jay_wu

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

Ngoài ra trong hoạt động của xã hội luôn có những loại quỹ có vốn bằng tiền như bảo hiểm, quỹ phúc lợi tập thể, và các loại quỹ tương trợ khác. Một phần vốn của quỹ này được gửi vào ngân hàng để thực hiện việc thanh toán. Số còn lại quan trọng hơn nhiều, những nhà quản lý quỹ luôn tìm cách làm cho số vốn của họ được sinh lợi nhiều nhất nhưng lại phaỉ an toàn và phải có tính tạm thời... thị trường chứng khoán có khả năng giải quyết các yêu cầu đó.
Mỗi người trong xã hội chỉ có một lượng tiền nhỏ, nhưng kết hợp lại sẽ thành một lượng lớn khổng lồ. Số tiền này được tập trung qua thị trường chứng khoán để đưa vào công cuộc đầu tư có tính sản xuất.
Nhờ thị trường chứng khoán, với công cụ cổ phiếu có mệnh giá rất nhỏ và cổ phiếu quỹ đầu tư, đại đa số dân chúng đều có thể tham gia được vào công cuộc đầu tư bằng số vốn ít ỏi của mình. Chẳng hạn một sinh viên cũng có thể tham gia vào thị trường chứng khoán với vài trăm nghìn mà ngươì thân cho bằng cách mua một vài cổ phiếu cua một công ty nào đó. Với hàng nghìn người như vậy sẽ tạo ra một số tiền rất lớn phục vụ đàu tư sản xuất. Hoạt động của thị trương tài chính và khả năng mang lại lợi nhuận của nó đã khiến người ta thấy nắm giữ tiền mặt và những tài sản khác là rất vô lý.
2. Thị trường chứng khoán là một công cụ giúp nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội.
Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào các chính sách và các biện pháp can thiệp của nhà nước. Ngân sách nhà nước càng lớn thì các chương trình phát triển kinh tế xã hội càng dễ thành công.Để có vốn cho chi tiêu của nhà nước, nhà nước thực hiện chính sách thuế. Thuế là biện pháp quan trọng nhất để tạo nên ngân sách nhà nước. Nhưng thông thường tiền thu từ thuế không đủ cho chi tiêu, do đó phải có nguồn thu khác, đó là trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương...một hình thức vay tiền của dân. Không có thị trường tài chính thì nhà nước cũng phát hành được trái phiếu nhưng việc phát hành sẽ khó khăn và tính lỏng của trái phiếu sẽ rất thấp.
3. Là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài.
Về khả năng thu hút vốn đầu tư của TTCK. Không có thông tin đầy đủ chính xác thì dù có thừa vốn nhà đầu tư cũng không giám đầu tư. TTCK hoạt động trên nguyên tắc công khai nghĩa là mọi đối tượng tham gia phải công khai hoá và cập nhật toàn bộ những thông tin có liên quan đến giá trị chứng khoán và công khai khả năng tài chính trong các giao dịch mua bán chứng khoán. Như vậy TTCK sẽ khắc phục được tình trạng thiếu thông tin hay thông tin không trung thực cho cả hai phía.
Về khả năng kiểm soát vốn đầu tư vốn nước ngoài của TTCK. Đầu tư thông qua thị trường chứng khoán tức là đầu tư mua bán trên thị trường có tổ chức.Trong mỗi loại chứng khoán theo luật định sẽ có một phần được bán cho người nước ngoài. Chẳng hạn khống chế một tỷ lệ nhất định mà cá nhân tổ chức có thể mua nhằm chống sự tham gia quản lý và kiểm soát công ty. Đó là ưu điểm cơ bản của cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua TTCK.
TTCK còn là tấm gương phản chiếu chất lượng của hoạt động kinh doanh vì giá cổ phiếu phản ánh tình hình hoạt động của công ty. Sự tăng nhu cầu vào một loại chứng khoán nào chứng tỏ công ty đó đang hoạt động tốt.
4. TTCK lưu động hoá các nguồn vốn trong nước.
Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được mọi người mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán. Người có vốn không sợ vốn của họ bị ‘đông’ trên thị trường vì khi cần họ có thể bán lại các cổ phiếu, trái phiếu của họ và mua các loại cổ phiếu, trái phiếu của công ty khác. Trong thị trường chứng khoán vốn luôn được luân chuyển để tài trợ cho các dự án đầu tư khác nhau. Qua đó nó làm cho mọi nguồn vốn trở nên lưu động hơn.
5. TTCK là điều kiện tiền đề cho quá trình cổ phần hoá.
Cổ phần hoá là quá trìnhchuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần, quá trình đó đòi hỏi phải có TTCK bởi lẽ công ty cổ phần và TTCK là như hình với bóng. Nừu không có TTCK thì vốn đầu tư qua cổ phiếu sẽ kém lỏng hơn rất nhiều, như vậy sẽ khó khăn cho việc khát hành. Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp khác với mục tiêu chủ yếu là thu hút những nguồn vốn trong tay quần chúng vào đầu tư. Do vậy TTCK là điều kiện tiền đề cật chất cho quá trình cổ phần hoá.
6. TTCK kích thích các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng.
Nhờ có TTCK mà các doanh nghiệp mới có thể đem bán, phát hành cổ phiếu trái phiếu của họ. Ban quản lý TTCKchỉ chấp nhận các cổ phiếu, trái phiếu của các công ty đủ tiêu chuẩn: Kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, kinh doanh có lợi và người ta cũng chỉ mua cổ phiếu của công ty thành đạt và có uy tín. Như vậy những nhà quản lý các doanh nghiệp phải tính toán làm ăn đàng hoàng. Hơn nữa TTCK buộc các doanh nghiệp phải công bố công khai các bản báo cáo cân đối tài chính do đó công chúng có thể đánh giá hoạt động của công ty.
III. Những mặt tiêu cực của thị trường tài chính.
TTCK có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn vào đầu tư nhưng nó cũng có những mặt tiêu cực. đó là:
1. Yếu tố đầu cơ:
Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những ngưòi chấp nhận rủi ro. Họ có thể mua cổ phiếu hôm nay và hy vọng ngay mai giá cả sẽ tăng dể bán ra thu chênh lệch. Yếu tố đầu cơ dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho giá cổ phiếu có thể tăng hay giảm giả tạo.Sự cấu kết giữa nhiều người sẽ tạo ra sự khan hiếm hay thừa thãi giả tạo làm cho giá cổ phiếu lên xuống đột ngột.
Nói chung luật về TTCK không cấm đầu cơ nhưng cấm cấu kết dưói mọi hình thức.
Đây là vấn đề rất phức tạp ở Việt Nam. Trước hết là do TTCK mới thành lập luật vềTTCK còn nhiều điều còn đang bàn cãi. Tiếp đó là mới chỉ có một số it người tham gia vào TTCK với số lượng lớn do đó rất đễ câu kết với nhau. Đây là vấn đề rất khó phát hiện và giải quyết.
2. Mua bán nội gián.
Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm được những thông tin nội bộ của đơn vị kinh tế để mua hay bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi riêng cho mình ảnh hưởng đến giá của cổ phiếu đó trên thị trường. Mua bán nội gián được coi là vi phạm quyền lợi chung vi sử dụng nguồn thông tin từ bên trong.
3. Bán cổ phiếu ngoài thị trường chứng khoán.
Nếu việc mua bán này được tự do thực hiện sẽ gây hậu quả khó lường. Vì bộ phận quản lý sẽ không thể nào biết được việc chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần của một đơn vị nào đó. Mọi sự mua bán từ bên ngoài có khả năng tạo áp lực cho các nhà đầu tư khác, thậm chí dẫn đến việc không chế hay thay đổi lãnh đạo của đơn vị. Vì vậy hầu hết các TTCK đều quy định mỗi mua bán cổ phiếu đã đăng ký với TTCK phải được thực hiện thông qua TTCK.
4. Phao tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc về hoạt động của một đơn vị kinh tế.
5. Liên tục mua vào một loại cổ phiếu nào đó ở giá cao và bán ra ở giá thấp với mục tiêu làm ảnh hưởng đến giá của cổ phiếu để đầu cơ.
Những mặt tiêu cực đó có thể hạn chế và khắc phục bằng việc ban hành một số hệ thống luật lệ hoàn chỉnh, và có sự giám sát của Uỷ ban chứng khoán quốc gia.
IV. TTCK ở Việt Nam khó khăn thuận lợi và một số giải pháp.
1. Thuận lợi
Nền kinh tế đã ra khỏi khủng khoảng với mức tăng trưởng cao và liên tục trong vài năm năm liên tiếp gần đây. Yếu tố này đã kích thích sự tăng lên về nhu cầu tư, nhất là đầu tư dài hạn. Người đầu tư có thể yên tâm đầu tư vào các mục đích sinh lợi khác nhau, trong đó có các chứng khoán trên thị trường. Mặt khác, trước khi hình thành thị trường chứng khoán hoàn chỉnh chung ta đã có một số công cụ tài chính ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng và các thị trường vốn ngắn hạn khác
Một yếu tố khác không kém phần quan trọng là chúng ta có sự giúp đỡ của một số nước,một số tổ chức quốc tế, các công ty chứng khoán nước ngoài quan tâm giúp đỡ về nhiều mặt.
2. Khó khăn.
Do thị trường chứng khoán là thể chế kinh tế mới mẻ, chúng ta chưa có chưa có kinh nghiệm thực tiễn, nên trong giai đoạn đầu vận hành không thể tránh khỏi những khiếm khuyết quy mô thị trường còn nhỏ bé, số lượng công ty niêm yết còn quá ít, số lượng chứng khoán và giá trị còn thấp chưa xứng với khả năng và điều kiện phát triển của nền kinh tế. Nhiều công ty cổ phần đủ điều kiện niêm yết nhưng chưa hào hứng tham gia do còn ngần ngại. Họ chưa nhận thức đầy đủ lợi ích của việc niêm yết hay còn e ngại kiểm toán công khai hoá thông tin, thay đổi cơ cấu sở hữu... Quan hệ cung-cầu cổ phiếu mất cân đối, nhu cầu đầu tư của công chúng lớn, gây áp lực lên giá làm giá chưng khoán tăng liên tục ( có trường hợp tăng 600% như cổ phiếu của HAP) và xu hướng này này còn có khả năng tăng cao gâu nguy cơ tiềm tàng về sụt giá chứng khoán. Trong khi đó trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu có khối lượng niêm yết khá lớn thì lại kém sôi động. Điều này cho thấy trái phiếu chính phủ chưa hấp dẫn các nhà đầu tư mặc dù nó có độ an toàn cao.
Thu nhập của người dân cònthấp, tỷ lệ tiết kiệm và tiêu dùng còn quá chênh lệch. Thói quen tiêu dùng lãng phí còn rất phổ biến. Tình hình lạm phát còn chứa đựng những nguy cơ tiềm ẩn. Hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán tới nay vẫn chưa hoàn chỉnh. Tình hình cổ phần hoá doanh nghiệp còn rất chậm chạp, cầm chừng, số lượng cổ phần không đáng kể so với yêu cầu đề ra.
3. Một số giải pháp trước mắt.
Phải tạo ra ngày càng nhiều hang hoá với nhiều chủng loại đảm bảo tiêu chuẩn chất lượngđể lưu thông và buôn bán trên thị trường. Do vậy bên cạnh việc khuyến khích các tổ chức niêm yết bằng các công cụ đòn bẩy như thuế, phí...Nhà nước nên có những chế tài mạnh mẽ hơn nữa đối với những tổ chức đã đủ điều kiện niêm yết. Từng bước xem xét tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của nhà nước đối với những công ty đã niêm yết mà không cần nắm giữ cổ phần chi phối hay có thể chuyển qua cổ phiếu ưu đãi biểu quyết.
Để hạn chế những mặt tiêu cực của TTCK việc xây dựng TTCK phải đồng thời với việc nghiên cứu cho ra đời những văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của TTCK tạo ra hành lang pháp lý cần thiết cho sự hoạt động và phát triển của TTCK ở Việt Nam.
Chúng ta nên xem việc đào tạo cán bộ nhất là nhưng người trực tiếp điều hành, quảm lý, kinh doanh là chiến lược, nó không chỉ cần thiết cho hiện tại mà còn cho sau này. Có như vậy TTCK Việt Nam mới hy vọng hoạt động có hiệu quả và không ngừng phát triển. Tránh và ngăn chặn đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra cũng như phát hiện kịp thời sự thao túng của các đối tác nước ngoài khi họ tham gia vào TTCK ở Việt Nam.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
C Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đ Kinh tế chính trị 0
M Những mặt tích cực và hạn chế của thuyết Z và khả năng vận dụng trong quản lý doanh nghiệp nước ta hiện nay Tài liệu chưa phân loại 2
T Những giải pháp khắc phục khuyết tật và phát huy mặt tích cực của kinh tế hàng hóa ở nước ta Tài liệu chưa phân loại 0
S Phân tích mặt tích cực, hạn chế của thuyết Z và khả năng vận dụng vào quản lý doanh nghiệp của nước ta Tài liệu chưa phân loại 2
D Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và vận dụng quy luật đó Môn đại cương 0
D Nghiên cứu phân tích nguyên lý hoạt động hệ thống điều chế đa tần trực giao(OFDM) ứng dụng trong truyền hình số mặt đất Công nghệ thông tin 0
B Tìm hiểu phương pháp phân tích các thành phần chính, ứng dụng trích chọn các đặc trưng cho bài toán phát hiện khuôn mặt trong ảnh Luận văn Kinh tế 0
A Thực trạng đào tạo trong doanh nghiệp, mặt tích cựu và tồn tại. giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, kinh nghiệm ở nước Luận văn Kinh tế 0
P Phân tích và đánh giá công tác quản trị dự trữ hàng hoá về mặt hiện vật Luận văn Kinh tế 0
B Phân tích thực trạng về các mặt quản lý tại công ty cổ phần dịch vụ kỹ thuật TSC Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top