Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

MÙA XUÂN CHÍN
(Hàn Mặc Tử)

Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây…

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
(Gái quê)






I.Mở bài
Không chối bỏ “xuân”, không “chắn nẻo xuân sang” để rồi mong nhớ “một cánh chin thu lạc cuối ngàn” như Chế Lan Viên của thời “Điêu tàn”, Hàn Mặc Tử luôn tạo ra những màu xuân như ý tưởng tượng của mình, bằng ý muốn chủ quan của mình. Thi phẩm Mùa xuân chín phải chăng cũng là mùa xuân ẩn dụ của nhà thơ?
Bài thơ mở ra trong cái khoảnh khắc của trời đất, của lòng người bừng nở. Hiện lên trang thơ là bức tranh xuân tràn đầy sức sống và thật thơ mộng. Dường như mỗi con chữ đều có sức gợi tả, gợi sự liên tưởng của một mùa xuân của đời sống thực mà ta đã gặp đã yêu.
II. Nghệ thuật trong Mùa xuân chín
1. Không gian
Mở đầu Mùa xuân chín là cả một không gian đầy ý vị của mùa xuân. Không gian trong Mùa xuân chín thật trong sáng và đầy thơ mộng. Với tài của người nghệ sĩ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một không gian thực mà cũng rất ảo, nhiều chiều, vô hạn. Không gian trong Mùa xuân chín được miêu tả từ “cao- thấp”, “gần- xa”. Đang từ một điểm nhìn lên cao để cảm nhận thấy “làn nắng ửng” trong “khói mơ tan” thì điểm nhìn lại được hạ xuông thấp với hình ảnh “đôi mái nhà tranh”. Từ cái nhìn xa trải rộng “tới trời” không gian được thu lại gần “trên đồi”, từ không gian cao vời “lưng chừng núi” hạ thấp xuống chỉ còn là không gian dưới một khóm trúc. Từ “cao- thấp”, “gần- xa” Hàn Mặc Tử muốn tạo ấn tượng về một không gian mở, trải dài, và trong không gian đó tác giả muốn nhấn mạnh các yếu tố cấu tạo nên bức tranh mùa xuân: nắng ửng, mái nhà tranh, giàn thiên lý, cỏ xanh…Mô hình chung về không gian trong Mùa xuân chín là mô hình cấu tạo “bên trên- bên dưới”. “Trên” đồng nghĩa với “cao, xa” đó là: nắng ở trên trời, cỏ xanh kéo dài tới tận chân trời, tiếng ca ở lưng chừng núi. Còn “thấp” đông nghĩa với “gần” qua hình ảnh: đôi mái nhà tranh, giàn thiên lý, cây trúc. Như vậy mọi sự vận động trong miêu tả không gian ở thi phẩm Mùa xuân chín là sự vận động lên- xuống, vận động theo trục thẳng đứng. Chính sự phối hợp cao với xa, và đặc tính của cái “bên dưới”
đã tạo ra một khuynh hướng không gian rộng mở trong Mùa xuân chín, càng lên cao thì không gian càng nới rộng hơn. Một bức tranh mùa xuân được trải dài trước mắt bạn đọc. Có sự hài hòa trong không gian xuân Hàn Mặc Tử. Như vậy trục cơ bản “trên dưới” được thi sĩ họ Hàn khai thac tối đa:
Trên - Dưới
nắng ửng trên trời mái nhà tranh dưới mặt đất
gió trên cao giàn thiên lý dưới thấp
lưng chừng núi ngồi dưới trúc
Một không gian vừa gần gũi vừa mới lạ. Thế giới sinh hoạt hàng ngày hiện ra trong dáng vẻ của những hình ảnh, những chi tiết gần gũi, quen thuộc.
Bên cạnh khái niệm “trên- dưới” thì đối lập “đóng kín- rộng mở” cũng là dấu hiệu có thực tạo nên cấu trúc không gian văn bản. Không gian đóng kín trong Mùa xuân chín được diễn giải qua hình ảnh: “ mái nhà tranh” và “ai ngồi dưới trúc”. Hình ảnh “mái nhà tranh” gợi cho người đọc một cảm giác thân thuộc, ấm áp, yên ổn. Còn hình ảnh “ai ngồi dưới trúc” có một cảm giác của một sự khép mình, náu mình. Không gian rộng mở được thể hiện qua hình ảnh: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời” và “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Một không gian xanh non trải dài, và một màu nắng vàng chói chang.
Với cách kết hợp miêu tả không gian từ xa tới gần, từ cao xuống thấp, không gian khép kín rồi lại rộng mở Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một thế giới mùa thu riêng biệt cho Mùa xuân chín.
2. Thời gian
Nếu không gian trong Mùa xuân chín là sự kết hợp cả thông nhất và đối lập, thì thời gian trong Mùa xuân chín cũng là sự thống nhất và đối lập như vậy. Thi sĩ đang say đắm trong thời khắc hiện tại với cảnh phô bày trước mắt và bao cô thôn nữ đang khao khát xuân tình đầy ý vị, thoắt cái đã sang một tương lai vô vị “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chông bỏ cuộc chơi”. Đương còn lắng nghe những lời thì thầm gần thế, đã sực nhớ đến một ảnh hình trong quá khứ xa thế “Lòng khí bâng khuâng sực nhớ làng/ Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Nét độc đáo trong bài thơ chính là ý thức về thời gian của thi sĩ họ Hàn. Có vẻ như không có gì khác lắm với Nắng mới của Lưu Trọng Lư ở sự sống dậy của thời gian quá khứ. Nhưng không phải! Sự riêng biệt của Mùa xuân chín bắt đầu và không kết thúc bởi sự hiện diện của “khách xa”. Bài thơ do vậy không có cái trong trẻo của Nắng mới mà lại chất ngất những bùi ngùi chỉ có ở những tâm hồn dày dạn cùng gió bụi. Cái kinh nghiệm ấy đã cho nhà thơ khả năng tiên đoán cả về tương lai:
Ngày mai trong đam xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi
Sẽ thiếu sót nếu ta không nói thêm sự liên tưởng, sự mở rộng nhiều chiều của thời gian đồng hiện trong Mùa xuân chín. Đang miêu tả bức tranh tươi sáng như một nét cười, một nụ hôn đăm say thuần khiết thì đột ngột cái man mác rình rập ở đâu đó hiện về trong ý nghĩa đau đớn của nhà thơ về sự chia lìa: “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”. Cái mầm li biệt hiện lên như một tiền định. Cái nỗi niềm đứt ruột này nói hộ một tình yêu, một thứ tình yêu đắm đuối không cùng với cuộc đời mà con người trước dòng chảy của thời gian đã không sao giữ lại nổi. Và cũng từ hiện tại nhà thơ đã nhìn lại quá khứ để nhớ lại hình ảnh:
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Ở đây thời gian đã bị “đứt gãy”, “gấp khúc” và dường như nó còn chứa đựng cả tâm trạng nhà thơ. Tài hoa và bạc mệnh là một nghịch lí của biết bao tài tử giai nhân và ở Hàn Mặc Tử điều này thật quá nghiệt ngã đau khổ. Ám ảnh về sự gấp khúc quanh co và “đứt gẫy” trở thành môtip thời gian nghệ thuật trong thơ ông. Đó là những đổi thay bất ngờ, đột ngột. Giữa khung cảnh mùa xuân tươi non rạng rỡ niềm vui, các cô thôn nữ đang say sưa tiếng hát của lễ hội mùa xuân thì đột nhiên nhà thơ liên tưởng đến mặc cảm chia li:
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi
Đây chính là thời gian đồng hiện, xen lẫn thời gian hiện tại, quá khứ và tương lai theo các trang thái tâm trạng và mắc cảm chia lìa, “đứt gẫy”, một thứ thời gian “gấp khúc” nội tâm của thi nhân. Nó gợi lên sự đột ngột, gấp khúc, đứt gẫy trong cảm giác về thời gian ngắn ngủi của đời người.
Ẩn dụ “xuân xanh” xuất hiện, chỉ người con gái đương thì ham sống và vô tư sống. Nhưng nếu xuân của trời đất là vĩnh viễn, cón xuân đời chỉ là giây phút thoáng qua khiến cho ai cũng chạy lòng. Những nàng thôn nữ kia càng vui tươi,vô tư bao nhiêu trong ngày xuân chín càng khiến chủ thể trữ tình và người đọc chạy lòng bấy nhiêu. Câu thơ không có chung một ấn tượng như câu thơ của Xuân Diệu: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua- Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già- Và xuân chết nghĩ là tui cũng hết…”, song niềm tư lự kia ở Hàn Mặc Tử còn ám ảnh dài lâu hơn những lo âu cuống quýt của hoàng tử thơ tình Xuân Diệu.
Mùa xuân chín mở đầu bằng thời gian của buổi bình minh khi cái ánh “nắng ửng” của mặt trời dần xua tan đi những làn “khói mơ tan”, và kết thúc cũng bằng hình ảnh của nắng nhưng không phải là “nắng ửng” của buổi bình minh mà là cái nắng “chang chang” của buổi trưa. Bước đi của thời gian trong Mùa xuân chín thật độc đáo và cũng rất gợi tình.

Đó là tín hiệu mùa xuân, cái chồi búp ngọt ngào hiện ra trên cái tàn đông lạnh giá. Chiếc áo mùa xuân đẹp thế đang muốn lẩn tránh đi vì nó quá rực rỡ qua nổi bật, còn cô gái xuân lại dịu dàng, e thẹn biết bao. Song càng e lệ giấu mình thì cơn gió thóc mách kia lại càng vô tâm biết mấy. Nó dồn lại, túm lại trước “tà áo biếc” để trêu trọc, phơi bày. Phải chăng cái “nắng ửng ” trên kia đã dự báo cho cái phút ngỡ ngàng này, sẽ là cái màu thẹn, cái màu làm duyên trên đôi má hông của nàng xuân? Cửa xuân vốn khép kín trong mấy tháng lạnh lẽo, hóe hon vì chờ đợi đã mở ra “Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang”. Trên bức tranh lụa, cái bút lông của người nghệ sĩ đã có đà, nó đã có hồn và bắt đầu cất cánh.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Màu xanh bằng cái nét chấm phá ở trên tưởng chừng đã đủ. Nhưng mà không! Chưa ai bạo tay như Hàn Mặc Tử , dường như để phá vỡ tất cả, nếu cần- cả sự cân đối thăng bằng, độ đậm nhạt vì sự thôi thúc nội tâm ông vẫn sẵn sàng. Vì vậy mà một màu xanh khác lại xuất hiện, đột ngột và bướng bỉnh. Và lần này không phải một đốm, một nét mà lại là cả một mặt bằng mênh mông của cỏ. Ngồn ngộn một màu xanh thèm khát mà con người chỉ dám mơ ước đã tươi rói hiện ra hào phóng, vô tư, vẫy gọi, chào mời… “Sóng cỏ” gợi một hình ảnh bay lượn hơn, sống động hơn, nó đang vỗ bờ nhịp từng bồi hồi từ một trái tim mênh mông đa tình, đa cảm.
7. Tứ thơ
Nếu cảm xúc trong các bài thơ của nhà “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính dựa nhiều vào “cốt” khiến thơ ít nhiều mang tính tự sự, kể lể, thì ở chàng “thi sĩ ái tình” Xuân Diệu cảm súc dâng trào trên bề mặt lại dựa hẳn vào một cái “tứ” khá chặt chẽ nào đó dưới bề sâu. Trong khi ấy, mạch thơ của chàng “thi sĩ Thơ điên” Hàn Mặc Tử lại trôi chảy theo một dòng tâm tư hoàn toàn bất định khước từ sự dẫn dắt của lôgic lí trí. Tác phẩm của Hàn Mặc Tử rất khác: đã “phi tự sự” lại còn “phi lôgic”. Tất cả đều có vẻ thiếu mạch lạc. Về thực chất, đó là kiểu liên kết siêu lôgic rất đặc trưng của Thơ điên. Toàn bài là một dòng tâm tư đầy những bất chợt cứ trôi chảy với hai biểu hiện trái chiều: mạch phía trên thì theo liên tưởng tán lạc, mạch tâm tư bên dưới thì theo cảm xúc nhất quán- nhưng là sự nhất quán đầy ẩn khúc chứ không hề giản đơn. Và trong Mùa xuân chín có một câu thơ dường như muốn tiết lộ cho chúng ta về khía cạnh ấy của thơ Hàn Mặc Tử:
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
“Sực nhớ” tức là những khoảnh khắc bất chợt, bất thần, vụt hiện, ngẫu nhiên. Dòng tâm tư bất định trong thơ Hàn Mặc Tử chính là một chuỗi những “sực nhớ” như thế. Các hình ảnh trôi trên bề mặt của dòng tâm tư là những ấn tượng, những kỉ niệm vụt hiện nhưng tất cả những hình ảnh bất chợt, đầy ngẫu nhiên ấy lại đan bện vào cùng một nỗi niềm đang miên man chuyển hóa, vần vụ. Như vậy, “phi lôgic” về bề mặt song lại lôgic ở bề sâu chính là bản tướng của cái hình thái được gọi bằng “siêu lôgic” của Hàn Mặc Tử.
8. Cảm xúc
Trong Mùa xuân chín mạch cảm xúc không được triển khai theo kiểu cứ tăng tiến mãi một chiều mà vận động theo lối đứt gãy rồi chuyển điệu đột ngột tựa như bất ngờ chuyển kênh. Bài thơ có 4 khổ thì ba khổ thơ đầu nghiêng về diễn tả vẻ rạo rực xuân tình trong cảnh vật và trong lòng người. Thế rồi trạng thái rạo rực đang dồn đẩy tới thoắt chuyển thành trạng thái bâng khuâng. Mùa xuân chín mạch cảm xúc vì thế có tới hai cao trào: Rạo rực thì đến mức “hổn hển”- “Hổn hển như lời của nước mây”, còn bâng khuâng thì đến thành xa vắng- “Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng”. Mới vừa “rạo rực” thoắt đã “bâng khuâng”, vừa ngây ngất yêu đời đã da diết thương đời. Đó chính là mạch chuyển lưu cảm xúc trong Mùa xuân chín và cũng là lối liên kết độc đáo của Mùa xuân chín nói riêng và Thơ điên Hàn Mặc Tử nói chung.
III. Kết luận
Mùa xuân chín là một thi phẩm đặc sắc về mùa xuân và tình xuân. Tình xuân không chỉ chín trong cảnh vật mà còn chín trong con người. Thành công của thi phẩm chính là nhờ sự sáng tạo và sự vận dụng nghệ thuật rất linh hoạt và uyển chuyển của tác giả. Bài thơ hay và giản dị đến tận cùng, với những không gian thời gian, ngôn ngữ, màu sắc đầy ấn tượng. Bài thơ đã cho ta thấy cái tài của Hàn Mặc Tử là nói được một cách giản dị những điều ai cũng cảm giác nhưng không thể diễn tả được đó chính là vẻ đẹp của một Mùa xuân

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Tags: nội dung nghệ thuạt mùa xuan chín, sức hấp dẫn từ nghệ thuật bài thơ Mùa Xuân chín - Hàn Mặc Tử, nội dung và nghệ thuật bài thơ mùa xuân chín, nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ mùa xuân chín, nghệ thuật trữ tình trong mùa xuân chín, bài báo về mùa xuân chín hàn mặc tử, Biện pháp nghệ thuật mùa xuân chín, hình thức nghệ thuật trong bài thơ mùa xuân chín, phân tích giá trị biện pháp nghệ thuật bài mùa xuân chín khổ 1, mùa xuân chín có những biện pháp nghệ thuật nào, bố cục hình ảnh tiêu biểu ,các yếu tố tự sự miêu tả được sử dụng trong bài mùa xuân chín, phân tích chuyên sâu tác phẩm mùa xuân chín - Hàn mặc tử, phân tích đánh giá chủ đề và đặc sắc nghệ thuật của mùa xuân chín, đặc sắc nghệ thuật trong mùa xuân chín, các nghệ thuật trong bài mùa xuân chín, cấu trúc thơ trong bài thơ mùa xuân chín, nghệ thuật mùa xuân chín ngắn nhất, đặc sắc nghệ thuật trong bài mùa xuân chín, nghệ thuật bài thơ mùa xuan chín, cảnh vật bức tranh mùa xuân , và hình ảnh ấy có ý nghĩa gì trong bài Mùa Xuân Chín, yếu tố nghệ thuật trong bài mùa xuân chín, hình ảnh ngôn từ, yếu tố nghệ thuật khổ thơ 4 bài mùa xuân chín, phân tích nghệ thuật nội dung của bài thơ mùa xuân chín ngắn nhất, Ngôn ngữ thơ ca sử dụng trong bài thơ Mùa xuân chín, hân tích đặc trưng của ngôn ngữ thơ qua đoạn thơ Khách xa gặp lúc mùa xuân chín.... nắng chang chang, vẻ đẹp của ngôn từ trong mùa xuân chín, chủ đề bài mùa xuân chín, sự kì diệu trong ngôn từ mùa xuân chín, phân tích đánh giá bài thơ mùa xuân chín, biện pháp tu từ trong bài mùa xuân chín, đặc sắc nghệ thuật mùa xuân chín, nghệ thauật trong “mùa xuân chín, giá trị nghệ thuật của bài mùa xuân chín, phân tích nghệ thuật mùa xuân chín, nội dung và nghệ thuật bài mùa xuân chín, Tìm những nét nghệ thuật đặc sắc trong bài mùa xuân chín, nghe thuat bai mua xuan chin, nghệ thuật ngôn từ trong bài thơ mùa xuân chín, nghệ thuật mùa xuân chín 10, Nghệ thuật mùa xuân chín, sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời biện pháp nghệ thuật sử dụng ngôn từ, sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời phép đối lập
Last edited by a moderator:
Top