chauduyenbi

New Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI

Mục lục
Lời Thank 1
Mở đầu 2
1. Lý do và mục đích chọn đề tài 2
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
4. Phương pháp tiến hành 8
5. Bố cục 8
Phần nội dung 9
Chương 1: Cuộc đời nghệ nhân Trịnh Thị Răm 9
Chương 2: Nghệ nhân với hát Dậm Hà Nam 16
2.1. Hát Dậm- một thành tố cơ bản trong lễ hội Quyển Sơn 16
2.1.1. Đền Trúc- nơi tổ chức hát Dậm và việc thờ Lý Thường Kiệt 16
2.1.2. Lễ hội Quyển Sơn- Đất sống của dân ca hát Dậm 19
2.1.3. Tục hát Dậm 20
2.1.3.1. Truyền thuyết về hát Dậm 20
2.1.3.2. Tổ chức hát Dậm 21
2.1.3.3. Làn điệu hát Dậm 22
2.1.4. Lời ca hát Dậm 23
2.1.4.1. Các dị bản 23
2.1.4.2. Ngôn từ 36
2.1.4.3. Thể thơ 52
2.1.4.4. Chủ đề- nội dung tư tưởng 55
2.2. Vai trò của nghệ nhân Trịnh Thị Răm với dân ca hát Dậm Hà Nam 72
Chương 3: Nghệ nhân với các loại dân ca khác ở Hà Nam 75
3.1. Dân ca Lãi Lê 75
3.2. Hát trống quân 77
3.2.1. Hát trong và ngoài gióng võ vật 77
3.2.2. Hát trống quân trên thuyền 79
3.3. Hát giao duyên vùng ngã ba sông Móng 86
Kết luận 92
Tài liệu tham khảo 94


Mở đầu
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, dân ca với tư cách là một thể loại trữ tình dân gian, một bộ phận không thể thiếu, có một vai trò hết sức quan trọng. Nó tồn tại song song với các thể loại tự sự dân gian khác như thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, ngụ ngôn, cười, vè…và lời ăn tiếng nói của nhân dân như tục ngữ, câu đố…Với những đặc trưng riêng biệt, dân ca góp phần làm cho nền văn học dân gian Việt Nam trở nên phong phú, đa dạng hơn bao giờ hết. Trong cùng một thể loại trữ tình dân gian, ranh giới giữa dân ca và ca dao nhiều khi rất mờ nhạt, nhưng người ta vẫn thấy được những nét khác biệt giữa chúng. Ca dao là một loại thơ có thể ngâm được như những loại thơ khác, có thể xây dựng thành điệu ca dao. Còn dân ca “là những câu hát đã thành khúc điệu, là những bài hát có nhạc điệu nhất định…do ở tiếng của con người đưa ra từ cổ họng, hay như tiếng thoát ra từ các nhạc cụ (gọi là khí nhạc), nhờ ở miệng thổi hay tay nhấn của con người) (Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam- Vũ Ngọc Phan). Dân ca thường được hát lên ở những hoàn cảnh nhất định, trong những nghề nhất định, hay ở những địa phương nhất định. Nó thường mang tính chất địa phương. Có thể sang những địa phương khác, nó vẫn được phổ biến, nhưng chỉ riêng nơi xuất phát mới hát hay (trừ các nghệ nhân ra). Trong khi đó, ca dao dù nội dung viết về một địa phương cụ thể nào đó, nhưng vẫn được ngâm nga phổ biến rộng rãi trong toàn quốc, ít có địa phương tính. Chẳng hạn những câu như:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
…Đường vô xứ nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Hầu hết dân ca được xây dựng trên cơ sở ca dao tục ngữ sẵn có. Tuỳ từng loại ca dao, người ta thêm vào những tiếng đệm, tiếng láy như “tình bằng tang tính”, “ấy mấy”…, những tiếng đệm nghĩa như “ấy ai”, “em nhớ”…, những tiếng đưa hơi như “ì ì ì ới a”, “hì hi”…, những tiếng láy (lặp đi lặp lại) trong một câu, những điệp khúc…Những tiếng đệm ấy tạo nên giọng điệu riêng biệt cho từng loại dân ca.
ở nước ta các điệu ca hát xuất hiện rất sớm, tác động tới giai cấp thống trị ngay từ thời nước ta mới tự chủ. Sách Văn hiến thông khảo của Mã Đoan Lâm có chép tờ sớ của một sứ thần nhà Tống nói về Lê Hoàn (980-1005) “ Hoàn thường mặc áo vải hoa, và áo sắc hồng, mũ đội trang sức bằng châu báu, tự hát mời rượu không hiểu là câu gì…”. Năm 1025, triều Lý Thái Tổ, nhà nước phong kiến mới có tổ chức về nghề ca nhạc như định chức quản giáp và đặt ra giáo phường. Trong đó, một nữ danh ca họ Đào đã được vua Lý Thái Tổ ban thưởng. Theo Đại Việt sử ký của Ngô Sỹ Liên, nhân dân rất hâm mộ Đào Thi đến nỗi họ gọi những người phụ nữ làm nghề xướng ca là “đào nương”. Thời Lý Nhân Tông, nhà Thôi luân vũ được thành lập để các vũ nữ tập múa hát. Như vậy, ngay từ thời xa xưa, ca hát đã giữ một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân, đồng thời gắn bó mật thiết với sinh hoạt thực tiễn của đông đảo người dân lao động. Bởi lẽ khi lao động, người ta muốn dùng nhịp điệu của bài hát để làm tăng nhịp điệu, cảm xúc lao động hay để phối hợp nhịp điệu lao động của tập thể. Khi mong muốn lao động, kết quả, sức khoẻ dồi dào…dưới hình thức khẩn nguyện, người ta đã viện đến sự tác động của sức mạnh siêu nhiên mà họ tưởng tượng ra là có trong ngôn ngữ, âm thanh, nhịp điệu của bài hát. Người ta đã nhờ âm điệu dịu dàng, tha thiết của bài hát để đưa trẻ em vào giấc ngủ, nhờ tiếng đàn môi, câu hát để ngỏ tình yêu, đã lấy bài hát than để tiễn đưa người chết…Người ta đã hát để ca ngợi công lao của những bậc thánh nhân, các vị anh hùng…Chính vì những lẽ đó, nếu chỉ nghiên cứu dân ca về mặt văn học thì không thấy hết được giá trị của dân ca. Dân ca còn được biểu diễn và biểu diễn trong khung cảnh đặc biệt của nó: trong cảnh sinh hoạt văn nghệ của nhân dân từng địa phương. Trong dân ca, bộ môn nọ gắn liền với bộ môn kia như môi với răng…Dân ca là sự tổng hợp của nhiều yếu tố ngôn ngữ, âm thanh, nhịp điệu…Dân ca được biểu diễn, trong đó có thanh nhạc, khí nhạc, múa và sân khấu cộng với trang trí thích ứng có giá trị khác hẳn với bản dân ca chỉ ghi bằng nốt nhạc hay lời văn. Nghệ thuật của dân ca về mặt văn học là nghệ thuật biểu hiện bằng ngôn từ và hình tượng phục vụ được tích cực nhất nội dung bài ca. Nghệ thuật của dân ca theo tính tổng hợp của nó là nghệ thuật vừa thể hiện vừa biểu diễn với tất cả khả năng ca nhạc, vũ, kịch.
Những người thể hiện, biểu diễn, đồng thời hưởng thụ, lưu giữ, trao truyền dân ca truyền thống, không ai khác ngoài dân chúng. Nói tới dân chúng là nói tới rất nhiều người dân, trong đó, bên cạnh những người thông minh lại có những người chậm chạp, bên cạnh những người tốt còn có những người xấu, bên cạnh những người tiến bộ có những người lạc hậu, cổ hủ…Vai trò biểu diễn, lưu truyền vốn dân ca truyền thống chủ yếu nằm ở những người ưu tú, có khả năng vượt trội trong làng xã, phường hội (hay còn gọi là các nghệ nhân). Họ là những người có năng khiếu, nắm giữ và thực hành ở trình độ cao những giá trị, kỹ năng, bí quyết nghề nghiệp, sẵn sàng và có khả năng truyền dạy toàn bộ hiểu biết cho thế hệ trẻ. Bà Trịnh Thị Răm ở làng Quyển Sơn huyện Kim Bảng là một trong những nghệ nhân như thế! Ngày 4 tháng 6 năm 2003 vừa qua, bà đã được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tôn phong danh hiệu “Nghệ nhân dân gian toàn quốc”.
Chọn đề tài Nghệ nhân Trịnh Thị Răm với dân ca truyền thống Hà Nam, người viết xuất phát từ vai trò và những đặc trưng trên của dân ca, đồng thời xuất phát từ lòng yêu quý, khâm phục và ngưỡng mộ nghệ nhân Trịnh Thị Răm- “báu vật nhân văn sống” (theo cách gọi của tổ chức Unessco) của tỉnh Hà Nam nói riêng và của nước Việt Nam nói chung.
Với đề tài này, người viết muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé trên cuộc hành trình khám phá những nét đẹp của dân ca từng địa phương, trong môi trường diễn xướng cụ thể của từng loại dân ca ấy. Những làn điệu dân ca ở Hà Nam, đặc biệt là Hát Dậm Quyển Sơn gắn liền với lễ hội Quyển Sơn, với tên tuổi của nghệ nhân Trịnh Thị Răm là một trong những địa chỉ chúng tui muốn tìm đến.
2. Lịch sử vấn đề
Dân ca Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều loại khác nhau: hát trống quân, hát xẩm, quan họ Bắc Ninh, ghẹo Phú Thọ, hát Giặm Nghệ Tĩnh, hát phường cấy, hát đò đưa, hát ru, hát vui chơi…hò Huế, hay những khúc hát miền Nam Trung Bộ…Từ trước tới nay cũng đã có rất nhiều công trình sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu về dân ca các miền trong cả nước. Ta có thể kể đến một loạt các công trình: Hát phường vải của Ninh Viết Giao (NXB Văn hoá, H.1961), Dân ca quan họ Bắc Ninh do Lưu Hữu Phước viết chung với Nguyễn Viêm, Tú Ngọc (NXB Văn hoá, H.1962), Hát Giặm Nghệ Tĩnh của Nguyễn Đổng Chi (viết chung với Ninh Viết Giao, NXB Sử học, H.1962,1963), Dân ca miền Nam Trung Bộ của Trần Việt Ngữ viết chung với Đình Quang, Hoàng Chương (NXB Văn hoá, H.1963), Dân ca Mường (Hoà Bình) do Quách Giao và nhiều người sưu tầm, chỉnh lý (NXB Văn học, H.1965), Dân ca Tây Nguyên do Vũ Quang Nhơn sưu tầm, dịch, chú thích, giới thiệu (NXB Văn hoá, H.1976)…và nhiều công trình luận văn, luận án khác nữa…
Nhưng riêng về mảng dân ca truyền thống Hà Nam, hầu như chưa có một công trình nghiên cứu, khảo luận, giới thiệu một cách quy mô, toàn diện và được lưu hành rộng rãi như thế. Một nét nổi bật trong dân ca Hà Nam là hát Dậm ở làng Quyển Sơn huyện Kim Bảng. Hát Dậm đến nay sưu tầm có trên năm mươi điệu khác nhau. Vì nó ra đời sớm nên lời Dậm Quyển Sơn có khi miêu tả, diễn đạt những sự việc mà với chúng ta ngày nay đã trở thành xa lạ như “phong ống”, “phong pháo”, “cần miêu”…, ngôn từ, cú pháp lại cổ kính, khúc mắc nên giá trị phổ biến của nó bị hạn chế đi phần nào. Hơn nữa, tuy có văn bản, nhưng hát Dậm Quyển Sơn ra đời đã lâu, phải qua nhiều lần sao đi, chép lại, nên những văn bản chữ Nôm này dần dần sai lạc đi nhiều. Cách đây khá lâu, một nhóm khảo cứu thuộc tổ chức Phôn-cơ-lo đã về đền Trúc phiên âm văn bản, nhưng họ cũng thấy nan giải trong việc phổ biến. Trước đây, nhạc sỹ Bùi Đình Thảo cũng đã nghiên cứu và ghi lại thành bản nhạc hơn ba mươi điệu. Tuy nhiên, khi nhạc sỹ qua đời, bản thảo không tìm thấy một chương, vì thế không xuất bản được. Năm 1998, sở văn hoá thông tin Hà Nam xuất bản công trình nghiên cứu Dân ca Hát Dậm Hà Nam của Trọng Văn. Ông là người dân chính gốc của làng Quyển Sơn, đồng thời cũng là hội viên Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm được xuất bản. Gần đây, hát Dậm cũng được giới thiệu lẻ tẻ trong một số bài báo và tạp chí ở trung ương và địa phương. Cho tới nay, chưa có một đề tài luận văn, luận án nào nghiên cứu về dân ca Hà Nam nói chung và hát Dậm nói riêng.
Một điều đáng mừng là Nhà Nước ta đã và đang ngày càng quan tâm hơn tới việc tôn vinh và những chính sách đãi ngộ đối với các nghệ nhân dân gian. Luật Di sản văn hoá (được Quốc hội nước Việt Nam thông qua vào tháng sáu năm 2001) đã ghi rõ điều 26 rằng: Nhà nước tôn vinh các nghệ nhân. Tháng sáu năm 2002, Ban chấp hành Hội văn nghệ dân gian Việt Nam đã thông qua Quy chế công nhận danh hiệu nghệ nhân dân gian của Hội văn nghệ dân gian Việt Nam. Ngày 11 tháng 4 năm 2003, Hội văn nghệ dân gian Việt Nam đã công nhận danh hiệu nghệ nhân dân gian (đợt 1) cho mười lăm vị, trong đó có nghệ nhân Trịnh Thị Răm. Lễ phong tặng danh hiệu đã được tổ chức vào ngày mồng 4 tháng 6 năm 2003 tại Hà Nội. Hiện nay, ngoài hồ sơ xin công nhận nghệ nhân dân gian của Hội văn nghệ dân gian Việt Nam do chi hội văn nghệ dân gian tỉnh Hà Nam cung cấp, và một số bài viết ngắn trên báo, tạp chí, truyền hình, thì chưa có một tài liệu nào viết về toàn bộ cuộc đời, thân thế, sự nghiệp cũng như vai trò của nghệ nhân với truyền thống dân ca ở Hà Nam.
Chọn đề tài Nghệ nhân Trịnh Thị Răm với dân ca truyền thống Hà Nam, người viết gặp những khó khăn và thuận lợi nhất định. Về thuận lợi, trước đó đã có một số nhà nghiên cứu, một số trí thức địa phương sưu tầm, giới thiệu về dân ca Hà Nam, và về các nghệ nhân. Hơn nữa, đây là một hướng nghiên cứu mới mẻ nên thu hút sự quan tâm của nhiều người. Một phần đối tượng mà chúng tui muốn đề cập tới là nghệ nhân Trịnh Thị Răm, hiện nay vẫn sống và đảm nhiệm vai trò của một bà Trùm hát Dậm ở Kim Bảng, Hà Nam, có thể gặp gỡ, trò chuyện trực tiếp được. Mặt khác, dân ca hát Dậm vẫn được tổ chức hàng năm ở đền Trúc, dưới chân núi Thi Sơn vào những ngày đầu xuân sẽ là cơ hội cho người viết có thể tham gia nghe hát và quan sát trực tiếp, tự thấm thía và cảm nhận phần hồn của những làn điệu Hát Dậm đặc sắc ấy. Tuy nhiên, khi nghiên cứu, người viết gặp một loạt những khó khăn: vì tài liệu sách vở không nhiều, văn bản có nhiều dị biệt, phải đi xuống tận địa phương sưu tầm tài liệu, trong khoảng thời gian ngắn không thể tránh khỏi những sơ xuất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tuy văn nghệ dân gian vô cùng phong phú, đa dạng, nhưng trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, người viết chủ yếu tìm hiểu về dân ca truyền thống Hà Nam, đặc biệt là hát Dậm. Nghiên cứu dân ca nói chung, hát Dậm nói riêng trong môi trường diễn xướng của nó, sẽ là một thiếu sót lớn nếu không đi sâu tìm hiểu về các nghệ nhân hát Dậm (mà hiện nay là bà Trịnh Thị Răm), bởi chính họ là những người tổ chức biểu diễn và truyền dạy hát Dậm cho thế hệ trẻ.
Trăng trời thời đã lên cao
Chàng mà không xuống biết lúc nào thở than?
Hà Nam là cái rốn nước của đồng bằng Bắc Bộ. Chỉ trong thơ Nguyễn Khuyến, ta đã nghe ngao ngán những nước:
Quai Mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi!
…Bóng thuyền thấp thoáng vờn trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà
…Mấy ổ lợn con rày đắt rẻ?
Ba gian nếp cái ngập nông sâu?
Người dân Hà Nam phải ngoi, bơi, ngụp, lặn trong nước đồng chiêm quê họ đời đời. Tuy nhiên, cuộc sống lam lũ không làm cho tâm hồn họ cằn cỗi, già nua, héo hắt đi. Tiếng hát vui tươi, hóm hỉnh, yêu đời vẫn cất lên cộng hưởng với tiếng sóng, tiếng gió mênh mang của đất trời:

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:

 
Last edited by a moderator:

Kiến thức bôn ba

Các chủ đề có liên quan khác

Top