Tris

New Member
Link tải miễn phí luận văn
LỜI MỞ ĐẦU
Ở các nước phát triển trên thế giới từ những năm 80 - 90 của thế kỷ XX các kỹ thuật lọc máu đã có những tiến bộ vượt bậc, đặc biệt những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI nhiều kỹ thuật lọc máu hiện đại ra đời: các biện pháp lọc máu hiện đại không dừng lại ở hiệu quả điều trị thay thế thận đơn thuần mà có khả năng loại thải chất độc mà bình thường gan thận và cơ thể khó có thể thải trừ như các chất độc, các phức hợp kháng nguyên - kháng thể, các chất trung gian của đáp ứng viêm hệ thống đó là các cytokine. Song song với nghiên cứu sinh bệnh học người ta đã giải thích đầy đủ hơn về mối tương tác giữa cơ thể và tác nhân gây bệnh thông qua sự tương tác của các tế bào, qua các hoạt chất mà chúng tiết ra (Interleukin - IL). Tác động của các IL dẫn đến hậu quả như giãn mạch, tăng tính thấm thành mạch, huyết khối vi mạch, gây thiếu oxy tế bào dẫn đến tế bào bị chết một cách nghiêm trọng (hiện tượng hoại tử) hay tế bào bị chết dần (hiện tượng Apoptosis - chết theo chương trình). Vì vậy điều trị sớm tác động vào quá trình bệnh lý trước khi có các biểu hiện lâm sàng là một bước tiến mới mang tính chất đột phá trong lĩnh vực hồi sức hiện đại. Thông qua các biện pháp: lọc máu liên tục, lọc máu hấp phụ, lọc và tách huyết tương, gan nhân tạo…
Lọc máu liên tục (Continuous blood purification) là một tập hợp gồm nhiều cách lọc máu nhằm lọc bỏ ra khỏi máu một cách từ từ và liên tục các chất độc (nội sinh hay ngoại sinh), màng lọc sử dụng cho kỹ thuật này có thể lọc và hấp phụ các chất có trọng lượng phân tử thấp hay trung bình 30 - 40 KD, đặc biệt các chất có thể tích phân bổ trong cơ thể lớn và gắn mạnh mẽ vào tổ chức. Đây là các hóa chất trung gian (Pro-inflammatory mediators) tham gia vào quá trình sinh bệnh học của nhiều bệnh như nhiễm khuẩn nặng, suy gan, suy thận, viêm tụy cấp nặng, sốc bỏng, suy đa tạng, ngộ độc cấp (paraquat, nấm độc, ong đốt, rắn cắn) đồng thời một số chất có tác dụng chống viêm (các anti-inflamatory mediators) cũng bị loại bỏ bằng các kỹ thuật lọc máu liên tục bên cạnh đó lọc máu liên tục còn điều hòa cân bằng dịch, điện giải, toan kiềm giúp duy trì nội môi trong cơ thể. Đã có nhiều nghiên cứu ứng dungj kỹ thuật lọc máu liên tục trên lâm sàng đặc biệt trong hồi sức cấp cứu về hiệu quả lọc máu liên tục trong điều trị các bệnh lý nặng như sốc nhiễm khuẩn; suy đa tạng, viêm tụy cấp nặng như: nghiên cứu của Ronco, Payen, Pupelis, Zhu… Các nghiên cứu đều cho kết luận lọc máu liên tục làm gjảm biến chứng suy tạng cải thiện chức năng tụy và làm giảm tỷ lệ tử vong.
Liệu pháp thay huyết tương (Plasma exchange) là biện pháp lọc bỏ huyết tương của người bệnh sau đó bù lại thể tích huyết tương bị loại bỏ bằng Plasma tươi đông lạnh hay albumin 5% với thể tích tương đương. Máu đi qua quả lọc có kích thước lỗ lọc lớn cho phép các phân tử lớn của huyết tương (trong đó có kháng thể tự miễn) qua được trừ các tế bào máu. Kỹ thuật này đã được ứng dụng thành công ở các nước phát triển trong điều trị bệnh lý miễn dịch thần kinh cơ (Guillain - Barré, nhược cơ), bệnh tự miễn khác… Nhiều tác giả trên thế giới đã báo cáo thành công trong nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật này như: Atid Dada; Lewis, Marcelo, Richiad trong điều trị Guillain - Barré và nhược cơ nặng.
Biện pháp lọc máu hấp phụ phân tử liên tục (gan nhân tạo - Molecular Absorbents Recirculating Systems - MARS) dùng để thay thế chức năng khử độc của gan nhằm lọc bỏ các chất độc tan trong nước cũng như các chất độc gắn kết với protein, qua đó làm giảm độc tính của huyết tương và tạo điều kiện tốt hơn để cho tế bào gan hồi phục. Kỹ thuật này được phát triển bởi Janstange và Steffen Mitzner trường đại học Rostock, Cộng hòa liên bang Đức từ năm 1990 nhằm điều trị suy gan cấp, đến năm 2000 kỹ thuật được sử dụng rộng rãi ở châu Âu, đến năm 2005 trên thế giới có khoảng 130 bệnh viện áp dụng kỹ thuật này và hơn 4500 bệnh nhân suy gan cấp được điều trị bằng kỹ thuật này. Nếu như trước kia suy gan cấp nặng chỉ có thể được cứu sống nhờ ghép gan thì ngày nay MARS hay còn gọi là gan nhân tạo đã cứu sống được rất nhiều các trường hợp suy gan cấp tính, đợt cấp của suy gan mạn trong khi chờ đợi ghép gan.
Lọc máu hấp phụ (LMHP) là cho máu chạy qua các cột lọc có cấu tạo bằng các vật liệu khác nhau có thể hấp phụ nhiều chất như: các phức hợp miễn dịch; các chất độc tự do tan trong nước; các chất lipid máu; các cytokin… Trên thế giới có nhiều loại lọc máu hấp phụ đã được nghiên cứu phát triển thành công nhưng giá thành rất cao, tại Việt Nam việc lựa chọn lọc máu hấp phụ với cột than hoạt tính nhằm hấp phụ các chất độc là một lựa chọn hợp lý về tính hiệu quả là giúp loại bỏ nhanh một số chất độc thường gặp, giá thành hợp lý và kỹ thuật dễ áp dụng nhiều nơi. Biện pháp này được sử dụng khá hiệu quả trong ngộ độc paraquat, theophylin, chloroquyn, nấm độc… Các nghiên cứu điển hình trên thế giới về hiệu quả của ứng dụng LMHP trong điều trị ngộ độc cấp như: Hampson, Koo, Hong trong điều trị ngộ độc paraquat, Kely trong ngộ độc theophylin, Kawasakiv trong ngộ độc phenytoin.
Ở Việt Nam năm 2002, Viện nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh kết hợp với Đại học Oxford đã nghiên cứu thử nghiệm so sánh hiệu quả của lọc máu liên tục CVVH và ngắt quãng ở bệnh nhân sốt rét ác tính cho thấy CVVH có hiệu quả cải thiện tiên lượng và tỷ lệ tử vong. Cùng thời gian đó, khoa Điều trị Tích cực Bạch Mai tiến hành nghiên cứu ứng dụng lọc máu liên tục cho bệnh nhân Viêm tụy cấp, sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng và đã thu được những kết quả khả quan. Nguyễn Gia Bình và Đào Xuân Cơ nghiên cứu trên 54 bệnh nhân viêm tuỵ cấp nặng cho thấy nhóm được lọc máu liên tục cải thiện triệu chứng lâm sàng nhanh hơn, thời gian nằm viện ngắn hơn đặc biệt giảm tỷ lệ tử vong 53% xuống 27%. Trong một nghiên cứu khác của Lê Thị Diễm Tuyết Lọc máu liên tục giúp cải thiện tỷ lệ tử vong 87% xuống còn 42%.

Tiếp theo lọc máu liên tục thay huyết tương cũng được cũng bắt đầu được ứng dụng vào điều trị từ năm 2004. Các nghiên cứu bước đâu cho thấy PEX có hiệu quả trong điều trị bệnh lý thần kinh cơ. Theo Nguyễn Công Tấn và Nguyễn Gia Bình PEX làm cải thiện cơ lực, ở bệnh nhân Guilain – Barre giảm ngày nằm viện, ngày thở máy.
Lọc gan nhân tạo MARS mới được ứng dụng vào điều trị bệnh nhân suy gan từ năm 2005. Trước khi chưa có phương pháp lọc gan nhân tạo bệnh nhân hôn mê gan do suy gan có tỷ lệ tử vong 100%. Khi có lọc gan nhân tạo đã cứu sống được một số bệnh nhân. Theo Ngô Minh Biên và Nguyễn Gia Bình báo cáo trên 6 ca suy gan được tiến hành lọc gan nhân tạo cho thấy có cải thiện rõ rệt về ý thức, xét nghiệm trước và sau làm gan nhân tạo.
Tuy nhiên các nghiên cứu ứng dụng về các biện pháp lọc máu hiện đại ở Việt Nam còn nhỏ lẻ, chưa công trình nào đưa ra được kết luận thích đáng về hiệu quả và các biến chứng hay gặp của các biện pháp lọc máu đó trong lâm sàng. Đặc biệt chưa xây dựng được các quy trình kỹ thuật hoàn chỉnh để có thể áp dụng rộng rãi trên lâm sàng. Xuất phát từ tình hình bệnh tật và các kết quả nghiên cứu đó đề tài cấp Nhà nước "Nghiên cứu ứng dụng một số kỹ thuật lọc máu hiện đại trong cấp cứu điều trị một số bệnh" có mã số ĐTĐL 2008.G/29 nhằm mục tiêu:
1. Nghiên cứu hiệu quả và các biến chứng thường gặp của một số biện pháp lọc máu hiện đại (lọc máu liên tục, thay huyết tương, gan nhân tạo và lọc máu hấp phụ) trong cấp cứu điều trị một số bệnh.
2. Xây dựng các quy trình kỹ thuật lọc máu hiện đại hoàn chỉnh để ứng dụng trên lâm sàng trong điều kiện ở Việt Nam.








NỘI DUNG CHÍNH
CỦA BÁO CÁO


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1. Lọc máu liên tục và ứng dụng
1.1. Lịch sử[1], [2], [20]
- Năm 1960, Scribner lần đầu tiên mô tả kỹ thuật lọc máu động - tĩnh mạch áp dụng cho việc điều trị bệnh nhân suy thận.
- Năm 1967, Heudersur và cộng sự đã sử dụng bộ lọc để thẩm tách máu.
- Năm 1974, kỹ thuật siêu lọc máu đã được Silvestein thực hiện.
- Năm 1977, Kramer đã công bố kết quả đầu tiên áp dụng kỹ thuật lọc máu liên tục cho một bệnh nhân suy thận, phù to, có suy tim không thể áp dụng kỹ thuật thận nhân tạo thông thường (Internitent Hemodialysis- IHD). Tác giả đã lấy máu động mạch cho chạy qua một phin lọc và trở về tĩnh mạch, một phần nước và các chất hòa tan đi qua phin lọc ra ngoài (Hemofiltration). Như vậy áp lực lọc là nhờ áp lực động mạch, tốc độ đào thải dịch có thể kiểm soát được và thực hiện liên tục.
- Năm 1981, Bischoft đã lắp thêm 1 bơm và lấy máu ra từ tĩnh mạch, qua quả lọc và đưa vào tĩnh mạch đã có kết quả tốt hơn so với lấy máu từ động mạch.
- Năm 1985, Geromerous đã phát triển kỹ thuật kết hợp cả hai kiểu trong lọc máu là siêu lọc (Hemofiltration) và thẩm tách (dialysis) nhằm nâng cao hiệu quả.
- Năm 1987 Uldall đã cải tiến lại cách lấy máu ra từ tĩnh mạch và đưa vào qua đường tĩnh mạch (Venno- Venous), kết hợp cả 2 cách lọc (Hemofiltration - Dialysis) đã làm tăng được hiệu quả và kỹ thuật được tiến hành dễ dàng hơn (Hemodiafiltration). Thuật ngữ CRRT (Continuous Renal Replacement Therapy).
Hemofiltration therapy: liệu pháp thay thế thận liên tục cũng ra đời vào thời điểm này.
1.2. Những nguyên lý của LMLT
LMLT được thực hiện dựa trên bốn cơ chế vận chuyển chính sau: khuếch tán, đối lưu, siêu lọc và hấp phụ qua một màng bán thấm [1], [1], [2], [20], [21], [24], [25]
Màng bán thấm
Màng lọc là một màng bán thấm, có vai trò quyết định trong tất cả các cách lọc máu. Nó cho phép nước và một số chất hòa tan đi qua màng, trong khi các thành phần hữu hình của máu và một số chất hòa tan vẫn bị giữ lại ở phía bên kia. Nước huyết tương và một số chất hòa tan lọt qua màng được gọi là dịch siêu lọc. Màng lọc gồm nhiều bó sợi rỗng cho máu đi qua và được bao bọc trong một khung cố định gọi là quả lọc. Dịch lọc thường chảy ngược chiều với dòng máu chảy qua bó sợi rỗng để tăng diện tích tiếp xúc và tăng hiệu quả lọc. Có hai loại màng bán thấm được sử dụng trong lọc máu là màng có bản chất cellulose và màng tổng hợp. Trong đó màng có bản chất là cellulose (cuprophan, hemophan, cellulose acetate) thường được sử dụng trong thẩm tách máu ngắt quãng. Màng có bản chất là tổng hợp (polysulfone, polyamide, polyacrylonitrile, polymethylmethacrylate). Quả lọc thường dùng là AN69 (Acrylonitrile) có diện tích hiệu dụng là 0,9m2, sẽ cho qua các phân tử hòa tan có TLPT <50.000 daltons.
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:

 

surfactant

New Member
Nhờ Mod chia sẻ tài liệu này giúp mình.
Mình đang rất cần để làm nghiên cứu tại bệnh viện.
Thank nhiều.
 

pingping

New Member
Re: [Free] Nghiên cứu ứng dụng vài kỹ thuật lọc máu hiện đại trong cấp cứu điều trị vài bệnh

Link tải free cho các bạn:
Nghiên cứu ứng dụng một số kỹ thuật lọc máu hiện đại trong cấp cứu điều trị một số bệnh
Code:
http://download.doko.vn/thesis/3/8/4/9/6/4/680ff2bdb160aebdc987fd9e5dbdce18/doko.vn-384964-nghien-cuu-ung-dung-mot-so-ky-.docx
 

surfactant

New Member
Re: [Free] Nghiên cứu ứng dụng vài kỹ thuật lọc máu hiện đại trong cấp cứu điều trị vài bệnh

Thank Mod rất nhiều!!!
 

Kiến thức bôn ba

Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Nghiên cứu quy trình sản xuất bột chuối ứng dụng chế phẩm Enzyme pectinase Nông Lâm Thủy sản 0
D Nghiên cứu Starter của nấm mốc Actinomucor elegans và ứng dụng trong sản xuất Chao với quy mô công nghiệp Nông Lâm Thủy sản 0
D Nghiên cứu ứng dụng enzyme amylase trong sản xuất rượu nếp trắng Nông Lâm Thủy sản 0
R Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định mua hàng trực tuyến trên ứng dụng điện thoại thông minh tại TP.HCM Luận văn Kinh tế 0
R Nghiên cứu khả năng ứng dụng công nghệ CORS trong đo đạc địa chính bằng phương pháp đo GPS động Khoa học Tự nhiên 0
D Nghiên cứu quy trình tổng hợp vật liệu aerogels từ xơ dừa và ứng dụng hấp phụ Khoa học Tự nhiên 0
D Nghiên Cứu, Chế Tạo Carbon Cellulose Aerogel Từ Hỗn Hợp Sợi Lá Dứa Và Sợi Cotton Ứng Dụng Trong Hấp Phụ Khoa học Tự nhiên 0
D nghiên cứu các phương pháp phân lớp dữ liệu và ứng dụng trong bài toán dự báo thuê bao rời mạng viễn thông Công nghệ thông tin 0
D Nghiên cứu về mạng Nơron tích chập và ứng dụng cho bài toán nhận dạng biển số xe Công nghệ thông tin 0
D Nghiên cứu quy trình công nghệ trích ly triterpenoid từ nấm linh chi, ứng dụng cho chế biến thực phẩm Nông Lâm Thủy sản 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top