Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
LỜI NÓI ĐẦU
Một trong những giải pháp cơ bản thực hiện đường lối đổi mới kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá của nước ta là đổi mới mới cơ cấu kinh tế, bao gồm cơ cấu ngành, vùng và thành phần kinh tế. Định hướng đó được thể hiện rõ nét qua các kỳ Đại hội Đảng vừa qua trong các chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Đó là việc thực hiện thắng lợi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, GDP tăng bình quân hàng năm từ 8 – 8,5% thời kỳ 1996 - 2000 và phấn đấu đạt 8 - 9% thời kỳ 2001- 2010 với tổng nhu cầu vốn đầu tư từ 90 - 95 nghìn tỷ đồng trong đó 39 – 40 % tổng nguồn vốn này được đầu tư từ doanh nghiệp và dân cư. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề, trong đó các giải pháp thuộc lĩnh vực tài chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và một trong những giải pháp tài chính đó là việc phát huy hơn nữa vai trò của các Ngân hàng thương mại trên phạm vi cả nước để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chuyển sang đầu tư một cách có hiệu quả.
Như chúng ta vẫn biết, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào quy mô và hiệu quả vốn đầu tư. Nếu không kể việc đầu tư từ ngân sách hay tự đầu tư của các cá nhân, doanh nghiệp thì việc khai thác và chuyển dịch các nguồn vốn tích luỹ đến lĩnh vực đầu tư cho vay có thể được tiến hành theo hai cách: đầu tư trực tiếp qua thị trường tài chính (phát hành trái phiếu doanh nghiệp) và đầu tư gián tiếp thông qua các trung gian tài chính. Tuy nhiên, do thị trường tài chính nước ta mới đang trong giai đoạn hình thành và ngay cả khi thị trường đi vào hoạt động thì khả năng huy động cũng sẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy nguồn vốn đầu tư qua các trung gian tài chính mà chủ yếu là hệ thống Ngân hàng thương mại càng trở nên quan trọng và hữu hiệu hơn bao giờ hết.
Cùng với sự phát triển phát triển chung của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng thương mại nước ta cũng đã không ngừng phát triển và ngày càng khẳng định mình là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế. Bằng lượng vốn huy động được trong xã hội và thông qua nghiệp vụ tín dụng, Ngân hàng thương mại đã cung cấp một lượng vốn lớn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn một cách nhanh chóng, kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ đó mà hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần trong nền kinh tế được diễn ra một cách trôi chảy. Do vậy, trong thời gian tới, để phát huy hơn nữa vai trò của mình và đồng thời đáp ứng cho sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như cho nhính bản thân hệ thống Ngân hàng, việc huy động vốn cho kinh doanh trong tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối với các tổ chức tài chính nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng.
Luận văn được trình bày theo 3 chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương I: Lý luận chung về nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng.
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Khái quát chung về NHTM
Ngân hàng thương mại (NHTM) ra đời và phát triển gắn liền với các hoạt động sản xuất kinh doanh của nhân dân và nền kinh tế. Trong các nước phát triển hầu như không có một công dân nào là không có quan hệ giao dịch với một Ngân hàng thương mại nhất định nào đó. NHTM được coi như là một định chế tài chính quen thuộc trong đời sống kinh tế. Khi nền kinh tế càng phát triển thì hoạt động dịch vụ của Ngân hàng càng đi sâu vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người. Mọi công dân đều chịu tác động từ các hoạt động của Ngân hàng, dù họ chỉ là khách hàng gửi tiền, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịnh vụ Ngân hàng.
Mặc dù có hoạt động rất gần gũi với nhân dân và nền kinh tế như vậy nhưng hiện nay, ở Việt nam nói riêng và trên thế giới nói chung, phạm trù NHTM cũng như các nghiệp vụ của nó vẫn còn là phạm trù xa lạ và chứa đầy bí ẩn chưa được khám phá. Do vậy, để hiểu rõ hơn về Ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ của NHTM (đặc biệt là nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn kinh doanh), trong chương I này sẽ trình bày khái quát có tính chất định vị và phác hoạ những nét chủ yếu về NHTM .
1. NHTM và vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế.
1.1. Khái niệm.
Để đưa ra được một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về NHTM, người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tuợng hoạt động. Theo Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Hay như Luật Ngân hàng của ấn Độ năm 1959 đã nêu: “ Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”... Những định nghĩa như trên là căn cứ vào tính chất và mục đích hoạt động của NHTM .
Một loại định nghĩa khác lại căn cứ vào sự kết hợp giữa tính chất, mục đích với đối tượng hoạt động như: Luật Ngân hàng của Đan Mạch ban hành năm 1930 định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những nhà băng thực hiện các nghiệp vụ thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị đĩa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuỷên ngân, đứng ra bảo hiểm...”.
Như vậy, mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa NHTM, nó tuỳ từng trường hợp vào tập quán pháp luật của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ nhưng khi đi sâu phân tích, khai thác nội dung của từng định nghĩa đó, người ta dễ dàng nhận thấy rằng: Tất cả các NHTM đều có chung một tính chất đó là việc nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính Ngân hàng.
Từ thực tiễn đó, để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của nền kinh tế, đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh. Theo điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng của Việt nam ban hành 02/ 1997/QH 10 đã nêu: “Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”.
Theo như khái niệm trên thì NHTM sẽ hoạt động kinh doanh như một
một doanh nghiệp thực thụ, có hoạch toán thu chi, có tính đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và luôn tìm mọi cách tối đa hoá lợi nhuận. Tuy nhiên nếu xét về chức năng và tính đặc thù thì giữa NHTM và doanh nghiệp kinh doanh thông thường lại có sự khác biệt lớn, đó là: NHTM là doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn, tức là Ngân hàng vừa là người tiêu thụ đồng vốn vừa là người cung cấp đồng vốn.
Ngày nay, trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế, hoạt động của các tổ chức tài chính là môi giới trên thị trường tài chính ngày càng phát triển cả về số lượng và quy mô, đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên sự khác biệt giữa NHTM với các tổ chức môi giới tài chính khác ở chỗ NHTM là Ngân hàng kinh doanh tiền gửi (chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn) và chính từ hoạt động đó đã tạo cơ hội cho NHTM có thể tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong hệ thống Ngân hàng của mình. Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt NHTM với các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác.
1.2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của NHTM.
Như trên đã trình bày, Thị trường tài chính là địa điểm tham gia hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh doanh tiền tệ , chúng là những tổ chức môi giới tài chính, hoạt động của chúng đã tạo ra những kênh, những luồng chu chuyển những khoản tiền tiết kiệm tích luỹ được trong nhân dân đến tay những nhà sản xuất kinh doanh có nhu cầu chi tiêu cho đầu tư. Nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về tính chất cũng như về đối tượng và cách tiến hành kinh doanh. Sự khác biệt đó có thể là do nhiều nguyên nhân khác nhau như : sự khác biệt về lịch sử; sự khác biệt về chế độ kinh tế... nhưng tóm lại chúng đều là những sản phẩm của thể chế tài chính của mỗi nước.
Ngân hàng thương mại ra đời gắn liền với sự hình thành và phát triển của hoạt động kinh doanh tiền gửi. Từ chỗ chỉ đơn thuần làm dịch vụ nhận tiền gửi với tư cách là người thủ quỹ bảo quản tiền gửi cho chủ sở hữu và sau đó là nhận được các khoản thù lao dưới dạng hoa hồng, hoạt động của nó giống như một tiệm cầm đồ. Cho đến nay, NHTM đã trở thành một chủ thể kinh doanh tiền gửi, nghĩa là NHTM vừa tiến hành huy động tiền gửi (không những miễn bỏ các khoản phí, các khoản thù lao mà còn trả thêm tiền dưới dạng trả lãi tiền gửi cho khách hàng gửi tiền) vừa sử dụng các khoản tiền huy động được đó để làm vốn cho vay, vốn đầu tư nhằm tối đa hoá các khoản lợi nhuận thu được.
Trong khi thực hiện vai trò trung gian tài chính, đảm trách việc chuyển vốn nhàn rỗi từ dân cư, từ người cho vay sang người đi vay, các NHTM đã tự tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền mặt làm phương tiện thanh toán, trong đó điển hình là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc, đây là một trong những công cụ chủ yếu để tiền vận động qua Ngân hàng và là cơ sở để NHTM tạo ra số nhân tiền gửi. Do đó hoạt động của NHTM gắn bó mật thiết với hoạt động lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước cũng như hoạt động thanh toán quốc tế .
Ngày nay, NHTM và cơ cấu hoạt động của nó đã và đang chiếm giữ vai trò quan trọng trong thể chế tài chính của mỗi nước, là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế không thể thiếu của Nhà nước. Hơn nữa hoạt động của NHTM ngày càng đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn, có thể nói Ngân hàng đã đi sâu vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người, trong khi đó các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên phạm vi hẹp và theo hướng chuyên sâu.
1.3. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế .
1.3.1. Chu chuyển và cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Vốn được hình thành từ quá trình tích tụ tập trung, từ việc tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và cả Nhà nước trong nền kinh tế. Để có nhiều vốn thì nhất thiết phải tăng thu nhập quốc dân và giảm chi tiêu dùng nhằm tạo ra một khoản tích luỹ đủ lớn để tiếp tục đầu tư tái mở rộng sản xuất. Mặt khác, để tăng thu nhập quốc dân tức là phải mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế thì cần có vốn, ngược lại khi tất cả các ngành hay nền kinh tế phát triển sẽ lại tạo ra nhiều nguồn vốn.
NHTM là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. NHTM đứng ra thu gom tất cả các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế từ các cá nhân, tổ chức như : vốn tạm thời được giải phóng ra từ quá trình sản xuất, vốn từ nguồn tiết kiệm của dân cư, các nguồn vốn được sử dụng chuyên cho vay lấy lãi... tạo nên một khoản vốn đủ lớn cung cấp cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất. Như vậy, nhờ có hoạt động của hệ thống NHTM mà các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, từng bước tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế và quan trọng hơn cả là đáp ứng tốt nhất nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.
1.3.2. NHTM là công cụ đièu tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM với tư cách là trung tâm tièn tệ của toàn bộ nền kinh tế, đảm bảo sự phát tiển hài hoà cho tất cả các thành phần kinh tế khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể nói mỗi sự giao động của Ngân hàng đều gây ảnh hưởng ít nhiều đến các thành phần kinh tế khác. Do vậy sự hoạt động có hiệu quả của NHTM thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của nó thực sự là công cụ tốt để Nhà nứơc tiến hành điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng trong
hệ thống, NHTM đã trực tiếp góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Mặt khác với việc cho các thành phần trong nền kinh tế vay vốn, NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều kiển chúng một cách có hiệu quả, bảo đảm cung cấp đầy đủ kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất cũng như thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế.
1.3.3. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính thế giới.
Ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới với việc hình thành hàng loạt các tổ chức kinh tế, các khu vực mậu dịch tự do, làm cho các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng, nhu cầu giao lưu kinh tế xã hội giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Hơn nữa, việc phát triển kinh tế của mỗi nước lại luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Do vậy, để đảm bảo cho sự phát triển hài hoà thì nền tài chính của mỗi nước cũng phải hoà chung với nền tài chính quốc tế.
NHTM cùng với các hoạt động kinh doanh của mình đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà chung đó. Thật vậy với các nghiệp vụ kinh doanh như: nhận tiền gửi, cho vay, bảo lãnh... và đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán quốc tế, Ngân hàng đã tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương không ngừng được mở rộng và phát triển. Mặt khác cũng với các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế của mình, các NHTM trong nước đã thiết lập được mối quan hệ làm ăn chặt chẽ với các NHTM nước ngoài, từ đó điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
1. Đưa nền kinh tế đi vào thế ổn định và phát triển.
Ngân hàng thương mại luôn được xem là trung tâm của nền kinh tế, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, hoạt dộng của nó có tác động đến sự phát triển cũng như sự suy tồn của các thành phần trong nền kinh tế. Song như một quan hệ hai chiều, sự phát triển bền vững của nền kinh tế lại là tiền đề quan trọng cho các Ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn. Sự phát triển bền vững, ổn định và với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế sẽ tạo điều kiện cho người dân có thu nhập ổn định hơn và qua đó có thể tăng khả năng tiết kiệm. Mặt khác, chỉ khi nền kinh tế phát triển ổn định bền vững thì lạm phát mới được đẩy lùi, người dân tin tưởng vào Ngân hàng và cảm giác yên tâm khi gửi tiền vào Ngân hàng. Ngược lại, nếu nền kinh tế phát triển thiếu sự ổn định, nguy cơ phá giá hay mất giá đồng tiền cao thì người dân sễ cảm giác không yên tâm khi gửi tiền của mình vào Ngân hàng vì họ sợ sẽ bị thua thiệt nếu đem gửi vào Ngân hàng thay vì mua vàng hay ngoại tệ mạnh và cất giữ luôn tại nhà. Hơn nữa, khi nền kinh tế phát triển ổn định bền vững, tỷ giá đồng bản tệ và tỷ lệ lạm phát được giữ được ở mức tối ưu thì các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mới tích cực vay vốn Ngân hàng để đầu tư sản xuất kinh doanh, từ đó khơi thông được vốn đầu ra cho Ngân hàng.
KẾT LUẬN
Sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước là bước đi tất yếu của mọi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với nước ta – một nước nông nghiệp lạc hậu đang trong thời kỳ đổi mới. Quá trình này nhằm đưa nước ta dần vươn lên thoát khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là nhiệm vụ đặt ra cho tất cả các cấp và các ngành.
Là một Chi nhánh lớn trong hệ thống Ngân hàng Công thương, giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực tài trợ công thương, trong những năm qua Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng đã từng bước làm tốt công tác huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế địa phương, góp phần đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Thành công đó bước đầu khẳng định sự đúng đắn trong các chính sách chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Công thương Việt nam và của Ban giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường Tài chính – frederic s.mishkin
2. Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại hiện đại – davidcox
3. Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại – Tác giả Lê Văn Tư
4. Lý thuyết tài chính tiền tệ – NXB Thống kê 1997.
5. Quản lý và kinh doanh tiền tệ – NXB Tài chính 1997.
6. Tài liệu tham khảo dành cho khoá học Quản trị Ngân hàng thương mại
(Ngân hàng Công thương Việt nam – 2000)
7. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 1999, 2000, 2001 của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng.
8. Tạp chí Ngân hàng các năm 1999, 2000, 2001, 2002.
9. Các sách báo và tạp chí khác.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Khái quát chung về NHTM
1. NHTM và vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế
1.1. Khái niệm
1.2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của NHTM
1.3. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế
1.3.1. Chu chuyển và cung cấp vốn cho nền kinh tế
1.3.2. NHTM là công cụ đièu tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước
1.3.3. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính thế giới
2. Các nghiệp vụ vủa NHTM
2.1. Nghiệp vụ tài sản nợ
2.2. Nghiệp vụ tài sản có
2.3. Nghiệp vụ kinh doanh khác của NHTM.
II. Vốn và hoạt động huy động vốn của NHTM.
1. Vốn và vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.1. Khái niện và đặc điểm vốn kinh doanh của NHTM
1.1.1. Vốn tự có
1.1.2. Vốn huy động
1.1.3. Vốn đi vay
1.1.4. Vốn khác
1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2.1. Vốn là cơ sở nền tảng để NHTM hoạt động kinh doanh
1.2.2.Quyết định khả năng cạnh tranh của NHTM.
1.2.3. Đảm bảo khả năng thanh toán và uy tín của NHTM
1.2.4. Quyết định quy mô hoạt động kinh doanh của NHTM
2. Các hình thức tạo lập vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường
2.1. Huy động vốn bằng tiền gửi không hỳ hạn
2.2. Huy động vốn bằng tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
2.2.1. Huy động tiền gửi có kỳ hạn
2.2.2. Huy động tiền gửi tiết kiệm
2.3. Huy động vốn qua đi vay
2.3.1. Vay từ Ngân hàng trung ương
2.3.2. Vay từ các tổ chức tín dụng khác
2.4. Huy động vốn qua phát hành công cụ nợ
2.5. Các hình thức huy động vốn khác
3. Các nhân tố tác động đến hoạt động huy động vốn của NHTM
3.1. Lãi suất huy động vốn
3.2. Các hình thức huy động vốn
3.3. Các dịch vụ cung ứng
3.4. Các nhân tố khác
III. Phương pháp xác định và đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn của NHTM
1. Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng với độ ổn định cao
2. Chi phí huy động vốn hợp lý
3. Khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh của nguồn vốn huy động
4. Đảm bảo an toàn vốn huy động
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN KINH DOANH TẠI CHINH NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC II - HAI BÀ TRƯNG
I. Giới thiệu về chi nhánh ngân hàng công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh
2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh trong thời gian qua
3.1. Hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng
3.1.1. Dịch vụ thanh toán thu- chi hộ
3.1.2. Dịch vụ chuyển tiền
3.1.3.Dịch vụ bảo lãnh, tư vấn
3.2. Hoạt động huy động vốn
3.3. Hoạt động cho vay và đầu tư tín dụng
3.4. Kết quả hoạt động kinh doanh
II. Thực trạng hoạt động huy động vốn ở chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
1. Tình hình huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
1.1. Về hình thức huy động vốn
1.2. Về kỳ hạn nguồn vốn
2. Các hình thức huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
2.1. Tiền gửi doanh nghiệp.
2.2. Tiền gửi dân cư
2.3. Phát hành công cụ nợ
2.4. Các hình thức huy động vốn khác
III. Đánh giá hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
1.Khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh của nguồn vốn huy động
1.1. Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn theo kỳ hạn
1.2. Khả năng đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư bằng nội và ngoại tệ
2. Chi phí huy động vốn
3. Đảm bảo an toàn vốn huy động
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC II – HAI BÀ TRƯNG
I. Phương hướng và nhiệm vụ hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II-Hai Bà Trưng trong thời gian tới
1. Tăng cường công tác nhận tiền gửi bằng mọi biện pháp
2. Xây dựng chiến lược huy động vốn luôn đi đôi với chiến lược sử dụng vốn
3. Không ngừng hiện đại hoá công nghệ thanh toán qua Ngân hàng
4. Tăng cường công tác kiểm tra- kiểm soát
5. Mở rộng quan hệ hợp tác phát triển
6. Tiếp tục bồi dưỡng và nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại chi nhánh Chi nhánh Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
A. Nhóm giải pháp vi mô
1. Tiếp tục thực hiện đa dạng các hình thức huy động vốn
1.1. Đối với tiền gửi doanh nghiệp
1.2. Đối với tiền gửi tiết kiệm
1.3. Đối với công cụ nợ
2. Thực hiện tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt
3. Duy trì chính sách lãi suất huy động linh hoạt, hợp lý
4. Thường xuyên cọi trọng chất lượng phục vụ khách hàng
5. Tăng cường chiến lược Marketing Ngân hàng
6. Tích cực tìm biện pháp giảm nợ quá hạn
7. Đổi mới và hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng
8. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên
B. Nhóm giải pháp vĩ mô
1. Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam
1.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý dựa trên điều kiện cụ thể của Chi nhánh
1.2. Phát triển và mở rộng mạng lưới Ngân hàng Công thương
2. Đối với Ngân hàng Nhà nước
2.1. Về lãi suất
2.2. Về tỷ giá
2.3. Tổ chức triển khai tốt thị trường vốn.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
LỜI NÓI ĐẦU
Một trong những giải pháp cơ bản thực hiện đường lối đổi mới kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá của nước ta là đổi mới mới cơ cấu kinh tế, bao gồm cơ cấu ngành, vùng và thành phần kinh tế. Định hướng đó được thể hiện rõ nét qua các kỳ Đại hội Đảng vừa qua trong các chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Đó là việc thực hiện thắng lợi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, GDP tăng bình quân hàng năm từ 8 – 8,5% thời kỳ 1996 - 2000 và phấn đấu đạt 8 - 9% thời kỳ 2001- 2010 với tổng nhu cầu vốn đầu tư từ 90 - 95 nghìn tỷ đồng trong đó 39 – 40 % tổng nguồn vốn này được đầu tư từ doanh nghiệp và dân cư. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề, trong đó các giải pháp thuộc lĩnh vực tài chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và một trong những giải pháp tài chính đó là việc phát huy hơn nữa vai trò của các Ngân hàng thương mại trên phạm vi cả nước để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chuyển sang đầu tư một cách có hiệu quả.
Như chúng ta vẫn biết, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào quy mô và hiệu quả vốn đầu tư. Nếu không kể việc đầu tư từ ngân sách hay tự đầu tư của các cá nhân, doanh nghiệp thì việc khai thác và chuyển dịch các nguồn vốn tích luỹ đến lĩnh vực đầu tư cho vay có thể được tiến hành theo hai cách: đầu tư trực tiếp qua thị trường tài chính (phát hành trái phiếu doanh nghiệp) và đầu tư gián tiếp thông qua các trung gian tài chính. Tuy nhiên, do thị trường tài chính nước ta mới đang trong giai đoạn hình thành và ngay cả khi thị trường đi vào hoạt động thì khả năng huy động cũng sẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy nguồn vốn đầu tư qua các trung gian tài chính mà chủ yếu là hệ thống Ngân hàng thương mại càng trở nên quan trọng và hữu hiệu hơn bao giờ hết.
Cùng với sự phát triển phát triển chung của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng thương mại nước ta cũng đã không ngừng phát triển và ngày càng khẳng định mình là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế. Bằng lượng vốn huy động được trong xã hội và thông qua nghiệp vụ tín dụng, Ngân hàng thương mại đã cung cấp một lượng vốn lớn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn một cách nhanh chóng, kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ đó mà hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần trong nền kinh tế được diễn ra một cách trôi chảy. Do vậy, trong thời gian tới, để phát huy hơn nữa vai trò của mình và đồng thời đáp ứng cho sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như cho nhính bản thân hệ thống Ngân hàng, việc huy động vốn cho kinh doanh trong tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối với các tổ chức tài chính nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng.
Luận văn được trình bày theo 3 chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương I: Lý luận chung về nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng.
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Khái quát chung về NHTM
Ngân hàng thương mại (NHTM) ra đời và phát triển gắn liền với các hoạt động sản xuất kinh doanh của nhân dân và nền kinh tế. Trong các nước phát triển hầu như không có một công dân nào là không có quan hệ giao dịch với một Ngân hàng thương mại nhất định nào đó. NHTM được coi như là một định chế tài chính quen thuộc trong đời sống kinh tế. Khi nền kinh tế càng phát triển thì hoạt động dịch vụ của Ngân hàng càng đi sâu vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người. Mọi công dân đều chịu tác động từ các hoạt động của Ngân hàng, dù họ chỉ là khách hàng gửi tiền, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịnh vụ Ngân hàng.
Mặc dù có hoạt động rất gần gũi với nhân dân và nền kinh tế như vậy nhưng hiện nay, ở Việt nam nói riêng và trên thế giới nói chung, phạm trù NHTM cũng như các nghiệp vụ của nó vẫn còn là phạm trù xa lạ và chứa đầy bí ẩn chưa được khám phá. Do vậy, để hiểu rõ hơn về Ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ của NHTM (đặc biệt là nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn kinh doanh), trong chương I này sẽ trình bày khái quát có tính chất định vị và phác hoạ những nét chủ yếu về NHTM .
1. NHTM và vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế.
1.1. Khái niệm.
Để đưa ra được một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về NHTM, người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tuợng hoạt động. Theo Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Hay như Luật Ngân hàng của ấn Độ năm 1959 đã nêu: “ Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”... Những định nghĩa như trên là căn cứ vào tính chất và mục đích hoạt động của NHTM .
Một loại định nghĩa khác lại căn cứ vào sự kết hợp giữa tính chất, mục đích với đối tượng hoạt động như: Luật Ngân hàng của Đan Mạch ban hành năm 1930 định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những nhà băng thực hiện các nghiệp vụ thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị đĩa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuỷên ngân, đứng ra bảo hiểm...”.
Như vậy, mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa NHTM, nó tuỳ từng trường hợp vào tập quán pháp luật của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ nhưng khi đi sâu phân tích, khai thác nội dung của từng định nghĩa đó, người ta dễ dàng nhận thấy rằng: Tất cả các NHTM đều có chung một tính chất đó là việc nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính Ngân hàng.
Từ thực tiễn đó, để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của nền kinh tế, đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh. Theo điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng của Việt nam ban hành 02/ 1997/QH 10 đã nêu: “Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”.
Theo như khái niệm trên thì NHTM sẽ hoạt động kinh doanh như một
một doanh nghiệp thực thụ, có hoạch toán thu chi, có tính đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và luôn tìm mọi cách tối đa hoá lợi nhuận. Tuy nhiên nếu xét về chức năng và tính đặc thù thì giữa NHTM và doanh nghiệp kinh doanh thông thường lại có sự khác biệt lớn, đó là: NHTM là doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn, tức là Ngân hàng vừa là người tiêu thụ đồng vốn vừa là người cung cấp đồng vốn.
Ngày nay, trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế, hoạt động của các tổ chức tài chính là môi giới trên thị trường tài chính ngày càng phát triển cả về số lượng và quy mô, đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên sự khác biệt giữa NHTM với các tổ chức môi giới tài chính khác ở chỗ NHTM là Ngân hàng kinh doanh tiền gửi (chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn) và chính từ hoạt động đó đã tạo cơ hội cho NHTM có thể tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong hệ thống Ngân hàng của mình. Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt NHTM với các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác.
1.2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của NHTM.
Như trên đã trình bày, Thị trường tài chính là địa điểm tham gia hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh doanh tiền tệ , chúng là những tổ chức môi giới tài chính, hoạt động của chúng đã tạo ra những kênh, những luồng chu chuyển những khoản tiền tiết kiệm tích luỹ được trong nhân dân đến tay những nhà sản xuất kinh doanh có nhu cầu chi tiêu cho đầu tư. Nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về tính chất cũng như về đối tượng và cách tiến hành kinh doanh. Sự khác biệt đó có thể là do nhiều nguyên nhân khác nhau như : sự khác biệt về lịch sử; sự khác biệt về chế độ kinh tế... nhưng tóm lại chúng đều là những sản phẩm của thể chế tài chính của mỗi nước.
Ngân hàng thương mại ra đời gắn liền với sự hình thành và phát triển của hoạt động kinh doanh tiền gửi. Từ chỗ chỉ đơn thuần làm dịch vụ nhận tiền gửi với tư cách là người thủ quỹ bảo quản tiền gửi cho chủ sở hữu và sau đó là nhận được các khoản thù lao dưới dạng hoa hồng, hoạt động của nó giống như một tiệm cầm đồ. Cho đến nay, NHTM đã trở thành một chủ thể kinh doanh tiền gửi, nghĩa là NHTM vừa tiến hành huy động tiền gửi (không những miễn bỏ các khoản phí, các khoản thù lao mà còn trả thêm tiền dưới dạng trả lãi tiền gửi cho khách hàng gửi tiền) vừa sử dụng các khoản tiền huy động được đó để làm vốn cho vay, vốn đầu tư nhằm tối đa hoá các khoản lợi nhuận thu được.
Trong khi thực hiện vai trò trung gian tài chính, đảm trách việc chuyển vốn nhàn rỗi từ dân cư, từ người cho vay sang người đi vay, các NHTM đã tự tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền mặt làm phương tiện thanh toán, trong đó điển hình là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc, đây là một trong những công cụ chủ yếu để tiền vận động qua Ngân hàng và là cơ sở để NHTM tạo ra số nhân tiền gửi. Do đó hoạt động của NHTM gắn bó mật thiết với hoạt động lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước cũng như hoạt động thanh toán quốc tế .
Ngày nay, NHTM và cơ cấu hoạt động của nó đã và đang chiếm giữ vai trò quan trọng trong thể chế tài chính của mỗi nước, là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế không thể thiếu của Nhà nước. Hơn nữa hoạt động của NHTM ngày càng đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn, có thể nói Ngân hàng đã đi sâu vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người, trong khi đó các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên phạm vi hẹp và theo hướng chuyên sâu.
1.3. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế .
1.3.1. Chu chuyển và cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Vốn được hình thành từ quá trình tích tụ tập trung, từ việc tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và cả Nhà nước trong nền kinh tế. Để có nhiều vốn thì nhất thiết phải tăng thu nhập quốc dân và giảm chi tiêu dùng nhằm tạo ra một khoản tích luỹ đủ lớn để tiếp tục đầu tư tái mở rộng sản xuất. Mặt khác, để tăng thu nhập quốc dân tức là phải mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế thì cần có vốn, ngược lại khi tất cả các ngành hay nền kinh tế phát triển sẽ lại tạo ra nhiều nguồn vốn.
NHTM là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. NHTM đứng ra thu gom tất cả các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế từ các cá nhân, tổ chức như : vốn tạm thời được giải phóng ra từ quá trình sản xuất, vốn từ nguồn tiết kiệm của dân cư, các nguồn vốn được sử dụng chuyên cho vay lấy lãi... tạo nên một khoản vốn đủ lớn cung cấp cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất. Như vậy, nhờ có hoạt động của hệ thống NHTM mà các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, từng bước tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế và quan trọng hơn cả là đáp ứng tốt nhất nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.
1.3.2. NHTM là công cụ đièu tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM với tư cách là trung tâm tièn tệ của toàn bộ nền kinh tế, đảm bảo sự phát tiển hài hoà cho tất cả các thành phần kinh tế khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể nói mỗi sự giao động của Ngân hàng đều gây ảnh hưởng ít nhiều đến các thành phần kinh tế khác. Do vậy sự hoạt động có hiệu quả của NHTM thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của nó thực sự là công cụ tốt để Nhà nứơc tiến hành điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng trong
hệ thống, NHTM đã trực tiếp góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Mặt khác với việc cho các thành phần trong nền kinh tế vay vốn, NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều kiển chúng một cách có hiệu quả, bảo đảm cung cấp đầy đủ kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất cũng như thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế.
1.3.3. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính thế giới.
Ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới với việc hình thành hàng loạt các tổ chức kinh tế, các khu vực mậu dịch tự do, làm cho các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng, nhu cầu giao lưu kinh tế xã hội giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Hơn nữa, việc phát triển kinh tế của mỗi nước lại luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Do vậy, để đảm bảo cho sự phát triển hài hoà thì nền tài chính của mỗi nước cũng phải hoà chung với nền tài chính quốc tế.
NHTM cùng với các hoạt động kinh doanh của mình đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà chung đó. Thật vậy với các nghiệp vụ kinh doanh như: nhận tiền gửi, cho vay, bảo lãnh... và đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán quốc tế, Ngân hàng đã tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương không ngừng được mở rộng và phát triển. Mặt khác cũng với các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế của mình, các NHTM trong nước đã thiết lập được mối quan hệ làm ăn chặt chẽ với các NHTM nước ngoài, từ đó điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
1. Đưa nền kinh tế đi vào thế ổn định và phát triển.
Ngân hàng thương mại luôn được xem là trung tâm của nền kinh tế, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, hoạt dộng của nó có tác động đến sự phát triển cũng như sự suy tồn của các thành phần trong nền kinh tế. Song như một quan hệ hai chiều, sự phát triển bền vững của nền kinh tế lại là tiền đề quan trọng cho các Ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn. Sự phát triển bền vững, ổn định và với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế sẽ tạo điều kiện cho người dân có thu nhập ổn định hơn và qua đó có thể tăng khả năng tiết kiệm. Mặt khác, chỉ khi nền kinh tế phát triển ổn định bền vững thì lạm phát mới được đẩy lùi, người dân tin tưởng vào Ngân hàng và cảm giác yên tâm khi gửi tiền vào Ngân hàng. Ngược lại, nếu nền kinh tế phát triển thiếu sự ổn định, nguy cơ phá giá hay mất giá đồng tiền cao thì người dân sễ cảm giác không yên tâm khi gửi tiền của mình vào Ngân hàng vì họ sợ sẽ bị thua thiệt nếu đem gửi vào Ngân hàng thay vì mua vàng hay ngoại tệ mạnh và cất giữ luôn tại nhà. Hơn nữa, khi nền kinh tế phát triển ổn định bền vững, tỷ giá đồng bản tệ và tỷ lệ lạm phát được giữ được ở mức tối ưu thì các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mới tích cực vay vốn Ngân hàng để đầu tư sản xuất kinh doanh, từ đó khơi thông được vốn đầu ra cho Ngân hàng.
KẾT LUẬN
Sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước là bước đi tất yếu của mọi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với nước ta – một nước nông nghiệp lạc hậu đang trong thời kỳ đổi mới. Quá trình này nhằm đưa nước ta dần vươn lên thoát khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là nhiệm vụ đặt ra cho tất cả các cấp và các ngành.
Là một Chi nhánh lớn trong hệ thống Ngân hàng Công thương, giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực tài trợ công thương, trong những năm qua Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng đã từng bước làm tốt công tác huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế địa phương, góp phần đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Thành công đó bước đầu khẳng định sự đúng đắn trong các chính sách chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Công thương Việt nam và của Ban giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường Tài chính – frederic s.mishkin
2. Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại hiện đại – davidcox
3. Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại – Tác giả Lê Văn Tư
4. Lý thuyết tài chính tiền tệ – NXB Thống kê 1997.
5. Quản lý và kinh doanh tiền tệ – NXB Tài chính 1997.
6. Tài liệu tham khảo dành cho khoá học Quản trị Ngân hàng thương mại
(Ngân hàng Công thương Việt nam – 2000)
7. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 1999, 2000, 2001 của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng.
8. Tạp chí Ngân hàng các năm 1999, 2000, 2001, 2002.
9. Các sách báo và tạp chí khác.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Khái quát chung về NHTM
1. NHTM và vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế
1.1. Khái niệm
1.2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của NHTM
1.3. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế
1.3.1. Chu chuyển và cung cấp vốn cho nền kinh tế
1.3.2. NHTM là công cụ đièu tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước
1.3.3. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính thế giới
2. Các nghiệp vụ vủa NHTM
2.1. Nghiệp vụ tài sản nợ
2.2. Nghiệp vụ tài sản có
2.3. Nghiệp vụ kinh doanh khác của NHTM.
II. Vốn và hoạt động huy động vốn của NHTM.
1. Vốn và vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.1. Khái niện và đặc điểm vốn kinh doanh của NHTM
1.1.1. Vốn tự có
1.1.2. Vốn huy động
1.1.3. Vốn đi vay
1.1.4. Vốn khác
1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2.1. Vốn là cơ sở nền tảng để NHTM hoạt động kinh doanh
1.2.2.Quyết định khả năng cạnh tranh của NHTM.
1.2.3. Đảm bảo khả năng thanh toán và uy tín của NHTM
1.2.4. Quyết định quy mô hoạt động kinh doanh của NHTM
2. Các hình thức tạo lập vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường
2.1. Huy động vốn bằng tiền gửi không hỳ hạn
2.2. Huy động vốn bằng tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
2.2.1. Huy động tiền gửi có kỳ hạn
2.2.2. Huy động tiền gửi tiết kiệm
2.3. Huy động vốn qua đi vay
2.3.1. Vay từ Ngân hàng trung ương
2.3.2. Vay từ các tổ chức tín dụng khác
2.4. Huy động vốn qua phát hành công cụ nợ
2.5. Các hình thức huy động vốn khác
3. Các nhân tố tác động đến hoạt động huy động vốn của NHTM
3.1. Lãi suất huy động vốn
3.2. Các hình thức huy động vốn
3.3. Các dịch vụ cung ứng
3.4. Các nhân tố khác
III. Phương pháp xác định và đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn của NHTM
1. Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng với độ ổn định cao
2. Chi phí huy động vốn hợp lý
3. Khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh của nguồn vốn huy động
4. Đảm bảo an toàn vốn huy động
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN KINH DOANH TẠI CHINH NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC II - HAI BÀ TRƯNG
I. Giới thiệu về chi nhánh ngân hàng công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh
2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh trong thời gian qua
3.1. Hoạt động cung ứng dịch vụ Ngân hàng
3.1.1. Dịch vụ thanh toán thu- chi hộ
3.1.2. Dịch vụ chuyển tiền
3.1.3.Dịch vụ bảo lãnh, tư vấn
3.2. Hoạt động huy động vốn
3.3. Hoạt động cho vay và đầu tư tín dụng
3.4. Kết quả hoạt động kinh doanh
II. Thực trạng hoạt động huy động vốn ở chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
1. Tình hình huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
1.1. Về hình thức huy động vốn
1.2. Về kỳ hạn nguồn vốn
2. Các hình thức huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
2.1. Tiền gửi doanh nghiệp.
2.2. Tiền gửi dân cư
2.3. Phát hành công cụ nợ
2.4. Các hình thức huy động vốn khác
III. Đánh giá hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
1.Khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh của nguồn vốn huy động
1.1. Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn theo kỳ hạn
1.2. Khả năng đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư bằng nội và ngoại tệ
2. Chi phí huy động vốn
3. Đảm bảo an toàn vốn huy động
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC II – HAI BÀ TRƯNG
I. Phương hướng và nhiệm vụ hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II-Hai Bà Trưng trong thời gian tới
1. Tăng cường công tác nhận tiền gửi bằng mọi biện pháp
2. Xây dựng chiến lược huy động vốn luôn đi đôi với chiến lược sử dụng vốn
3. Không ngừng hiện đại hoá công nghệ thanh toán qua Ngân hàng
4. Tăng cường công tác kiểm tra- kiểm soát
5. Mở rộng quan hệ hợp tác phát triển
6. Tiếp tục bồi dưỡng và nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại chi nhánh Chi nhánh Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng
A. Nhóm giải pháp vi mô
1. Tiếp tục thực hiện đa dạng các hình thức huy động vốn
1.1. Đối với tiền gửi doanh nghiệp
1.2. Đối với tiền gửi tiết kiệm
1.3. Đối với công cụ nợ
2. Thực hiện tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt
3. Duy trì chính sách lãi suất huy động linh hoạt, hợp lý
4. Thường xuyên cọi trọng chất lượng phục vụ khách hàng
5. Tăng cường chiến lược Marketing Ngân hàng
6. Tích cực tìm biện pháp giảm nợ quá hạn
7. Đổi mới và hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng
8. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên
B. Nhóm giải pháp vĩ mô
1. Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam
1.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý dựa trên điều kiện cụ thể của Chi nhánh
1.2. Phát triển và mở rộng mạng lưới Ngân hàng Công thương
2. Đối với Ngân hàng Nhà nước
2.1. Về lãi suất
2.2. Về tỷ giá
2.3. Tổ chức triển khai tốt thị trường vốn.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: