daigai

Well-Known Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI

CHƯƠNG 1
LẠM PHÁT VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG VIỆC KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
1.1. Các quan điểm về lạm phát
1.1.1. Các quan điểm về lạm phát trong lịch sử
Lạm phát (Inflation) là một phạm trù kinh tế vĩ mô, chứa đựng nội hàm phức tạp. Lạm phát là một căn bệnh tiềm ẩn đối với nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, nó xuất hiện khi nền kinh tế có các dấu hiệu mất cân đối, mất cân đối giữa cung - cầu hàng hóa, mất cân đối giữa cung-cầu tiền… Lạm phát là một vấn đề lớn, khó và phức tạp nên mỗi khi nó xuất hiện lại đòi hỏi nhiều tâm trí, sức lực của các nhà kinh tế, các nhà khoa học, các nhà chính trị và các nhà quản lý để tìm ra những giải pháp kiềm chế, tránh hậu quả do nó gây ra. Trong lịch sử nhiều nhà kinh tế đã nghiên cứu và đưa ra những quan điểm khác nhau về lạm phát :
Quan điểm 1: Quan điểm đồng nhất giữa lạm phát và tăng giá - gọi là lý thuyết về lạm phát và tăng giá.
Các nhà kinh tế học Mỹ như J.P Luthebing, L.V Chandeler và D.C Clinder cho rằng: “Thời kỳ mà giá hàng tăng, không kể sự biến động ấy là lâu dài, có tính chất chu kỳ hay ngoại lệ là thời kỳ lạm phát”.
Nhà kinh tế Thụy Điển, Bentet Hanxen viết “Khi chúng ta nói đến lạm phát tức là chúng ta quyện nó vào việc nâng giá”. Nhà kinh tế Pháp Emin Giam nói: “Hiện tượng cơ bản của lạm phát là sự tăng giá” còn nhà kinh tế người Đức Euyun Danner thì cho rằng “Lạm phát là sự nâng giá kéo dài”.
Theo quan điểm thì lạm phát là sự tăng giá nói chung của chỉ số hàng hóa. Người ta thường dựa vào chỉ số giá cả hàng tiêu dùng (CPI) để xác định mức độ lạm phát.
Quan điểm 2: Lạm phát là việc phát hành tiền giấy vượt quá mức đảm bảo bằng vàng bạc, ngoại tệ... của quốc gia, vì vậy gây ra sự mất giá của tiền giấy làm cho giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao, quan điểm này quá coi trọng cơ sở đảm bảo bằng vàng bạc, ngoại tệ cho tiền trong nước và người ta cho rằng để chống lạm phát cần phục hồi lại chế độ tiền giấy chuyển đổi ta vàng theo một mức giá qui định.
Quan điểm 3: Lạm phát là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tiền và hàng trong nền kinh tế, sự mất cân đối với tiền lớn hơn hàng khiến cho giá cả hàng hóa tăng lên ở mọi lúc mọi nơi. Để khắc phục tình trạng này cần dùng một biện pháp để thiết lập lại sự cân đối giữa tiền và hàng hóa trong nền kinh tế.
Việc nhìn nhận lạm phát bằng một định nghĩa này hay định nghĩa khác khó đi đến thống nhất theo từng quan điểm riêng biệc. Tuy nhiên dù sao lạm phát cũng thể hiện qua những đặc trưng cơ bản như:
-Sự thừa tiền quá mức
- Sự tăng giá đồng bộ và liên tục theo sự mất giá của tiền giấy
- Sự phân phối lại qua giá cả
- Sự bất ổn về kinh tế - xã hội
Như vậy, lạm phát được hiểu là:
“Hiện tượng giá cả tăng nhanh trong thời gian dài dưới tác động của một hay tổng hòa nhiều yếu tố; gây ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của nước xảy ra lạm phát nếu không có những giải pháp kiểm soát kịp thời”.
1.1.2. Biểu hiện của lạm phát trong nền kinh tế hiện đại
Trong điều kiện hiện đại khi mà nền kinh tế của một nước luôn được gắn liền với nền kinh tế thế giới thì biểu hiện của lạm phát được thể hiện qua một số yếu tố mới:
a. Sự mất giá của các loại chứng khoán có giá
Song song với việc tăng giá cả các loại hàng hóa, giá trị các loại chứng khoán có giá trị bị sụt giảm nghiêm trọng, vì việc mua tín phiếu là nhằm để thu các khoản lợi khi đáo hạn. Nhưng vì giá trị đồng tiền sụt giảm nghiêm trọng nên người ta không thích tích lũy tiền theo hình thức mua tín phiếu nữa. Người ta tích trữ vàng và ngoại tệ.
b. Sự giảm giá của đồng tiền so với ngoại tệ và vàng
Trong điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế, vàng và ngoại tệ mạnh được coi như là tiêu chuẩn để đo lường sự mất giá của tiền quốc gia. Đồng tiền càng giảm giá so với vàng và USD bao nhiêu nó lại tác động nâng giá hàng hóa lên cao bấy nhiêu. Ở đó người ta bán hàng dựa trên cơ sở “quy đổi” giá vàng hay ngoại tệ mạnh để bán mà không căn cứ vào giá trị tiền quốc gia.
1.2. Các cấp độ lạm phát
Căn cứ vào tỷ lệ lạm phát các nhà kinh tế thường chia lạm phát thành ba loại: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
1.2.1. Lạm phát vừa phải (Moderate inflation) là loại lạm phát một số (sigit-digit inflation).Tỷ lệ tăng giá thấp, dưới 10%/năm.Có thể nói giá cả tương đối ổn định, bởi vì sự thay đổi của nó hầu như rất khó nhận biết. Dân chúng tin tưởng vào giá trị đồng tiền. Do đó người ta sẽ không lãng phí thời gian và sức lực trong việc cố gắng bảo tồn của cải dưới các dạng tài sản khác với tiền.
1.2.2. Lạm phát phi mã (Galloping iflation) là loại lạm phát hai hay ba số, tức trong khoảng hơn 10%, 50%, 200%, 800%... một năm.
Trong thập niên 1980 đã có nhiều nước lâm vào tình trạng lạm phát phi mã đến 700% chẳng hạn Argentina, Brazil, Việt Nam… Đồng tiền bị mất giá một cách nhanh chóng, lãi suất thực thường âm. Trong điều kiện đó, không ai cho vay với mức lãi suất bình thường. Phần lớn các hợp đồng kinh tế được chỉ số hóa theo tỷ lệ lạm phát hay được tính toán theo ngoại tệ mạnh hay theo vàng. Ít có ai nắm giữ lượng tiền mặt quá mức tối thiểu cần thiết cho việc giao dịch hàng ngày, ngược lại hàng hóa sẽ được ưa chuộng hơn, nhất là các hàng hóa lâu bên. Chính điều đó làm cho lạm phát càng có nguy cơ tăng tốc,đôi khi dẫn đến hiện tượng xoáy trôn ốc rất nguy hiểm. Lúc này thị trường tài chính có nguy cơ lụn bại. Mặc dầu vậy, phần lớn các nước có lạm phát phi mã vẫn có khả năng cứu vãn được mà không cần đến những biện pháp cực đoan.Hơn nữa,một số nước vẫn tăng trưởng tốt với tỷ lệ lạm phát 100-200%, điển hình là Brazil và Ixaren vào thập niên 1970. Tuy nhiên sự tăng trưởng đó đã bị biến dạng, bởi vì phần lớn đầu tư được đưa ra nước ngoài, làm giảm đầu tư trong nước.
1.2.3. Siêu lạm phát (Hyperainflation) với tỷ lệ trên 1000%. Các cuộc siêu lạm phát điển hình như ở Bolivia vào 1985 với tỷ lệ 50000%, ở Đức xảy ra vào tháng 11 năm 1923 với tỷ lệ 10.000.000.000% so với tháng 1 năm 1982. Zimbabwe hiện là một trong những quốc gia có tình trạng siêu lạm phát tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới với tỷ lệ vượt mức 40 triệu %. Tỷ lệ lạm phát tăng từ 1000% vào năm 2006 lên đến 12000% vào năm 2007. Chính phủ phải bỏ đi 10 chữ số 0 trên tờ tiền Zimbabwe để đảm bảo máy tính có thể tính được. Quả thật không thể nói bất cứ điều tốt lành nào trong các cuộc siêu lạm phát cả. Người ta bị chìm ngập trong khối tiền tệ trong khi mọi thứ hàng hóa đều khan hiếm. Chức năng sơ đẳng nhất của tiền là làm phương tiện trao đổi cũng có thể bị mất đi. Có tiền chưa chắc mua được hàng bởi vì không ai muốn bán hàng để lấy những đồng tiên vô giá trị. Nền tài chính hoàn toàn bị lụn bại, nhiều giao dịch diễn ra trên cơ sở đổi hàng. Thông thường, siêu lạm phát chỉ có thể được cứu chữa bằng chính sách cải cách tiền tệ, là biện pháp cực đoan mà chính phủ các nước phải sử dụng khi lạm phát cao đến mức không thể cứu vãn nổi.
Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát:
Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định.
Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát đã có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến, hay cách mạng, do sự căng thẳng về ngân sách chính phủ. Dựa trên các bằng chứng lịch sử, dường như thâm hụt ngân sách kéo dài được tài trợ bằng phát hành tiền trong khoảng từ 10-12% của GDP sẽ gây ra siêu lạm phát.
1.3. Nguyên nhân của lạm phát
1.3.1. Lạm phát do cầu kéo và lạm phát do chi phí đẩy
1.3.1.1. Lạm phát cầu – kéo (Demand pull inflation)
Nguyên nhân này xảy ra khi tổng cầu trong nền kinh tế cao hơn tổng cung trong cùng thời điểm đó. Trường hợp này xuất hiện có thể là do tổng cầu tăng nhưng tổng cung không đổi, hay tổng cung cũng tăng nhưng tăng không bằng tổng cầu.
Khái niệm Cầu–Demand được hiểu khác với nhu cầu-Need, trong đó nhu cầu là trạng thái tâm lý chỉ sự ham muốn, cần thiết, ước muốn của con người, mà những cái này của con người thì vô cùng vô tận muôn màu muôn sắc, còn Cầu-Demand là lượng hàng hóa mà người tiêu dùng muốn mua tại mỗi mức giá tương ứng.
Lạm phát cầu kéo giải thích rằng: khi tổng cầu tăng tức là có nhiều người muốn mua và sẵn sàng mua hàng hóa, trong khi đó lượng cung không tăng hay tăng không bằng tổng cầu, thì đương nhiên trên thị trường sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt hàng hóa, theo quy luật cung cầu thì trong trường hợp này giá cả thị trường tăng lên là điều tất yếu. Như vậy đã xuất hiện lạm phát.
ĐỒ THỊ 1.1: MÔ HÌNH LẠM PHÁT CẦU KÉO
P

P1
P0






Tổng cầu trong nền kinh tế bao gồm chi tiêu của hộ gia đình-C, chi tiêu của chính phủ-G, Đầu tư trong nền kinh tế-I, Nhu cầu hàng hóa cho xuất khẩu-X, lượng hàng hóa nhập khẩu-M, hàng hóa nhập khẩu làm phong phú thêm hàng hóa trong nước làm giảm căng thẳng của tổng cầu nên được biểu diễn bằng dấu âm (-) trong biểu thức cộng các yếu tố của tổng cầu. Nếu gọi tổng cầu là AD thì: AD = C + I + G + X - M. Tổng cầu tăng có thể do một hay một số các yếu trong vế bên phải của biểu thức tăng lên
- Các hộ gia đình tăng chi tiêu do thu nhập tăng, hay được chính phủ giảm thuế, tăng trợ cấp hay cảm giác các chế độ an sinh xã hội hay bảo hỉểm tốt nên quyết định cắt giảm tiết kiệm để chi tiêu.
- Chính phủ tăng các khoản chi tiêu cho an ninh quốc phòng, tăng các khoản đầu tư cũng làm tăng tổng cầu.
- Các doanh nghiệp tăng đầu tư do xuất hiện nhiều cơ hội kinh doanh hấp dẫn.
- Kim ngạch XNK thay đổi theo hướng chênh lệch (X-M) ngày càng tăng do đồng nội tệ mất giá so với ngoại tệ, chất lượng sản phẩm ngày càng tốt hơn nên bán được nhiều hơn.
1.3.1.2. Lạm phát do chi phí đẩy (Cost push inflation)
Lạm phát loại này xuất hiện khi chi phí đầu vào cho sản xuất tăng hay năng lực sản xuất của nền kinh tế giảm sút. Chi phí đầu vào tăng có thể do giá các nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất tăng giá. Điều kiện khai thác khó khăn hơn đòi hỏi nhiều chi phí hơn; thiên tai mất mùa lụt bảo động đất làm giảm năng lực sản xuất; khủng hoảng ngành dầu mỏ do các liên minh dầu mỏ tăng giá hay chiến tranh vùng vịnh làm tăng giá, giá dầu tăng làm tăng chi phí trong ngành năng lượng, từ đó làm tăng chi phí đầu vào trong các ngành khác. Các chi phí sản xuất tăng làm tăng giá thành sản phẩm và buộc doanh nghiệp tăng giá bán để bù đắp chi phí. Giá bán tăng tạo lạm phát. Nhưng mặt khác giá bán tăng, theo quy luật cung cầu sẽ làm tổng cầu giảm xuống, các doanh nghiệp sẽ cắt giảm sản xuất sa thải nhân công. Hậu quả dẫn đến cho nền kinh tế lúc này là vừa xuất hiện lạm phát lại vừa bị suy thoái. Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát do chi phí đẩy hay lạm phát kèm suy thoái.
Thứ nhất, có kế hoạch đào tạo cán bộ toàn diện nắm vững kiến thức về kinh tế vĩ mô hiện đại, phân tích và lập chương trình tài chính xem xét tổng thể việc điều hành CSTT trong mối liên hệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Đồng thời biết áp dụng kỹ thuật phân tích kinh tế lượng.
Thứ hai, cần bố trí cán bộ chuyên trách cho công việc phân tích và dự báo trên cơ sở phân tích định lượng. Hiện nay, những cán bộ có kiến thức về kinh tế lượng chưa có thời gian nghiên cứu sâu do phải thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn khác.
Thứ ba, cần chú trọng đến việc trang bị đầy đủ các trang thiết bị cho việc phân tích định lượng như trang bị tài liệu chuyên về phân tích kinh tế lượng, tài liệu hướng dẫn sử dụng phần mềm và cài đặt các chương trình trong máy tính, tạo điều kiện cho các nhà hoạch định chính sách có đủ trang thiết bị làm việc.
3.3.3. Áp dụng lạm phát mục tiêu ở Việt Nam
Việc điều hành CSTT của NHNN VN hiện nay còn có những khó khăn, bất cập. Điều hành CSTT chủ yếu theo cách lấy tổng phương tiện thanh toán (M2) làm mục tiêu trung gian và duy trì sự ổn định của tỷ giá, chủ trương neo tỷ giá VND với USD trong nhiều năm và can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm khuyến khích xuất khẩu nhưng nhập siêu vẫn tăng từ 16,9 tỷ USD năm 2008 lên 12,2 tỷ USD năm 2009, mức tăng trưởng tín dụng năm 2008 là 25,43% và tiếp tục tăng trong năm 2009 đạt 37,73%, làm cho M2 tăng cao. Điều này tuy góp phần làm tăng trưởng kinh tế nhưng lạm phát đã lên tới 19,89% năm 2008 và 8,9% năm 2009. CSTT đang tập trung vào quá nhiều mục tiêu mà chúng ta nên chỉ tập trung giải quyết một mục tiêu chính, mục tiêu này được thực hiện thì tác động thực hiện các mục tiêu khác. Do đó, CSTT nên chuyển hướng sang thực hiện cơ chế lạm mục tiêu.
3.3.4. Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ ngân hàng nhà nước
Con người luôn là yếu tố then chốt và quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ của cán bộ NHNN trong xây dựng và điều hành CSTT là nhu cầu vừa mang tính cấp thiết vừa lâu dài.
Để hoàn thiện và thực thi hiệu quả CSTT, điều quan trọng là phải nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ đội ngũ cán bộ NHNN, thường xuyên đào tạo nâng cao nghiệp vụ, đặc biệt là cán bộ quản lý, dự báo, phân tích, v.v… Chương trình đào tạo cần được chuẩn hoá và phù hợp với yêu cầu, xu thế phát triển của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đào tạo lý thuyết cơ bản thì cũng cần tiến hành các khoá học ở trong nước và nước ngoài.
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:

 

Kiến thức bôn ba

Các chủ đề có liên quan khác

Top