng kỹ thuật in sáp ong ở phần giữa của thân váy sát với cạp váy.
- Nhóm hoa văn là những đường gạch ngắn song song. Cũng như loại hoa văn gạch dài, nhóm này cũng đơn điệu và thường là những đường chỉ khâu thưa mũi đóng khung cho mô típ hoa văn chính hay trang trí trên mép áo dài của nam giới hay là những đường khắc vạch trên các cạnh của hình tam giác, hình vuông, hình chữ nhật được trang trí trên tạp dề.
- Nhóm hoa văn hình dích dắc hay còn gọi là hồi văn. Nhóm này có rất nhiều biến thể trang trí trên váy, áo, tạp dề. Mô típ hoa văn của nhóm này thường là các hình con ốc, hình chữ S được in bằng sáp ong hay thêu chỉ mầu. Có khi mô típ này là hoa văn chủ đạo của một đồ án nhưng cũng có khi chỉ là những đường diềm đóng khung cho một hoa văn chính.
- Nhóm hoa văn hình ô trám: có nhiều biến thể, có khi là những hình trám lồng hay có khi là những hình trám đơn. Mô típ hoa văn này thường thấy xuất hiện ở nhiều đồ án trang trí hoa văn trên áo, váy, tạp dề. Nhóm hoa văn này được thể hiện bằng cả ba kỹ thuật: in sáp ong, thêu chỉ mầu và ghép vải mầu.
- Nhóm hoa văn hình đồng tiền thủng giữa: xuất hiện trên váy, tạp dề thường bằng hai kỹ thuật in sáp ong và thêu chỉ mầu. Ở nhóm hoa văn này, chúng tui thấy có 02 biến thể là hình vuông có dấu chấm ở giữa và giữa mỗi cạnh ngoài của hình vuông được khắc một vạch tạo thành hình giống như hình chữ thập.
- Nhóm hoa văn hình chong chóng: Nhóm hoa văn này có nhiều biến thể có khi là hình chữ thập hay là hình chong chóng xuất hiện trên áo, váy và tạp dề. Mô típ hoa văn loại này được thể hiện bằng hai kỹ thuật là in sáp ong và thêu chỉ mầu.
- Nhóm hoa văn hình xoắn ốc: Đây là một trong những nhóm quan trọng ở đồ án hoa văn trang trí trên vải của người Mông ở Cát Cát. Các biến thể của nhóm hoa văn này thường thấy là các cặp đôi, cặp bốn; cũng có khi là những hình xoáy vuông góc 4 cạnh hay 8 cạnh được trang trí bằng cách thêu trên áo dài tay nữ, trên thắt lưng dùng trong lễ hội và trên khăn gối đầu dành cho người chết. Nhóm hoa văn này thường được thể hiện bằng kỹ thuật in sáp ở mảng hoa văn chính hay hình xoắn chạy xung quanh đóng khung cho mô típ hoa văn chính. Quan sát chiếc váy truyền thống của người Mông ở Cát Cát, chúng tui thấy hoa văn này được trang trí ở phần thân váy gần sát cạp váy.
2.3.2. Hoa văn hiện thực
Hoa văn hiện thực trên vải của người Mông ở Cát Cát có các mô típ cơ bản sau:
- Nhóm hoa văn hình người: Mô típ hoa văn hình người trên nền vải của người Mông ở Cát Cát không được thể hiện theo lối tả thực và cũng không tả toàn bộ mà được trình bày cách điệu từng bộ phận cơ thể con người như hình tai người (sáy lảo dề) trên tạp dề, hình bàn chân trang trí trên chân váy.
- Nhóm hoa văn hình gà: Loại mô típ này được trang trí trên ống tay áo, tạp dề phụ nữ. Giống như mô típ hình người, hình con gà trống cũng chỉ dừng lại ở các bộ phận như móng chân gà (lầu trâu kêx), cựa gà, mào gà…
- Nhóm hoa văn hình chim (lâuk mơx nôngz): mô típ này có tần số xuất hiện nhiều trên ống tay áo, chân váy, tạp dề. Mô típ hoa văn có khi là cả một tổ hợp chạy vòng quanh ống tay áo, trang trí hai bên mép tạp dề của người Mông. Mô típ biểu hiện ở chỗ bốn cặp hình quả trám lồng vào nhau xoay quanh một ô trám ở giữa, thêu bằng chỉ màu.
- Nhóm hoa văn hình con cua (lâuk cưx dênhk): nhóm hoa văn này có tần số xuất hiện khá nhiều trên áo, váy, tạp dề. Đây là mô típ hoa văn chủ đạo trong nhiều đồ án, mô típ hoa văn chạy thành hàng vòng quanh ống tay áo, cổ áo tạp dề. Hoa văn này là biểu tượng cho sấm chớp.
- Nhóm hoa văn hình con ốc hay còn gọi là ốc rồng (kưx zong): nhóm hoa văn này có tần số xuất hiện nhiều trên vải của người Mông ở Cát Cát (trên thân váy, thắt lưng, tạp dề). Mô típ hoa văn con ốc là hoa văn chính trong các đồ án trang trí được thêu bằng chỉ màu và in sáp ong tạo thành từng ổ hai, bốn, tám cặp hoa văn ốc hay có khi chạy dài tạo thành từng băng. Hoa văn này nhiều khi còn thấy xuất hiện trên đồ trang sức và có dạng hình thoi.
- Nhóm hoa văn hình hoa cúc (păngx sur nhes): Hoa cúc là biểu tượng của mặt trời theo quan niệm của đồng bào Mông nơi đây. Mô típ hoa cúc thường xuất hiện trên chân váy, tạp dề. Hoa cúc cũng là bông hoa biểu tượng cho mùa thu và là biểu trưng cho khí tiết thanh tao của các bậc cao nhân, ẩn sĩ lấy sự an nhàn ẩn dật làm thú vui, xa lánh danh lợi. Nhóm hoa văn này thêu bằng chỉ màu thành từng cặp đôi.
- Nhóm hoa văn hình hoa đào (păngx txi đnô): mô típ hoa văn hoa dào xuất hiện khá nhiều trên áo, váy, tạp dề và là mô típ hoa văn chính ở trên nhiều đồ án. Hoa đào có cánh hoa, nhị hoa thêu bằng chỉ màu đỏ tươi (màu mười giờ). Cây đào là loại cây trừ tà, xát quỷ theo quan niệm của đồng bào. Đồng thời là biểu trưng của nguồn hạnh phúc, sự no đủ.
- Nhóm hoa văn hình hoa bầu (păngx tâuz): mô típ hoa văn hình hoa bầu có tần số xuất hiện khá nhiều trên vải, thường được trang trí làm nền cho các mảng đồ án hoa văn chính. Nương bầu là biểu trưng cho số nhiều (hàng vạn) vì cây bầu là cây cuống dài (thời đại) và trái bầu có nhiều hạt. Quả bầu có ý nghĩa to lớn trong đời sống tâm linh của người Mông ở Cát Cát. Đó là bầu ma. Trước đây, trong nhà người Mông thường được khoét một lỗ nhỏ để hở cái bầu tròn của quả bầu ra ngoài. Họ cho rằng, đó là sự mong muốn vợ chồng, con cái vuông tròn như trái bầu.
- Nhóm hoa văn hình hoa tỏi (lâuv blaiz): nhóm mô típ hoa văn hình hoa tỏi có tần số xuất hiện rất nhiều trên vải dân tộc Mông. Hoa tỏi đã trở thành mô típ hoa văn chủ đạo cảu nhiều mảng hoa văn trên vải từ váy, khăn, thắt lưng, tạp dề. Hoa văn in hình hoa tỏi thường được đóng khung bởi các mô típ hình học (hình quả trám, hình vuông). Hoa văn được thêu chỉ màu, in sáp ong. Ở gia đình người Mông nào cũng tròng một vài khóm tỏi đặt trên bàn để kỵ ma tà.
- Nhóm hoa văn hình hoa dưa (pangjxđij): được cách điệu thành nhiều dáng vẻ khác nhau. Có mẫu hoa dưa chỉ điểm xuyết hay là những chấm nhỏ ghép lại. Nhưng dù được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau, hoa dưa vẫn giữ được đặc trưng là những hình kỷ hà ghép lại thành hoa bốn cánh.
- Nhóm hoa văn hình con bướm: nếu là in sáp ong thì chỉ gồm 2 tam giác quay đỉnh vào nhau. Nếu là thêu thì đường nét uốn cong theo dáng hình của con bướm.
- Nhóm hoa văn hình lá cây: hình dáng các loại lá cây trang trí trên trang phục người Mông rất phong phú với nhiều hình dáng khác nhau. Có khi chỉ là những tam giác lồng vào nhau, có khi là những đường vạch chằng chịt, tuỳ theo từng loại lá cây. Có hoa văn hoá thông (blôngx sôuz), lá dương xỉ (blôngx ntông chaz)…
- Nhóm hoa văn hình con tằm: thường là hình 2 vạch chéo nhau giống như hình dấu nhân.
- Nhóm hoa văn hạt đậu tương (tâuv pâuz): nếu là in sáp ong thì là 3 chấm tròn nhỏ, nếu là thêu thì là hình 3 dấu nhân.
- Nhóm hoa văn hình con hến (zês): có hình lục giác, trong có 3 chấm nhỏ và thường chỉ in bằng sáp ong.
- Nhóm hoa văn hình con chó nằm ngủ (đêr puv): là những đường thẳng vuông góc và những đường gấp khúc kết hợp với nhau tạo thành hình gần giống hình thoi với những ngoặc lớn hướng ra ngoài. Loại hoa văn này chúng tui cũng mới chỉ tìm thấy ở dạng in sáp ong.
- Nhóm hoa văn hình con hến (zês): có hình lục giác, trong có 3 chấm nhỏ và thường chỉ in bằng sáp ong.
2.3. Nghệ thuật xử lý bố cục hoa văn
Trang phục của người Mông ở Cát Cát hiện nay, bên cạnh một số (không nhiều) các loại hoa văn mới thì còn bảo lưu được khá nhiều các mẫu hoa văn cổ về cả mô típ cũng như mầu sắc hoa văn. Hoa văn của người Mông ở Cát Cát được trang trí chủ yếu trên tay áo, lưng áo, cổ áo, váy, địu trẻ em và khăn gối đầu cho người chết. Về kỹ thuật tạo hình, đồng bào sử dụng tối đa các kỹ thuật khác nhau, gồm có: thêu chỉ màu, ghép vải màu và in sáp ong. Các kỹ thuật tạo hình này được phối hợp hài hoà và hợp lý trên bộ trang phục. Chẳng hạn, trên cổ áo và tay áo, các mảng trang trí hoa văn bằng kỹ thuật thêu xoắn chỉ thì bao giờ cũng được điểm xuyết thêm những đường viền vải mầu bao quanh từng mảng hoa văn nhỏ, bao quanh cả mảng hoa văn lớn, tôn các đường nét hoa văn mầu sặc sỡ của chỉ thêu, tạo cho cả mảng hoa văn nổi bật trên nền mầu chàm sẫm.
Hoa văn trên váy của dân tộc Mông có bố cục thành các dải, ở giữa có phần chuyển tiếp mà phổ biến nhất là các đường dích dắc, chân và thân váy thường có bố cục theo chiều ngang. Trong mỗi dải hoa văn, thông thường ở giữa là hoạ tiết hoa văn thêu chủ đạo khổ lớn, ngoài rìa có các dải hoa văn thêu nhỏ hẹp bao bọc. Các hình hoa 4 cánh hay móc câu thường được đóng khung trong ô hình chữ nhật, hình vuông hay hình thoi. Hai cách bố cục ở đây đan xen, bổ xung lẫn nhau làm cho hoa văn trên trang phục của người Mông đã phong phú, nhiều loại hình lại càng trở lên phong phú hơn trước con mắt của những người chiêm ngưỡng.
Ở phần giữa của thân váy sát chủ yếu được trang trí hoa văn bằng phương pháp in sáp ong. Nghệ thuật xử lý bố cục hoa văn ở đây trở lên độc đáo với kiểu trang trí hoa văn chạy theo những dải ngang hay ô của váy, với những hoạ tiết nhỏ hơn. Hoa văn in sáp ong có mầu trắng và rất phong phú về mô típ thể hiện, đó là những hoa văn hình chôn ốc, hình con hến, con bướm, con gà, hoa dưa, hoa bí, cây dương xỉ, cây thông, hạt đậu, con sâu, khuỷu chân, bờ ruộng, dãy núi… vốn là những hoạ tiết được mô phỏng theo lối tả thực hay cách điệu từ những hiện tượng rất đời thường và gần gũi với cuộc sống của đồng bào.
Ở phần thân váy sát với gấu váy là nơi tập trung nhiều mầu sắc và phương pháp trang trí hoa văn. Phần này, hoa văn được tạo bởi kỹ thuật thêu và ghép vải. Để thêu các hoa văn trên váy, người Mông sử dụng kỹ thuật thêu chéo mũi. Cách thêu này dễ tạo ra nét mềm mại, chủ động, phóng khoáng, không bị gò bó như trong kỹ thuật thêu luồn sợi dựa theo thớ vải ngang - dọc nên nhiều phần hoa văn chỉ là những đường kỷ hà nhưng bỗng trở nên mềm mại, phóng khoáng và thoáng đạt với kỹ thuật thêu chéo mũi. Hơn nữa, kỹ thuật thêu này còn cho phép người ta có thể mở rộng đề tài và bố cục mầu sắc. Hoa văn được thể hiện bằng nhiều cách thêu trên váy thường có các hình ngôi sao, đồng tiền, hạt đậu, con tằm, cái cuốc, móng chân trâu… Cũng ở phần này, người phụ nữ Mông còn khéo léo chắp vải mầu rất dày tạo thành những đường viền bao quanh các chi tiết hoa văn thể hiện bằng phương pháp in sáp ong hay thêu chỉ mầu.
Tựu chung lại, hoa văn trên trang phục của người Mông cho dù sử dụng kỹ thuật nào: in sáp ong, thêu chỉ hay ghép vải cũng đều được bố trí theo một nguyên tắc nhất quán là mỗi mảng hoa văn đều có tâm điểm, được tô điểm bởi những dải hoa văn bao quanh và hoa văn mở rộng. Tuỳ theo sự sáng tạo tài hoa của mỗi người mà tạo nên những đồ án trang trí khác nhau.
Trang trí dân gian trên vải của người Mông ở Cát Cát cho thấy các đường nét, phong cách và bố cục màu sắc đều quan trọng, qua đó thể hiện được nhiều thông tin liên quan đến đời sống tinh thần của họ. Nếu như gấu váy mặc thường ngày của họ có mầu đen thì chiếc váy mặc cho người chết lại thường có phần chân váy mầu đỏ. Nó không chỉ có tác dụng tôn con người lên trước khung cảnh của núi rừng mà còn tượng trưng cho hạnh phúc, có thể chống lại các loại ma tà. Do vậy mà trước kia, nhiều gia đình người Mông ở Cát Cát thường treo một miếng vải đỏ ở trước cửa nhà mình với mong ước cầu phúc đến cho gia đình của họ [Lời thuật của cụ Má A Trư, sinh năm 1927, trú tại đội III, thôn Cát Cát].
Qua quan sát một số chiếc bộ trang phục truyền thống ở Cát Cát, chúng tui nhận thấy các nhóm mô típ hoa văn cơ bản kể trên có những đặc điểm về mặt bố cục như sau:
Một là, các mô típ hoa văn hình học hầu như chỉ có tác dụng làm nền cho các hoa văn chính và có thể ví chúng như một cái khung cho một bức tranh. Chính nhờ có các khối hoa văn hình học làm nền mà khối hoa văn chính trở lên nổi bật, rõ nét, làm rõ ý đồ chủ đạo của nghệ nhân tạo hình.
Hai là, các mô típ hoa văn hình học thường được bố trí theo đường viền và mang tính liên tục, liên tục. Ở trên nền vải, người ta thường dùng hoa văn hình học để làm đường viền cho các hoa văn hình hoa cúc, hoa hướng dương, hoa đồng tiền, chữ thập... Các băng hoa văn không bị cắt khúc mà chạy liên tục khiến cho người ta có cảm giác như chúng trải dài đến vô tận.
Ba là, khi thể hiện hoa văn ở thân váy bằng kỹ thuật in sáp ong (xuất hiện nhiều ở thân váy) thì người nghệ nhân tạo hình thường thể hiện ở dạng hình vuông với kỹ thuật xử lý bằng khuôn hoa văn theo các ô vuông, trong đó thường miêu tả ở các dạng ngôi sao 8 cánh, hình đồng tiền hay hình chữ thập.
Bốn là, những băng hoa văn hình học thường được chạy song song tạo thành các đường diềm ở trên và dưới. Ở những mảng hoa văn như vậy, người nghệ nhân cũng xử lý khuôn hoa văn vào thành từng ô vuông để miêu tả các loại hình hoa văn.
Năm là, tuyệt đại bộ phận các mô típ hoa văn hình học được sử dụng làm đường viền/diềm trên trang phục và các sản phẩm may mặc đều được xử lý theo quy luật cân đối.
Sáu là, bố cục của các mô típ hoa văn hình học thường có sự kết hợp tạo thành những tổ hợp hoa văn có tần số xuất hiện tương đối nhiều trên vải, nhất là trên áo, váy. Những tổ hợp phổ biến mà chúng tui nhận thấy được như sau:
- Tổ hợp mô típ hoa văn hình trám xen với mô típ đường thẳng song song: Các băng hoa văn theo quy luật đối xứng, ở giữa là các hàng hoa văn hạt dưa, hai bên là các đường gạch dài song song ở trên cổ áo.
- Tổ hợp mô típ hoa văn hình chữ S xen giữa mô típ hoa văn hình răng cưa: Tổ hợp này cũng gồm các băng hoa văn đối xứng với nhau giữa hình chữ S. Hai bên có dải hoa văn hình răng cưa. Điển hình cho tổ hợp này là được trang trí hoa văn in sáp ong ở trên thân váy. Cũng có khi, tổ hợp này được giản lược chỉ còn lại dải hoa văn hình răng cưa ở giữa, các đường thẳng song song chạy hai bên như hoa văn trên cổ áo.
- Tổ hợp hoa văn hình đồng tiền xen giữa các đường gạch dài: Tổ hợp này cũng mang tính cân đối với băng hoa văn đồng tiền ở giữa. Hai bên là các đường gạch dài chạy song song như hoa văn in sáp ong trên thân váy.
Ngoài các tổ hợp hoa văn cơ bản kể trên còn có một số tổ hợp hoa văn khác nhưng xuất hiện không nhiều. Bố cục hoa văn trang trí còn được thể hiện ở cách bố trí xen ghép giữa các tổ hợp hoa văn chính với các tổ hợp hoa văn làm nền. Những mảng trang trí thường là đường diềm thể hiện bằng các kỹ thuật in sáp ong, ghép vải mầu và thêu chỉ mầu. Những mảng hoa văn chính thường là rộng, nét đậm và dầy hay ghép vải với nhiều kích cỡ to nhỏ khác nhau nhưng hiệu quả màu sắc vẫn sáng, thoáng. Người nghệ nhân tạo hình đã cho thấy trình độ thẩm mỹ cao qua việc sử dụng khá tài tình các bảng mầu nền, các mô típ hoa văn in sáp, ghép vải và thêu cùng một lúc xuất hiện trên cùng một sản phẩm nhưng các sắc độ mầu vẫn khác nhau, các mảng sáng - tối rất hài hoà
* Tóm lại, đặc điểm của hoa văn trên trang phục của người Mông ở Cát Cát là một đồ án bao gồm nhiều mô típ hoa văn khác nhau nhưng được phân ra chính - phụ rõ ràng. Ở nhiều trường hợp, trên đồ án hoa văn không chỉ có một mô típ chính mà có sự kết hợp giữa nhiều mô típ khác nhau, cùng nhau đóng vai trò chủ đạo. Tên các loại hoa văn chủ yếu được gọi theo kỹ thuật trang trí hoa văn hay các hiện tượng tự nhiên xung quanh khu vực mà đồng bào sinh sống. Chẳng hạn, loại hoa văn thêu jiv câuv còn được gọi là hoa văn hình con ốc (được gọi theo hiện tượng tự nhiên mà người Mông quan sát). Mặt khác, một mô típ hoa văn nhưng lại được gọi theo nhiều tên khác nhau theo quan niệm của mỗi người. Chẳng hạn, cùng một mẫu hoa văn, có người cho đó là hoa văn hình móng chân gà, có người thì lại đánh giá là hoa văn hình móng chân trâu; cũng có loại mẫu hoa văn người chỉ giải thích là vết chân chuột, người thì nói đó là con tằm... Như vậy, sở dĩ tên gọi của các loại hoa văn (cùng một mẫu) khác nhau là do xuất phát từ cách liên hệ của mỗi người khác nhau. Riêng những dạng hoa văn được thể hiện theo lối tả thực cao độ như hoa văn hình con ốc, hoa văn hình con chó nằm ngủ, hoa văn hình hoa bí… thì cách giải thích thường có sự thống nhất.

Do thực tế của cuộc sống, người dân luôn phải đối mặt với những sự lựa chọn khó khăn. Thậm chí, ngay cả những người quản lý ở cơ sở cũng hiểu chất lượng cuộc sống dưới góc độ văn hoá vật chất hơn là có sự bổ sung của văn hoá tinh thần. Câu hỏi thường trực của họ (và cũng là nội dung chính trong các cuộc họp bàn về chính sách phát triển kinh tế - xã hội của cơ sở) là làm thế nào để sống tốt hơn, giàu có hơn về vật chất chứ không phải là làm thế nào để giữ được những câu chuyện cổ tích, những điệu khèn hay câu hát dân ca, ngoại trừ một điều gần như bắt buộc: đó là con đường về với tổ tiên sau khi chết.
Nhiều đứa trẻ không còn được lớn lên trong những lời ru truyền cảm của mẹ. Và, tai hại hơn, nhiều đứa trẻ đã lang thang suốt ngày để buôn bán kiếm lời bất chấp những lời khuyên của cha mẹ. Sức ép của gia đình đã không còn thắng nổi sự cám dỗ của những món lợi vật chất. Các mối liên kết cộng đồng với những tiêu chí truyền thống đã và đang bị thay thế bởi các chuẩn mực mới, lấy cá nhân làm trung tâm. Nền tảng cơ sở của văn hoá dân gian nói chung, hoa văn trên vải nói riêng của người Mông ở Cát Cát đang mất đi từng ngày.
Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận một thực tế là: khi cuộc sống vật chất đã được đáp ứng tốt hơn, người ta sẽ trở lại với những giá trị văn hoá phi vật thể truyền thống. Qua thực tế khảo sát ở cơ sở, có nhiều người Mông ở Cát Cát vẫn háo hức với các sinh hoạt cộng đồng của dân tộc mình. Bởi lẽ, nó hoàn toàn phù hợp với ý nguyện của người dân và do người dân làm chủ, dưới sự hỗ trợ của chính quyền cơ sở và các đoàn thể. Các mẫu hoa văn trên vải tuy được cách tân hoá nhưng ít nhất cũng tạo nên được một sự “ôn cố” và “tiếp nối” truyền thống và nếu được kết hợp chặt chẽ hơn với công tác điều tra, sưu tầm, nghiên cứu cơ bản và tổ chức bảo tồn trong cộng đồng với các biện pháp khoa học sẽ có tác dụng to lớn. Rõ ràng là người Mông ở Cát Cát đang cố gắng tìm lại sự cân bằng giữa cuộc sống vật chất và cuộc sống tinh thần. Hi vọng rằng, những hoa văn trên vải cũng sẽ được cộng đồng lưu giữ một cách tích cực như thế.
Từ thực tế nêu trên, vấn đề cơ bản được đặt ra ở đây là: Làm thế nào để người Mông ở Cát Cát vừa phát triển được cơ sở kinh tế - xã hội, vừa gìn giữ được những bản sắc riêng trong văn hoá tộc người? Từ vấn đề được đặt ra này lại nảy làm nảy sinh hai vấn đề mới cần được giải quyết. Đó là: phải làm gì để khôi phục lại những nền tảng cơ sở của văn hoá đã và đang bị mất đi? Và: có thể kết hợp giữa truyền thống và hiện đại để xây dựng những chuẩn mực mới phù hợp với nhu cầu phát triển?
Các vấn đề trên phải được các nhà khoa học, các nhà quản lý giải quyết với sự tham gia một cách tích cực của người dân, được cộng đồng tộc người chấp nhận. Việc lựa chọn mô hình và con đường phát triển của người Mông nơi đây cần dựa trên những nhu cầu của cộng đồng, do cộng đồng quyết định. Tuy nhiên, sự lựa chọn đó sẽ đúng đắn hơn nếu như có sự dịnh hướng của các nhà khoa học, văn hoá học dưới sự đảm bảo của các thể chế chính trị và sự trợ giúp một cách có hiệu quả về y tế và giáo dục.
4.2. Một số kiến nghị
Từ những vấn đề nêu trên, chúng tui xin có một vài kiến nghị như sau:
Một là, cho đến nay, các mẫu hoa văn nói chung, hoa văn trên vải nói riêng của người Mông ở Cát Cát chưa được điều tra tổng thể và thống kê đầy đủ. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu cơ bản trước khi quá muộn. Đây là nhiệm vụ của các cơ quan khoa học chuyên ngành như dân tộc học, văn hoá học, bảo tàng học và mĩ thuật với sự tham gia của người dân.
Hai là, việc hoạch định các chính sách hay thực thi các dự án phát triển ở Cát Cát cần gìn giữ các yếu tố văn hoá phi vật thể (trong đó có hoa văn trên vải) trên nền tảng cộng đồng. Sự can thiệp của các thể chế chính trị cũng như các Tổ chức Phi chính phủ sẽ chỉ có ý nghĩa tích cực khi văn hoá truyền thống của người dân được tôn trọng và phát huy. Sự phát triển bền vững chỉ có thể có được khi chúng ta biết kết nối truyền thống với hiện đại và giữ được sự đa dạng văn hoá tộc người trong cuộc sống đương đại.

KẾT LUẬN
Trong kho tàng văn hoá của người Mông ở Cát Cát, hoa văn không chỉ có mặt trên vải mà còn có mặt trên các chất liệu như đồ đồng, đồ trang sức, trên các công trình kiến trúc, điêu khắc, trong các tác phẩm nghệ thuật dân gian. Chúng xuất hiện đa dạng trong đời sống và phát huy vai trò ở nhiều phương diện. Tuy nhiên, không ở đâu, hoa văn lại có điều kiện thể hiện một cách phong phú, đa dạng như trên vải.
Ẩn chứa bên trong các hình vẽ, các màu sắc, các phong cách bố cục hoa văn trên vải của người Mông ở Cát Cát là tâm lý, nếp sống, là quan niệm thẩm mĩ, quan niệm về thế giới tự nhiên, là bản sắc văn hoá dân tộc, là tiến trình phát triển của lịch sử, văn hoá và sự giao thoa văn hoá của tộc người.
Hoa văn trên vải của người Mông ở Cát Cát là sự bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống của cộng đồng người Mông nơi đây. Đồng thời, nó cũng là một biểu hiện sự định hình tiếp xúc văn hoá của người Mông với các tộc người khác trên tiến trình lịch sử và văn hoá tộc người.
Phát hiện và giải mã tín hiệu hoa văn trên vải của người Mông ở Cát Cát không phải là việc làm đơn giản, và cũng không thể hoàn thành trong một sớm một chiều. Đó phải là cả một quá trình tiếp cận lâu dài, phải hoà nhập vào cuộc sống của cộng đồng dân cư để tìm hiểu từ tâm lý, tính cách, phương pháp tư duy, nếp sống cộng đồng cùng mọi phương diện về văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của đồng bào. Phương pháp tiếp cận cần thận trọng, đúng hướng để tìm được đúng nghĩa của các tín hiệu hoa văn.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top