LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI
Khoa Sư Phạm
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí
Học Sư Phạm
Tác giả: Đỗ Văn Thông
Chương I: Nhập Môn Tâm Lý Học Lứa Tuổi
Khái quát về tâm lý học lứa tuổi và sư phạm
1. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm
a. Đối tượng:
- Đối tượng của tâm lí học lứa tuổi là động lực phát triển tâm lí theo lứa tuổi của
con người ; sự phát triển cá thể của các quá trình tâm lí và các phẩm chất tâm lí
trong nhân cách của con người đang được phát triển (quá trình con người trở
thành nhân cách như thế nào?);
Tâm lí học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm của các quá trình và các phẩm chất
tâm lí riêng lẻ của cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và sự khác biệt của chúng
ở mỗi cá nhân trong phạm vi một lứa tuổi, nghiên cứu những khả năng lứa tuổi
của việc lĩnh hội tri thức, cách hành động ;
Tâm lí học lứa tuổi nghiên cứu các dạng hoạt động khác nhau của các cá nhân
đang được phát triển (vui chơi, lao động…)
Do yêu cầu của thực tiễn và thành tựu của khoa học, ngày nay tâm lí học lứa
tuổi có nhiều phân ngành : tâm lí học trẻ em trước tuổi học, tâm lí học tuổi nhi
đồng, tâm lí học tuổi thiếu niên, tâm lí học tuổi thanh niên…
- Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học sư phạm là những quy luật tâm lí của việc
dạy học và giáo dục.
Tâm lí học sư phạm nghiên cứu những vấn đề tâm lí học của việc điều khiển
quá trình dạy học, nghiên cứu sự hình thành quá trình nhận thức, tìm tòi những
tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát triển trí tuệ và xác định những điều kiện để
đảm bảo phát triển trí tuệ có hiệu qủa trong quá trình dạy học, xem xét những
vấn đề và mối quan hệ qua lại giữa giáo viên và học sinh cũng như giữa học
sinh với học sinh.
Những phân ngành của tâm lí học sư phạm: tâm lí học dạy học, tâm lí học giáo
dục và tâm lí học về người giáo viên.
b. Nhiệm vụ:
Từ những nghiên cứu trên tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm có nhiệm
vụ : rút ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi,
những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi ; rút ra những quy
luật lĩnh hội tri thức, kỹ năng kỹ xảo trong quá trình giáo dục và dạy học, những
biến đổi tâm lí của học sinh do ảnh hưởng của giáo dục và dạy học…từ đó cung
cấp những kết quả nghiên cứu để tổ chức hợp lí quá trình sư phạm, góp phần
nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục và dạy học.
c. Ý nghĩa:
Những thành tựu của tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm có ý nghĩa lí
luận và thực tiễn lớn lao.
- Về mặt lí luận, các nghiên cứu của tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm
sử dụng các tài liệu của một số khoa học khác, nhưng đến lượt mình nó lại cung
cấp tài liệu có ý nghĩa quan trọng cho các khoa học khác.
- Về mặt thực tiễn có thể khẳng định sự hiểu biết về tâm lí học lứa tuổi và tâm lí
học sư phạm là điều kiện cần thiết để tổ chức có hiệu quả và đúng đắn quá
trình học tập và giáo dục.
2. Quan hệ giữa tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm
Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và
chúng quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành khoa học khác, đặc biệt là tâm lí học
đại cương, giáo dục học, phương pháp giảng dạy bộ môn…
Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm là những chuyên ngành của tâm lí
học, đều dựa trên cơ sở tâm lí học đại cương. Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học
sư phạm gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau, vì chúng có chung
khách thể nghiên cứu.
Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm đều nghiên cứu trẻ em trong quá trình
dạy học và giáo dục.
Sự phân chia ranh giới giữa hai ngành tâm lí học này chỉ có tính chất tương đối.
Lý luận về sự phát triển tâm lý học của trẻ
1. Khái niệm về sự phát triển tâm lý trẻ em:
a. Quan niệm về trẻ em:
Dựa trên những quan điểm triết học rất khác nhau, người ta đã hiểu về trẻ em
rất khác nhau :
- Có quan niệm cho rằng trẻ em là “người lớn thu nhỏ lại”, sự khác nhau giữa
trẻ em và người lớn khác nhau về mọi mặt (cơ thể, tư tưởng, tình cảm...) chỉ ở
tầm cở, kích thước chứ không khác nhau về chất.
- Theo J.J. Rútxô (1712 - 1778) : Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại và
người lớn cũng không phải lúc nào cũng có thể hiểu được trí tuệ,nguyện vọng
và tình cảm độc đáo của trẻ thơ…vì “Trẻ em có những cách nhìn, cách suy nghĩ
và cảm nhận riêng của nó”.
- Tâm lý học duy vật biện chứng khẳng định: Trẻ em không phải người lớn thu
nhỏ lại. Sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn là sự khác nhau về chất. Trẻ
em là trẻ em, nó vận động, phát triển theo quy luật của trẻ em. Ngay từ khi cất
tiếng khóc chào đời, đứa trẻ đã là một con người, một thành viên của xã hội, có
nhu cầu giao tiếp với người lớn. Việc nuôi nấng, dạy dỗ trẻ phải theo kiểu
người. Mỗi thời đại khác nhau có trẻ em riêng của mình.
b. Quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm lý trẻ em:
- Quan điểm duy tâm coi sụ phát triển tâm lý trẻ em chỉ là sự tăng lên hay giảm
đi về số lượng của các hiện tượng đang được phát triển, mà không có sự
chuyển biến về chất lượng.
- Quan điểm này xem sự phát triển của mỗi hiện tượng như là một quá trình
diễn ra một cách tự phát mà người ta không thể điều khiển được, không thể
nghiên cứu được,không nhận thức được.
- Quan điểm sai lầm này được biểu hiện ở các thuyết sau:
b.1. Thuyết tiền định:
+ Thuyết này coi sự phát triển tâm lí là do các tiềm năng sinh vật gây ra, con
người có tiềm năng này từ khi mới sinh ra và sự phát triển chỉ là sự trưởng
thành, chín muồi của những thuộc tính đã có sẳng ngay từ đầu và được quyết
định trước bằng con đường duy truyền này.
+ Các nhà tâm lí học tư sản cho rằng : những thuộc tính của nhân cách, năng
lực cũng đã được mã hoá, chương trình hoá trong các trang bị gien.
+ Tuy nhiên, có những người theo thuyết này có đề cập đến yếu tố môi trường.
Nhưng theo họ, mmôi trường chỉ là “yếu tố điều chỉnh“, “yếu tố thể hiện“ một
nhân tố bất niến nào đó ở trẻ.
Nhà tâm lý học Mỹ E. Tóocđai cho rằng : “Tự nhiên ban cho mỗi người một vốn
nhất nhất định, giáo dục cần làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải sử dụng
nó bằng phương tiện tốt nhất“ và “vốn tự nhiên“ đó đặt ra giới hạn cho sự phát
triển, cho nên một bộ phận học sinh tỏ ra không đạt được kết quả nào đó “dù
giảng dạy tốt“,số khác lại tỏ ra lại có thành tích “dù giảng dạy tồi “...)
+ Từ quan điểm này làm cho con người mất lòng tin vào giáo dục, vào sự tu
dưỡng và cải tạo bản thân, họ cho rằng vai trò của giáo dục là thứ yếu, trẻ tốt
hay xấu.học giỏi hay kém không phải do giáo dục mà do gien tốt hay xấu. Từ
đó, họ đi đến kết luận : Trẻ em khó bảo, năng lực trí tuệ kém phát triển là do
bẩm sinh chứ không phải do giáo dục,do môi trường.
Như vậy, vai trò của giáo dục đã bị hạ thấp. Giáo dục chỉ là yếu tố bên ngoài có
khả năng làm tăng nhanh hay kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm chất tự
nhiên, bị chế ước bởi tính di truyền. Và họ đã rút ra kết luận sai sư phạm lầm:
mọi sự can thiệp vào quá trình phát triển tự nhiên của trẻ đều là sự tùy tiện,
không thể tha thứ.
b.2 . Thuyết duy cảm :
Đối lập với thuyết tiền định, thuyết duy cảm giải thích sự phát triển của trẻ chỉ
bằng những tác động của môi trường xung quanh. Theo các tác giả thuộc
trường phái này thì :
+ Môi trường là nhân tố tiền định sự phát triển của tẻ em. Vì thế, họ cho rằng,
muốn nghiên cứu con người chỉ cần nghiên cứu, phân tích môi trường mà con
người sống.
+ Quan điểm này cho rằng : môi trường xã hội là cái bất biến, quyết định trước
sự phát triển tâm lý cá nhân, còn con người được xem như là đối tượng thụ
động trước ảnh hưởng của môi trường.
+ Mọi người sinh ra đều có sẳn những đặc điểm bẩm sinh như nhau để phát
triển trí tuệ và đạo đức. Sự khác nhau giữa các cá nhân về điểm này hay khác
là do ảnh hưởng của môi trường, ảnh hưởng của những tác động khác nhau.
Với quan niệm như vậy, chúng ta không thể giải thích được vì sao trong một
môi trường sống như nhau lại có những nhân cách khác nhau.
b.3 . Thuyết hội tụ hai yếu tố :
Những người theo quan điểm này cho rằng: Sự tác động qua lại giữa hai yếu tố
di truyền và môi trường quyết định trực tiếp quá trình phát triển, trong đó di
truyền giữ vai trò quyết định và môi trường là điều kiện để biêns những đặc
điểm tâm lý đã được định sẳn thành hiện thực.
Theo họ, sự phát triển là sự chón muồi của những năng lực , những nét tính
cách, những hứng thú…mà trẻ sinh ra đã có. Những nét và những đặc điểm
tính cách do cha mẹ truyền lại cho trẻ dưới dạng có sẵn, bất biến…
Một số người theo thuyết này có đề cập đễn vai trò của môi trường đối với tốc
độ chín muồi của năng lực và nét tính cách được truyền lại cho trẻ em. Nhưng
theo họ, môi trường không phải là toàn bộ những điều kiện và hoàn cảnh mà trẻ
em sống mà chỉ là gia đình của trẻ…
Phê phán các thuyết trên :
Mặc dù quan niệm của những người thay mặt cho các thuyết trên bề ngoài có vẻ
khác nhau, nhưng thực chất đều có những sai lầm giống nhau: + Họ đều thừa
nhận đặc điểm tâm lý của con người là bất biến hay tiền định hay do tiềm
năng sinh vật di truyền hay ảnh hưởng của môi trường bất biến. Những quan
điểm này nhầm phục vụ cho giai cấp bốc lột. (Có nghĩa là sự bất bình đẳng
trong xã hội là tất nhiên, là hợp lý).
+ Họ đánh giá không đúng vai trò của giáo dục, từ đó thiếu biện pháp giáo dục,
bi quan trước sản phẩm xấu của giáo dục. Họ xem xét sự phát triển của trẻ một
cách tách rời và không phụ thuộc và những điều kiện cụ thể mà trong đó quá
trình phát triển của trẻ diễn ra.
+ Họ đều cho rằng trẻ em là đối tượng thụ động, cam chịu ảnh hưởng có tính
chất quyết định của yếu tố sinh vật hay môi trường…Họ phủ nhận tính tích cực
riêng của cá nhân, coi thường những mâu thuẫn biện chứng được hình thành
trong quá trình phát triển tâm lí của cá nhân, mà không thấy được con người
vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể có ý thức sáng tạo nên hoàn
cảnh.
c. Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý trẻ em:
- Triết học mácxit thừa nhận : sự phát triển là quá trình biến đổi cảu sự vật từ
thấp đến cao,từ đơn giản đến phức tạp. Đó là một quá trình tích luỹ dần về số
lượng, dẫn đến sự thay đổi về chất lượng, là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ
sở cái củ do sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật
hiện tượng.
- Nguyên lí này được vận dụng để xem xét sự phát triển tâm lí trẻ em. Bản chất
của sự phát triển tâm lý trẻ em không phải chỉ là sự tăng hay giảm về số lượng
mà là một quá trình biến đổi về chất trong tâm lý, sự thay đổi về lượng của các
chức năng tâm lí dẫn đến sự thay đổi về chất và đưa đến sự hình thành cái mới
một cách nhảy vọt (có nghĩa là làm xuất hiện những đặc điểm mới về chất) -
những cấu tạo tâm lý mới ở những giai đoạn lứa tuổi nhất định.
Ví dụ : Trẻ em lên 3 tuổi có nhu cầu tự lập. Thiếu niên có cảm giác mình là
người lớn...
- Như vậy, trong các giai đoạn phát triển khác nhau(sơ sinh, nhà trẻ, mẫu giáo,
nhi đồng...) có sự cải biến về chất của các quá trình tâm lý và toàn bộ nhân
cách của trẻ.
- Sự phát triển tâm lý trẻ em là một quá trình trẻ em lĩnh hội văn hoá - xã hội của
loài người dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của người lớn thông qua hoạt động của
bản thân làm cho tâm lý của trẻ được hình thành và phát triển. Có thể nói, sự
phát triển tâm lý là một quá trình kế thừa. Bất cứ một mức độ nào của trình độ
rộng; thiếu niên tham gia nhiều hơn vào cuộc sống xã hội, cuộc sống của người lớn. Tính tự lập khiến các em thấy mình giống người lớn ở nhiều điểm...
Xu thế cường điệu hóa ý nghĩa của những thay đổi của bản thân, khiến cho các em có nhu cầu tham gia vào đời sống của người lớn, trong khi đó kinh nghiệm của các em chưa tương xứng với nhu cầu đó. Đây là một mâu thuẫn trong sự phát triển nhân cách thiếu niên.
cần thấy: nhu cầu và nguyện vọng của thiếu niên là chính đáng, người lớn phải thay đổi thái độ đối xử đối với thiếu niên.
Nếu người lớn không chịu thay đổi quan hệ với các em, thì các em sẽ trở thành người khởi xướng thay đổi mối quan hệ này.
Nếu người lớn chống đối, sẽ gây ra những phản ứng của các em với người lớn dưới dạng bướng bỉnh, bất bình, không vâng lời...
Nếu người lớn thấy sự phản đối của các em,mà không suy xét về phía mình để thay đổi quan hệ với các em, thì sự xung đột của các em với người lớn còn kéo dài đến hết thời kì của lứa tuổi này.
Những quan hệ xung đột giữa các em và người lớn làm nảy sinh những hành vi tương ứng ở các em: xa lánh người lớn, không tin tưởng vào người lớn, cho rằng người lớn không hiểu các em và không chịu hiểu các em, khó chịu một cách có ý thức với những yêu cầu, những đánh giá, những nhận xét của người lớn. Tác động giáo dục của người lớn đối với các em bị giảm sút.
Có nhiều yếu tố làm cho người lớn vẫn giữ nguyên quan hệ như trước đây đối với các em : các em vẫn còn là học sinh, vẫn phụ thuộc vào cha mẹ về kinh tế; cha mẹ và giáo viên vẫn đang giữ vai trò giáo dục các em; hơn thế nữa, ở các em vẫn còn những nét trẻ con trên khuôn mặt, trong dáng dấp, trong hành vi và trong tính cách. Mặt khác, nhiều người lớn còn thấy việc tăng quyền hạn và tính độc lập cho thiếu niên là không hợp lí.
Chính sự không thay đổi thái độ của người lớn khi thiếu niên đang trở thành người lớn là nguyên nhân gây ra “đụng độ” giữa thiếu niên với người lớn. Nếu người lớn không thay đổi thái độ, các em sẽ thái độ chống đối, các em sẽ xa lánh người lớn, cho rằng người lớn không hiểu và không thể hiểu mình...
b. Do vậy, trong quan hệ với thiếu niên, người lớn cần:
- Phải mong muốn và biết cách tôn trọng tính độc lập và quyền bình đẳng của thiếu niên.
- Quan hệ giữa thiếu niên và người lớn có thể không có mâu thuẫn nếu quan hệ đó được xây dựng trên cơ sở tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau.
- Khi tiếp xúc với thiếu niên cần gương mẫu, khéo léo, tế nhị
Như vậy, tính độc lập và quyền bình đẳng trong quan hệ của các em với người lớn là vấn đề phức tạp và gay gắt nhất trong giao tiếp của các em với người lớn nói riêng, trong việc giáo dục các em ở lứa tuổi này nói chung. Không nên coi
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Khoa Sư Phạm
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí
Học Sư Phạm
Tác giả: Đỗ Văn Thông
Chương I: Nhập Môn Tâm Lý Học Lứa Tuổi
Khái quát về tâm lý học lứa tuổi và sư phạm
1. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm
a. Đối tượng:
- Đối tượng của tâm lí học lứa tuổi là động lực phát triển tâm lí theo lứa tuổi của
con người ; sự phát triển cá thể của các quá trình tâm lí và các phẩm chất tâm lí
trong nhân cách của con người đang được phát triển (quá trình con người trở
thành nhân cách như thế nào?);
Tâm lí học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm của các quá trình và các phẩm chất
tâm lí riêng lẻ của cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và sự khác biệt của chúng
ở mỗi cá nhân trong phạm vi một lứa tuổi, nghiên cứu những khả năng lứa tuổi
của việc lĩnh hội tri thức, cách hành động ;
Tâm lí học lứa tuổi nghiên cứu các dạng hoạt động khác nhau của các cá nhân
đang được phát triển (vui chơi, lao động…)
Do yêu cầu của thực tiễn và thành tựu của khoa học, ngày nay tâm lí học lứa
tuổi có nhiều phân ngành : tâm lí học trẻ em trước tuổi học, tâm lí học tuổi nhi
đồng, tâm lí học tuổi thiếu niên, tâm lí học tuổi thanh niên…
- Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học sư phạm là những quy luật tâm lí của việc
dạy học và giáo dục.
Tâm lí học sư phạm nghiên cứu những vấn đề tâm lí học của việc điều khiển
quá trình dạy học, nghiên cứu sự hình thành quá trình nhận thức, tìm tòi những
tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát triển trí tuệ và xác định những điều kiện để
đảm bảo phát triển trí tuệ có hiệu qủa trong quá trình dạy học, xem xét những
vấn đề và mối quan hệ qua lại giữa giáo viên và học sinh cũng như giữa học
sinh với học sinh.
Những phân ngành của tâm lí học sư phạm: tâm lí học dạy học, tâm lí học giáo
dục và tâm lí học về người giáo viên.
b. Nhiệm vụ:
Từ những nghiên cứu trên tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm có nhiệm
vụ : rút ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi,
những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi ; rút ra những quy
luật lĩnh hội tri thức, kỹ năng kỹ xảo trong quá trình giáo dục và dạy học, những
biến đổi tâm lí của học sinh do ảnh hưởng của giáo dục và dạy học…từ đó cung
cấp những kết quả nghiên cứu để tổ chức hợp lí quá trình sư phạm, góp phần
nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục và dạy học.
c. Ý nghĩa:
Những thành tựu của tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm có ý nghĩa lí
luận và thực tiễn lớn lao.
- Về mặt lí luận, các nghiên cứu của tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm
sử dụng các tài liệu của một số khoa học khác, nhưng đến lượt mình nó lại cung
cấp tài liệu có ý nghĩa quan trọng cho các khoa học khác.
- Về mặt thực tiễn có thể khẳng định sự hiểu biết về tâm lí học lứa tuổi và tâm lí
học sư phạm là điều kiện cần thiết để tổ chức có hiệu quả và đúng đắn quá
trình học tập và giáo dục.
2. Quan hệ giữa tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm
Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và
chúng quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành khoa học khác, đặc biệt là tâm lí học
đại cương, giáo dục học, phương pháp giảng dạy bộ môn…
Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm là những chuyên ngành của tâm lí
học, đều dựa trên cơ sở tâm lí học đại cương. Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học
sư phạm gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau, vì chúng có chung
khách thể nghiên cứu.
Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm đều nghiên cứu trẻ em trong quá trình
dạy học và giáo dục.
Sự phân chia ranh giới giữa hai ngành tâm lí học này chỉ có tính chất tương đối.
Lý luận về sự phát triển tâm lý học của trẻ
1. Khái niệm về sự phát triển tâm lý trẻ em:
a. Quan niệm về trẻ em:
Dựa trên những quan điểm triết học rất khác nhau, người ta đã hiểu về trẻ em
rất khác nhau :
- Có quan niệm cho rằng trẻ em là “người lớn thu nhỏ lại”, sự khác nhau giữa
trẻ em và người lớn khác nhau về mọi mặt (cơ thể, tư tưởng, tình cảm...) chỉ ở
tầm cở, kích thước chứ không khác nhau về chất.
- Theo J.J. Rútxô (1712 - 1778) : Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại và
người lớn cũng không phải lúc nào cũng có thể hiểu được trí tuệ,nguyện vọng
và tình cảm độc đáo của trẻ thơ…vì “Trẻ em có những cách nhìn, cách suy nghĩ
và cảm nhận riêng của nó”.
- Tâm lý học duy vật biện chứng khẳng định: Trẻ em không phải người lớn thu
nhỏ lại. Sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn là sự khác nhau về chất. Trẻ
em là trẻ em, nó vận động, phát triển theo quy luật của trẻ em. Ngay từ khi cất
tiếng khóc chào đời, đứa trẻ đã là một con người, một thành viên của xã hội, có
nhu cầu giao tiếp với người lớn. Việc nuôi nấng, dạy dỗ trẻ phải theo kiểu
người. Mỗi thời đại khác nhau có trẻ em riêng của mình.
b. Quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm lý trẻ em:
- Quan điểm duy tâm coi sụ phát triển tâm lý trẻ em chỉ là sự tăng lên hay giảm
đi về số lượng của các hiện tượng đang được phát triển, mà không có sự
chuyển biến về chất lượng.
- Quan điểm này xem sự phát triển của mỗi hiện tượng như là một quá trình
diễn ra một cách tự phát mà người ta không thể điều khiển được, không thể
nghiên cứu được,không nhận thức được.
- Quan điểm sai lầm này được biểu hiện ở các thuyết sau:
b.1. Thuyết tiền định:
+ Thuyết này coi sự phát triển tâm lí là do các tiềm năng sinh vật gây ra, con
người có tiềm năng này từ khi mới sinh ra và sự phát triển chỉ là sự trưởng
thành, chín muồi của những thuộc tính đã có sẳng ngay từ đầu và được quyết
định trước bằng con đường duy truyền này.
+ Các nhà tâm lí học tư sản cho rằng : những thuộc tính của nhân cách, năng
lực cũng đã được mã hoá, chương trình hoá trong các trang bị gien.
+ Tuy nhiên, có những người theo thuyết này có đề cập đến yếu tố môi trường.
Nhưng theo họ, mmôi trường chỉ là “yếu tố điều chỉnh“, “yếu tố thể hiện“ một
nhân tố bất niến nào đó ở trẻ.
Nhà tâm lý học Mỹ E. Tóocđai cho rằng : “Tự nhiên ban cho mỗi người một vốn
nhất nhất định, giáo dục cần làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải sử dụng
nó bằng phương tiện tốt nhất“ và “vốn tự nhiên“ đó đặt ra giới hạn cho sự phát
triển, cho nên một bộ phận học sinh tỏ ra không đạt được kết quả nào đó “dù
giảng dạy tốt“,số khác lại tỏ ra lại có thành tích “dù giảng dạy tồi “...)
+ Từ quan điểm này làm cho con người mất lòng tin vào giáo dục, vào sự tu
dưỡng và cải tạo bản thân, họ cho rằng vai trò của giáo dục là thứ yếu, trẻ tốt
hay xấu.học giỏi hay kém không phải do giáo dục mà do gien tốt hay xấu. Từ
đó, họ đi đến kết luận : Trẻ em khó bảo, năng lực trí tuệ kém phát triển là do
bẩm sinh chứ không phải do giáo dục,do môi trường.
Như vậy, vai trò của giáo dục đã bị hạ thấp. Giáo dục chỉ là yếu tố bên ngoài có
khả năng làm tăng nhanh hay kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm chất tự
nhiên, bị chế ước bởi tính di truyền. Và họ đã rút ra kết luận sai sư phạm lầm:
mọi sự can thiệp vào quá trình phát triển tự nhiên của trẻ đều là sự tùy tiện,
không thể tha thứ.
b.2 . Thuyết duy cảm :
Đối lập với thuyết tiền định, thuyết duy cảm giải thích sự phát triển của trẻ chỉ
bằng những tác động của môi trường xung quanh. Theo các tác giả thuộc
trường phái này thì :
+ Môi trường là nhân tố tiền định sự phát triển của tẻ em. Vì thế, họ cho rằng,
muốn nghiên cứu con người chỉ cần nghiên cứu, phân tích môi trường mà con
người sống.
+ Quan điểm này cho rằng : môi trường xã hội là cái bất biến, quyết định trước
sự phát triển tâm lý cá nhân, còn con người được xem như là đối tượng thụ
động trước ảnh hưởng của môi trường.
+ Mọi người sinh ra đều có sẳn những đặc điểm bẩm sinh như nhau để phát
triển trí tuệ và đạo đức. Sự khác nhau giữa các cá nhân về điểm này hay khác
là do ảnh hưởng của môi trường, ảnh hưởng của những tác động khác nhau.
Với quan niệm như vậy, chúng ta không thể giải thích được vì sao trong một
môi trường sống như nhau lại có những nhân cách khác nhau.
b.3 . Thuyết hội tụ hai yếu tố :
Những người theo quan điểm này cho rằng: Sự tác động qua lại giữa hai yếu tố
di truyền và môi trường quyết định trực tiếp quá trình phát triển, trong đó di
truyền giữ vai trò quyết định và môi trường là điều kiện để biêns những đặc
điểm tâm lý đã được định sẳn thành hiện thực.
Theo họ, sự phát triển là sự chón muồi của những năng lực , những nét tính
cách, những hứng thú…mà trẻ sinh ra đã có. Những nét và những đặc điểm
tính cách do cha mẹ truyền lại cho trẻ dưới dạng có sẵn, bất biến…
Một số người theo thuyết này có đề cập đễn vai trò của môi trường đối với tốc
độ chín muồi của năng lực và nét tính cách được truyền lại cho trẻ em. Nhưng
theo họ, môi trường không phải là toàn bộ những điều kiện và hoàn cảnh mà trẻ
em sống mà chỉ là gia đình của trẻ…
Phê phán các thuyết trên :
Mặc dù quan niệm của những người thay mặt cho các thuyết trên bề ngoài có vẻ
khác nhau, nhưng thực chất đều có những sai lầm giống nhau: + Họ đều thừa
nhận đặc điểm tâm lý của con người là bất biến hay tiền định hay do tiềm
năng sinh vật di truyền hay ảnh hưởng của môi trường bất biến. Những quan
điểm này nhầm phục vụ cho giai cấp bốc lột. (Có nghĩa là sự bất bình đẳng
trong xã hội là tất nhiên, là hợp lý).
+ Họ đánh giá không đúng vai trò của giáo dục, từ đó thiếu biện pháp giáo dục,
bi quan trước sản phẩm xấu của giáo dục. Họ xem xét sự phát triển của trẻ một
cách tách rời và không phụ thuộc và những điều kiện cụ thể mà trong đó quá
trình phát triển của trẻ diễn ra.
+ Họ đều cho rằng trẻ em là đối tượng thụ động, cam chịu ảnh hưởng có tính
chất quyết định của yếu tố sinh vật hay môi trường…Họ phủ nhận tính tích cực
riêng của cá nhân, coi thường những mâu thuẫn biện chứng được hình thành
trong quá trình phát triển tâm lí của cá nhân, mà không thấy được con người
vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể có ý thức sáng tạo nên hoàn
cảnh.
c. Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý trẻ em:
- Triết học mácxit thừa nhận : sự phát triển là quá trình biến đổi cảu sự vật từ
thấp đến cao,từ đơn giản đến phức tạp. Đó là một quá trình tích luỹ dần về số
lượng, dẫn đến sự thay đổi về chất lượng, là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ
sở cái củ do sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật
hiện tượng.
- Nguyên lí này được vận dụng để xem xét sự phát triển tâm lí trẻ em. Bản chất
của sự phát triển tâm lý trẻ em không phải chỉ là sự tăng hay giảm về số lượng
mà là một quá trình biến đổi về chất trong tâm lý, sự thay đổi về lượng của các
chức năng tâm lí dẫn đến sự thay đổi về chất và đưa đến sự hình thành cái mới
một cách nhảy vọt (có nghĩa là làm xuất hiện những đặc điểm mới về chất) -
những cấu tạo tâm lý mới ở những giai đoạn lứa tuổi nhất định.
Ví dụ : Trẻ em lên 3 tuổi có nhu cầu tự lập. Thiếu niên có cảm giác mình là
người lớn...
- Như vậy, trong các giai đoạn phát triển khác nhau(sơ sinh, nhà trẻ, mẫu giáo,
nhi đồng...) có sự cải biến về chất của các quá trình tâm lý và toàn bộ nhân
cách của trẻ.
- Sự phát triển tâm lý trẻ em là một quá trình trẻ em lĩnh hội văn hoá - xã hội của
loài người dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của người lớn thông qua hoạt động của
bản thân làm cho tâm lý của trẻ được hình thành và phát triển. Có thể nói, sự
phát triển tâm lý là một quá trình kế thừa. Bất cứ một mức độ nào của trình độ
rộng; thiếu niên tham gia nhiều hơn vào cuộc sống xã hội, cuộc sống của người lớn. Tính tự lập khiến các em thấy mình giống người lớn ở nhiều điểm...
Xu thế cường điệu hóa ý nghĩa của những thay đổi của bản thân, khiến cho các em có nhu cầu tham gia vào đời sống của người lớn, trong khi đó kinh nghiệm của các em chưa tương xứng với nhu cầu đó. Đây là một mâu thuẫn trong sự phát triển nhân cách thiếu niên.
cần thấy: nhu cầu và nguyện vọng của thiếu niên là chính đáng, người lớn phải thay đổi thái độ đối xử đối với thiếu niên.
Nếu người lớn không chịu thay đổi quan hệ với các em, thì các em sẽ trở thành người khởi xướng thay đổi mối quan hệ này.
Nếu người lớn chống đối, sẽ gây ra những phản ứng của các em với người lớn dưới dạng bướng bỉnh, bất bình, không vâng lời...
Nếu người lớn thấy sự phản đối của các em,mà không suy xét về phía mình để thay đổi quan hệ với các em, thì sự xung đột của các em với người lớn còn kéo dài đến hết thời kì của lứa tuổi này.
Những quan hệ xung đột giữa các em và người lớn làm nảy sinh những hành vi tương ứng ở các em: xa lánh người lớn, không tin tưởng vào người lớn, cho rằng người lớn không hiểu các em và không chịu hiểu các em, khó chịu một cách có ý thức với những yêu cầu, những đánh giá, những nhận xét của người lớn. Tác động giáo dục của người lớn đối với các em bị giảm sút.
Có nhiều yếu tố làm cho người lớn vẫn giữ nguyên quan hệ như trước đây đối với các em : các em vẫn còn là học sinh, vẫn phụ thuộc vào cha mẹ về kinh tế; cha mẹ và giáo viên vẫn đang giữ vai trò giáo dục các em; hơn thế nữa, ở các em vẫn còn những nét trẻ con trên khuôn mặt, trong dáng dấp, trong hành vi và trong tính cách. Mặt khác, nhiều người lớn còn thấy việc tăng quyền hạn và tính độc lập cho thiếu niên là không hợp lí.
Chính sự không thay đổi thái độ của người lớn khi thiếu niên đang trở thành người lớn là nguyên nhân gây ra “đụng độ” giữa thiếu niên với người lớn. Nếu người lớn không thay đổi thái độ, các em sẽ thái độ chống đối, các em sẽ xa lánh người lớn, cho rằng người lớn không hiểu và không thể hiểu mình...
b. Do vậy, trong quan hệ với thiếu niên, người lớn cần:
- Phải mong muốn và biết cách tôn trọng tính độc lập và quyền bình đẳng của thiếu niên.
- Quan hệ giữa thiếu niên và người lớn có thể không có mâu thuẫn nếu quan hệ đó được xây dựng trên cơ sở tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau.
- Khi tiếp xúc với thiếu niên cần gương mẫu, khéo léo, tế nhị
Như vậy, tính độc lập và quyền bình đẳng trong quan hệ của các em với người lớn là vấn đề phức tạp và gay gắt nhất trong giao tiếp của các em với người lớn nói riêng, trong việc giáo dục các em ở lứa tuổi này nói chung. Không nên coi

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links