Download Đề tài Phân tích tình hình tài chính tại công ty cổ phần thủy sản Mekong
So với 2008, chu kỳ vốn lưu động năm 2009 tăng lên một ngày. Kết quả này có được chủ yếu là do gia tăng thời gian thu tiền bán hàng lên bốn ngày, số ngày tồn kho tăng lên một ngày, đồng thời gian chiếm dụng vốn của công ty cũng tăng lên bốn ngày nên làm cho chu kỳ vốn lưu động tăng lên một ngày. Thời gian thu tiền bán hàng tăng lên bốn ngày, sở dĩ như vậy là do thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty là EU .Đồng thời công ty cũng mới gia nhập thị trường quốc tế nên việc DN muốn mở rộng thị trường là không tránh khỏi. Do đó, doanh nghiệp chấp nhận bán chịu để thu được lợi nhuận nhiều hơn trong tương lai. Thời gian dự trữ tồn kho tăng lên một ngày là do doanh nghiệp nhận định thị trường nước ngoài đang ưa chuộng thủy sản của Việt Nam, đồng thời giá cả thủy sản Việt Nam tương đối rẻ hơn so với các nước xuất khẩu thủy sản khác. Ngoài ra, Chính Phủ Việt Nam đang có những chính sách khuyến khích, ưu đãi cho ngành. Do đó, doanh nghiệp tận dụng sản xuất nhiều hơn để tung sản phẩm kịp thời ra thị trường, chấp nhận tồn kho tăng để gia tăng doanh thu trong tương lai. Bằng chứng doanh thu thuần trong hai năm tăng liên tục. Rõ ràng đây là một chính sách phù hợp với tình hình kinh tế, doanh nghiệp đã tận dụng khá tốt những ưu thế sẵn có. Số ngày trả tiền tăng lên bốn ngày là do nhà cung cấp chủ yếu của doanh nghiệp là các hộ nông dân có quá trình gắn bó mật thiết với công ty. Do đó, công ty dễ dàng thương lượng với họ. doanh nghiệp một lần nữa lại tận dụng tốt những ưu thế trong ngành.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Chi phí quản lý doanh nghiệp:
Năm 2008 so với năm 2007 tăng khoảng 2,3 tỷ đồng (39,91%) giảm xuống gần 1,7 tỷ đồng (20,68%) năm 2009 so với 2008. Tốc độ tăng chi phí quản lý doanh nghiệp nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu thuần. Kết quả này thể hiện qua chỉ tiêu chi phí quản lý trên 100 đồng doanh thu tăng lên liên tục (nhưng không đáng kể). Tuy chi phí quản lý doanh nghiệp có tăng nhưng không đáng kể lắm. Do đó, không ảnh hưởng lắm đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. Việc tăng chi phí quản lý doanh nghiệp chủ yếu là do ảnh hưởng của doanh thu thuần, còn ảnh hưởng của hiệu quả thì tương đối thấp. Điều đó, có nghĩa là doanh nghiệp đã sử dụng chi phí hiệu quả. Còn ảnh hưởng của doanh thu thuần đến chi phí quản lý doanh nghiệp ta vẫn có thể chấp nhận được. Bởi lẽ, khi công ty tăng quy mô tiêu thụ sản phẩm thì các chi phí liên quan đến quản lý doanh nghiệp vẫn có thể tăng lên. Nhìn chung, dù chi phí quản lý doanh nghiệp tăng nhưng không ảnh hưởng lắm đến hoạt động kinh doanh. Do đó, kết quả trên là vẫn có thể chấp nhận được.
Lợi nhuận từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ:
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính năm 2008 so với 2007 tăng khoảng 12 tỷ đồng (94,19%). Năm 2009 so với năm 2008 tăng khoảng 11,2 tỷ đồng (45,13%). Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính có xu hướng tăng giảm dần. Mặt khác, tỷ suất lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính trên doanh thu thuần năm 2008/2007 là 2,55%. Năm 2009/2008 tăng 1,55%. Dù tỷ suất Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính/ doanh thu thuần tăng (là điều đáng mừng) nhưng lại có xu hướng giảm dần (trong tương lai, nếu công ty không có chính sách phù hợp thì có nguy cơ thua lỗ). Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính tăng chủ yếu là do ảnh hưởng của hiệu quả. Điều đó có nghĩa DN đã sử dụng cơ cấu chi phí trên doanh thu thuần một cách có hiệu quả. Trong khi đó ảnh hưởng của doanh thu thuần lại thấp hơn. Dù quy mô tiêu thụ sản phẩm tăng nhưng đóng góp không đáng kể vào Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính. Tình hình kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm vẫn chưa tốt, chưa sử dụng tối ưu. Đáng lẽ ra, doanh thu thuần đạt được phải nhiều hơn nữa. Nếu có chiến lược kinh doanh tốt hơn thì Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính còn tăng nữa. Việc tăng Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính do ảnh hưởng của hiệu quả là điều tốt, cần tiếp tục phát huy. Nhưng còn tốt hơn nếu việc tăng Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính là do ảnh hưởng của doanh thu thuần.
Doanh thu hoạt động tài chính tăng liên tục qua các năm, và đặc biệt tăng mạnh trong năm 2008. Nguyên nhân tăng chủ yếu do:
+ Trong năm công ty đã đầu tư vào các cổ phiếu lớn như FPT, Vinamilk, TTP, thủy sản Bến Tre… và các cổ phiếu chưa niêm yết (Eximbank, Vietcombank…) và lãi gần 3 tỷ đồng
+ AAM không sử dụng vốn vay ngân hàng, mà còn dư vài chục tỷ đồng gửi ngân hàng nên được hưởng lãi từ tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn gần 8 tỷ và không phải chịu chi phí lãi vay tăng thêm khi lãi suất cơ bản tăng . Bên cạnh đó lãi cho vay 3.5 tỷ, cũng góp phần không nhỏ vào sự gia tăng của doanh thu hoạt động tài chính.
+ Vì AAM là một công ty hoạt động chủ yếu là xuất khẩu thủy sản nên khi tỷ giá tăng thì AAM cũng được hưởng lợi, và khoản lãi từ chênh lệch tỷ giá này đã đem lại hơn 10 tỷ đồng, chiếm 41.1% tổng Doanh thu hoạt động tài chính. Đây là khoản chiếm tỷ lệ lớn nhất trong Doanh thu hoạt động tài chính của AAM
AAM là công ty rất đa dạng trong các hoạt động tài chính. Đây sẽ là nguồn lợi bổ sung cho lợi nhuận của doanh nghiệp, nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro cao do không phải là hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp.
Doanh thu hoạt động tài chính 2009 ngoài những khoản trên còn do 2009 AAM kinh doanh ngoại hối và được lãi gần 4 tỷ, chiếm khoảng 6.07% doanh thu hoạt động tài chính. Bên cạnh đó AAM có một khoảng doanh thu lớn từ hoàn nhập dự phòng giảm giá đầu tư tài chính, chiếm 64.4% tổng doanh thu hoạt động tài chính
Lợi nhuận hoạt động tài chính năm 2008 âm và mức âm rất lớn, hơn 2.3 tỷ. Và mức âm này do doanh thu hoạt động tài chính không đủ bù đắp chi phí tài chính trong năm. Mức chi phí tài chính gần gấp đôi doanh thu hoạt động tài chính và cao nhất trong cả ba năm (tăng 1772% so với 2007 và giảm 19% so với 2009). Chi phí tài chính cao như vậy chủ yếu do công ty phải trích một khoản dự phòng rất lớn, chiếm 97% chi phí tài chính. Như chúng ta đã biết, chi phí tài chính dù giảm 19% so với 2008. Mặc dù 2009 công ty đã hoàn nhập dự phòng lớn nhưng vì danh mục đầu tư chứng khoán của công ty quá nhiều lĩnh vực nên trong năm nó vẫn bị lỗ từ việc bán chứng khoán, chiếm 83.5% tổng chi phí tài chính.
Chi phí lãi vay chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong chi phí tài chính
Lợi nhuận khác: năm 2007 lớn nhất và giảm dần ở những năm sau, tuy nhiên với kết quả dương của các năm góp phần làm EBIT của doanh nghiệp tăng lên. Lợi nhuận khác có được là do thu từ hỗ trợ hàng xuất khẩu, thu khác, ngoài ra trong 2008 có thu thêm tiền bồi thường từ quy hoạch, thu tiền nhượng bán, thanh lý tài sản cố định. Năm 2007 co thêm tiền bồi thường từ hoàn nhập dự phòng.
Xét những yếu tố cấu thành EBIT:
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính đóng góp nhiều hơn vào EBIT. Lợi nhuận hoạt động chính năm 2008 tăng so với 2007 94.19%, tương đương 12.073 tỷ, năm 2009 tăng so với 2008 45.13%, tương đương 11.233 tỷ. Từ đó, cho thấy sự gia tăng của EBIT 2008 chủ yếu nhờ vào Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính, và một tỉ lệ rất ít từ lợi nhuận khác. Nếu không có sự giảm của hoạt động tài chính thì EBIT còn tăng nhiều hơn nữa. còn EBIT 2009 tăng chủ yếu do Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính và hoạt động tài chính, lợi nhuận khác chiếm rất ít. Do chi phí lãi vay không đáng kể nên EBIT và EBT không chênh lệch nhiều. EBT 2009 so với 2008 tăng 1844%.
Thuế thu nhập doanh nghiệp: Cùng với sự tăng của EBT thì thuế cũng gia tăng và gia tăng đột biến so với năm 2008, tăng hơn 10 lần (số tuyệt đối). Tuy nhiên xét tương đối thì tỷ lệ tăng của thuế lại thấp hơn tỉ lệ tăng của EBT. Nguyên nhân chủ yếu là do năm 2009 doanh nghiệp đã được một khoản thuế thu nhập doanh nghiệp được hoãn lại không phải nộp phát sinh từ các khoản chênh lệch tạm thời được khấu trừ và các khoản chênh lệch phải chịu thuế, do đó gánh nặng nộp thuế của công ty năm 2009 ít hơn năm 2008. Xét tỉ l
Download Đề tài Phân tích tình hình tài chính tại công ty cổ phần thủy sản Mekong miễn phí
So với 2008, chu kỳ vốn lưu động năm 2009 tăng lên một ngày. Kết quả này có được chủ yếu là do gia tăng thời gian thu tiền bán hàng lên bốn ngày, số ngày tồn kho tăng lên một ngày, đồng thời gian chiếm dụng vốn của công ty cũng tăng lên bốn ngày nên làm cho chu kỳ vốn lưu động tăng lên một ngày. Thời gian thu tiền bán hàng tăng lên bốn ngày, sở dĩ như vậy là do thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty là EU .Đồng thời công ty cũng mới gia nhập thị trường quốc tế nên việc DN muốn mở rộng thị trường là không tránh khỏi. Do đó, doanh nghiệp chấp nhận bán chịu để thu được lợi nhuận nhiều hơn trong tương lai. Thời gian dự trữ tồn kho tăng lên một ngày là do doanh nghiệp nhận định thị trường nước ngoài đang ưa chuộng thủy sản của Việt Nam, đồng thời giá cả thủy sản Việt Nam tương đối rẻ hơn so với các nước xuất khẩu thủy sản khác. Ngoài ra, Chính Phủ Việt Nam đang có những chính sách khuyến khích, ưu đãi cho ngành. Do đó, doanh nghiệp tận dụng sản xuất nhiều hơn để tung sản phẩm kịp thời ra thị trường, chấp nhận tồn kho tăng để gia tăng doanh thu trong tương lai. Bằng chứng doanh thu thuần trong hai năm tăng liên tục. Rõ ràng đây là một chính sách phù hợp với tình hình kinh tế, doanh nghiệp đã tận dụng khá tốt những ưu thế sẵn có. Số ngày trả tiền tăng lên bốn ngày là do nhà cung cấp chủ yếu của doanh nghiệp là các hộ nông dân có quá trình gắn bó mật thiết với công ty. Do đó, công ty dễ dàng thương lượng với họ. doanh nghiệp một lần nữa lại tận dụng tốt những ưu thế trong ngành.
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!
Tóm tắt nội dung:
nh hưởng của doanh thu. Điều đó, có nghĩa là doanh nghiệp đã sử dụng chi phí không hiệu quả. chi phí bán hàng tăng nhẹ. Sở dĩ như vậy là do Sản phẩm của công ty chịu sự ảnh hưởng lớn từ những thủ tục nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm ứng với mỗi thị trường khác nhau: các nước nhập khẩu thủy sản đặc biệt là EU thường xuyên thay đổi về quy cách sản phẩm, kiểm tra chất lượng kháng sinh, hóa chất khắt khe. Do đó, chi phí cho việc bảo quản sản phẩm tăng lên. Việc lựa chọn thời điểm bán hàng cũng ảnh hưởng hoạt động kinh doanh của công ty, bởi nó, còn tùy thuộc vào tỷ giá, công ty luôn lựa chọn thời điểm phù hợp nhất để tung sản phẩm ra thị trường. Do đó, phải mất một khoảng chi phí cho khoảng thời gian này.Chi phí quản lý doanh nghiệp:
Năm 2008 so với năm 2007 tăng khoảng 2,3 tỷ đồng (39,91%) giảm xuống gần 1,7 tỷ đồng (20,68%) năm 2009 so với 2008. Tốc độ tăng chi phí quản lý doanh nghiệp nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu thuần. Kết quả này thể hiện qua chỉ tiêu chi phí quản lý trên 100 đồng doanh thu tăng lên liên tục (nhưng không đáng kể). Tuy chi phí quản lý doanh nghiệp có tăng nhưng không đáng kể lắm. Do đó, không ảnh hưởng lắm đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. Việc tăng chi phí quản lý doanh nghiệp chủ yếu là do ảnh hưởng của doanh thu thuần, còn ảnh hưởng của hiệu quả thì tương đối thấp. Điều đó, có nghĩa là doanh nghiệp đã sử dụng chi phí hiệu quả. Còn ảnh hưởng của doanh thu thuần đến chi phí quản lý doanh nghiệp ta vẫn có thể chấp nhận được. Bởi lẽ, khi công ty tăng quy mô tiêu thụ sản phẩm thì các chi phí liên quan đến quản lý doanh nghiệp vẫn có thể tăng lên. Nhìn chung, dù chi phí quản lý doanh nghiệp tăng nhưng không ảnh hưởng lắm đến hoạt động kinh doanh. Do đó, kết quả trên là vẫn có thể chấp nhận được.
Lợi nhuận từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ:
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính năm 2008 so với 2007 tăng khoảng 12 tỷ đồng (94,19%). Năm 2009 so với năm 2008 tăng khoảng 11,2 tỷ đồng (45,13%). Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính có xu hướng tăng giảm dần. Mặt khác, tỷ suất lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính trên doanh thu thuần năm 2008/2007 là 2,55%. Năm 2009/2008 tăng 1,55%. Dù tỷ suất Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính/ doanh thu thuần tăng (là điều đáng mừng) nhưng lại có xu hướng giảm dần (trong tương lai, nếu công ty không có chính sách phù hợp thì có nguy cơ thua lỗ). Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính tăng chủ yếu là do ảnh hưởng của hiệu quả. Điều đó có nghĩa DN đã sử dụng cơ cấu chi phí trên doanh thu thuần một cách có hiệu quả. Trong khi đó ảnh hưởng của doanh thu thuần lại thấp hơn. Dù quy mô tiêu thụ sản phẩm tăng nhưng đóng góp không đáng kể vào Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính. Tình hình kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm vẫn chưa tốt, chưa sử dụng tối ưu. Đáng lẽ ra, doanh thu thuần đạt được phải nhiều hơn nữa. Nếu có chiến lược kinh doanh tốt hơn thì Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính còn tăng nữa. Việc tăng Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính do ảnh hưởng của hiệu quả là điều tốt, cần tiếp tục phát huy. Nhưng còn tốt hơn nếu việc tăng Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính là do ảnh hưởng của doanh thu thuần.
Doanh thu hoạt động tài chính tăng liên tục qua các năm, và đặc biệt tăng mạnh trong năm 2008. Nguyên nhân tăng chủ yếu do:
+ Trong năm công ty đã đầu tư vào các cổ phiếu lớn như FPT, Vinamilk, TTP, thủy sản Bến Tre… và các cổ phiếu chưa niêm yết (Eximbank, Vietcombank…) và lãi gần 3 tỷ đồng
+ AAM không sử dụng vốn vay ngân hàng, mà còn dư vài chục tỷ đồng gửi ngân hàng nên được hưởng lãi từ tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn gần 8 tỷ và không phải chịu chi phí lãi vay tăng thêm khi lãi suất cơ bản tăng . Bên cạnh đó lãi cho vay 3.5 tỷ, cũng góp phần không nhỏ vào sự gia tăng của doanh thu hoạt động tài chính.
+ Vì AAM là một công ty hoạt động chủ yếu là xuất khẩu thủy sản nên khi tỷ giá tăng thì AAM cũng được hưởng lợi, và khoản lãi từ chênh lệch tỷ giá này đã đem lại hơn 10 tỷ đồng, chiếm 41.1% tổng Doanh thu hoạt động tài chính. Đây là khoản chiếm tỷ lệ lớn nhất trong Doanh thu hoạt động tài chính của AAM
AAM là công ty rất đa dạng trong các hoạt động tài chính. Đây sẽ là nguồn lợi bổ sung cho lợi nhuận của doanh nghiệp, nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro cao do không phải là hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp.
Doanh thu hoạt động tài chính 2009 ngoài những khoản trên còn do 2009 AAM kinh doanh ngoại hối và được lãi gần 4 tỷ, chiếm khoảng 6.07% doanh thu hoạt động tài chính. Bên cạnh đó AAM có một khoảng doanh thu lớn từ hoàn nhập dự phòng giảm giá đầu tư tài chính, chiếm 64.4% tổng doanh thu hoạt động tài chính
Lợi nhuận hoạt động tài chính năm 2008 âm và mức âm rất lớn, hơn 2.3 tỷ. Và mức âm này do doanh thu hoạt động tài chính không đủ bù đắp chi phí tài chính trong năm. Mức chi phí tài chính gần gấp đôi doanh thu hoạt động tài chính và cao nhất trong cả ba năm (tăng 1772% so với 2007 và giảm 19% so với 2009). Chi phí tài chính cao như vậy chủ yếu do công ty phải trích một khoản dự phòng rất lớn, chiếm 97% chi phí tài chính. Như chúng ta đã biết, chi phí tài chính dù giảm 19% so với 2008. Mặc dù 2009 công ty đã hoàn nhập dự phòng lớn nhưng vì danh mục đầu tư chứng khoán của công ty quá nhiều lĩnh vực nên trong năm nó vẫn bị lỗ từ việc bán chứng khoán, chiếm 83.5% tổng chi phí tài chính.
Chi phí lãi vay chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong chi phí tài chính
Lợi nhuận khác: năm 2007 lớn nhất và giảm dần ở những năm sau, tuy nhiên với kết quả dương của các năm góp phần làm EBIT của doanh nghiệp tăng lên. Lợi nhuận khác có được là do thu từ hỗ trợ hàng xuất khẩu, thu khác, ngoài ra trong 2008 có thu thêm tiền bồi thường từ quy hoạch, thu tiền nhượng bán, thanh lý tài sản cố định. Năm 2007 co thêm tiền bồi thường từ hoàn nhập dự phòng.
Xét những yếu tố cấu thành EBIT:
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính đóng góp nhiều hơn vào EBIT. Lợi nhuận hoạt động chính năm 2008 tăng so với 2007 94.19%, tương đương 12.073 tỷ, năm 2009 tăng so với 2008 45.13%, tương đương 11.233 tỷ. Từ đó, cho thấy sự gia tăng của EBIT 2008 chủ yếu nhờ vào Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính, và một tỉ lệ rất ít từ lợi nhuận khác. Nếu không có sự giảm của hoạt động tài chính thì EBIT còn tăng nhiều hơn nữa. còn EBIT 2009 tăng chủ yếu do Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính và hoạt động tài chính, lợi nhuận khác chiếm rất ít. Do chi phí lãi vay không đáng kể nên EBIT và EBT không chênh lệch nhiều. EBT 2009 so với 2008 tăng 1844%.
Thuế thu nhập doanh nghiệp: Cùng với sự tăng của EBT thì thuế cũng gia tăng và gia tăng đột biến so với năm 2008, tăng hơn 10 lần (số tuyệt đối). Tuy nhiên xét tương đối thì tỷ lệ tăng của thuế lại thấp hơn tỉ lệ tăng của EBT. Nguyên nhân chủ yếu là do năm 2009 doanh nghiệp đã được một khoản thuế thu nhập doanh nghiệp được hoãn lại không phải nộp phát sinh từ các khoản chênh lệch tạm thời được khấu trừ và các khoản chênh lệch phải chịu thuế, do đó gánh nặng nộp thuế của công ty năm 2009 ít hơn năm 2008. Xét tỉ l