frigidmoon
New Member
Link tải miễn phí Luận văn: Tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng : Luận văn ThS. Khu vực học: 60 22 01 13
Nhà xuất bản: Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển
Ngày: 2014
Miêu tả: 161 tr. + CD-ROM
Luận văn ThS. Việt Nam học -- Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 4 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 4 2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................. 5 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 8 5. Đóng góp của đề tài ................................................................................................... 9 6. Cơ sở lý thuyết và Phương pháp nghiên cứu ......................................................... 9 7. Bố cục của luận văn ................................................................................................. 12 Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ CƢ DÂN ....... 13 1.1. Về địa bàn nghiên cứu ....................................................................................... 13 1.1.1. Vị trí địa lý .......................................................................................................... 13 1.1.2. Địa lý hành chính............................................................................................... 14 1.1.3. Địa hình, khí hậu, sông ngòi ............................................................................. 15 1.1.4. Đất đai, động thực vật, khoáng sản ................................................................. 17 1.2. Về cƣ dân .............................................................................................................. 18 1.2.1. Nguồn gốc, quá trình tộc người ....................................................................... 18 1.2.2. Dân số, sự phân bố dân số và hình thức cư trú .............................................. 22 1.2.3. Một số hoạt động kinh tế chính ........................................................................ 23 1.2.4. Về văn hóa tộc người ......................................................................................... 27 Tiểu kết chương ........................................................................................................... 35 Chƣơng 2: QUAN NIỆM VÀ CÁCH ỨNG XỬ VỚI THẾ GIỚI THẦN LINH ........................................................................................ 36 2.1. Quan niệm của ngƣời Tày về thế giới tự nhiên và con ngƣời .................... 36 2.1.1. Quan niệm về thế giới ba tầng ......................................................................... 36 2.1.2. Quan niệm về linh hồn, sự sống và cái chết .................................................... 39
2.2. Cách ứng xử với thế giới thần linh .................................................................. 43 2.2.1. Ứng xử với thần linh trong gia đình ................................................................ 43 2.2.2. Ứng xử với thần linh bên ngoài gia đình ......................................................... 45 2.2.3. Thầy cúng và vai trò của thầy cúng trong quan hệ với thần linh ................. 48 Tiểu kết chương ............................................................................................................ 55 Chƣơng 3: CÁC NGHI LỄ TRONG TANG MA ............................................... 56 3.1. Những quy tắc ứng xử trƣớc tang lễ ............................................................... 56 3.1.1. Ứng xử trong gia đình ....................................................................................... 56 3.1.2. Ứng xử của cộng đồng với gia đình có người thân vừa mất ......................... 59 3.2. Nghi lễ trong tang ma ngƣời chết thƣờng ...................................................... 65 3.2.1. Các nghi lễ trước khi phát tang ........................................................................ 65 3.2.2. Các nghi lễ từ khi phát tang đến khi chuẩn bị đưa tang ................................ 69 3.2.3. Các nghi lễ chuẩn bị đưa tang, lễ đưa tang .................................................... 76 3.2.4. Các nghi lễ sau khi chôn cất ............................................................................. 81 3.3. Nghi lễ tang ma cho các trƣờng hợp chết đặc biệt ....................................... 82 3.3.1. Tang ma trẻ em (nhang phi eng) ...................................................................... 82 3.3.2. Tang ma những người chết trẻ ......................................................................... 83 3.3.3. Tang ma những người chết bất đắc kỳ tử ........................................................ 84 3.3.4. Tang ma những người làm nghề thầy cúng. ................................................... 85 Tiểu kết chương ........................................................................................................... 87 Chƣơng 4: TANG MA CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA . 89 4.1. Những yếu tố tín ngƣỡng, tôn giáo tác động đến tang ma .......................... 89 4.1.1. Những yếu tố tín ngưỡng dân gian của người Tày trong tang ma ............... 89 4.1.2. Những yếu tố tôn giáo bên ngoài ảnh hưởng đến tang ma ............. 91 4.2. Giá trị tang ma của ngƣời Tày ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng .....100 4.2.1. Giá trị lịch sử tộc người ..................................................................................100 4.2.2. Giá trị nghệ thuật .............................................................................................102 4.2.3. Tang ma với vai trò kết nối gia đình và cộng đồng ......................................108 4.3. Biến đổi trong tang ma của ngƣời Tày Trùng Khánh hiện nay ..............110 4.3.1. Biến đổi về đồ lễ ...............................................................................................110 4.3.2. Biến đổi về thời gian tổ chức nghi lễ .............................................................112 4.3.3. Biến đổi phương tiện hành lễ..........................................................................113 4.4. Một số vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị trong tang ma của ngƣời Tày huyện Trùng Khánh ........................................................................................114 4.4.1. Bảo tồn các giá trị tang ma trong môi trường vốn có của nó .....................114 4.4.2. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, sưu tầm, quảng bá, khôi phục các giá trị trong tang ma..............................................................................................................115 4.4.3. Bảo tồn lực lượng thầy tào, thầy phường, thầy lễ ........................................116 Tiểu kết chương ..........................................................................................................118 KẾT LUẬN ...............................................................................................................119 TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................122 PHỤ LỤC ..................................................................................................................128
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số đang sinh sống trên mảnh đất Việt Nam, người Tày có số lượng dân cư đông nhất và cư trú chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Cao Bằng được coi là một trong những vùng đất cổ, là quê hương tộc người Tày. Đến nay, mặc dù có nhiều dân tộc anh em khác cùng cư trú trong khu vực, nhưng người Tày ở Cao Bằng vẫn chiếm số lượng nhiều hơn cả với 207.805 người [7], chiếm 40,97% trong tổng số dân toàn tỉnh. Trùng Khánh là một trong những huyện biên giới của tỉnh Cao Bằng, nơi cư trú chủ yếu của người Tày. Trong quá trình tồn tại và phát triển, một mặt người Tày ở đây đã bảo lưu được những giá trị văn hóa truyền thống, mặt khác họ cũng đang tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa từ các tộc người khác và những yếu văn hóa hiện đại cho phù hợp với xu hướng phát triển chung của khu vực và đất nước. Trải qua các thời kì lịch sử, ngay từ buổi đầu dựng nước, người Tày ở Cao Bằng đã luôn gắn bó, cùng chung lưng đấu cật với các dân tộc anh em cả nước trong lao động sản xuất cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cao Bằng là một trong những chiếc nôi sản sinh ra khối cư dân Âu Việt, một trong những lực lượng cùng với người Lạc Việt hợp thành nước Âu Lạc và là dân tộc Việt Nam ngày nay. Đặc biệt đã có nhiều cứ liệu lịch sử, nhiều nhà khoa học khẳng định Thục phán An Dương Vương là người Tày ở Cao Bằng đã kế tiếp Vua Hùng dựng nên nước Lạc Việt mà những dấu tích lịch sử và văn hóa ở Cao Bằng và thành Cổ Loa ngày nay là một minh chứng khẳng định điều đó. Chính vì vậy, nghiên cứu về văn hóa của người Tày ở Cao Bằng là một việc hết sức quan trọng không chỉ góp phần hiểu rõ hơn về tộc người Tày mà còn góp phần làm sáng tỏ lịch sử Việt Nam nói chung.
Nhắc đến văn hóa của người Tày, không thể không nhắc đến phong tục tang ma. Đây không chỉ đơn thuần là một nghi lễ biểu lộ tình cảm của những người còn sống với người đã mất mà còn là "một bảo tàng sống" chứa đựng rõ nét và sinh động các thông tin về lịch sử tộc người, về vũ trụ quan, nhân sinh quan, về vai trò của từng cá nhân cũng như cộng đồng trong nghi lễ. Tất cả những điều đó có giá trị hết sức quan trọng cần thiết được nghiên cứu bằng các công trình nghiên cứu chuyên sâu. Hơn hai thập kỷ qua, Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa và hội nhập, văn hóa cổ truyền của người Tày nói chung và phong tục tang ma nói riêng cũng đã có nhiều thay đổi. Những nghiên cứu chuyên về tang ma không chỉ dừng lại ở mục tiêu bảo tồn, lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống mà cần đi sâu tìm hiểu những tác động của đời sống xã hội và những biến đổi trong tang ma cho phù hợp với xã hội hiện đại mà vẫn giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hóa truyền thống. Chính vì vậy, tui quyết định chọn "Tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng" làm đề tài luận văn cao học của mình. 2. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng từ những quan niệm về cái chết, về thế giới sau khi chết đến các bước chuẩn bị cho đám tang, các nghi lễ tiến hành trong đám tang và cả những nghi lễ sau đám tang. - Chỉ ra được ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo, văn hóa khác tác động tới tang ma cùng với những biến đổi phong tục tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh (tỉnh Cao Bằng) trong thời điểm hiện nay. - Chỉ ra những giá trị của tang ma và định hướng bảo tồn, phát huy các giá trị ấy cho phù hợp với xã hội hiện nay.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Văn hóa của người Tày nói chung và phong tục tang ma nói riêng đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu với nhiều công trình chuyên khảo. Nhưng trước hết phải kể đến công trình của hai nhà khoa học Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn (1968) "Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam" [30, tr. 100 - 105]. Các tác giả tập trung phác họa giá trị văn hóa của ba tộc người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam. Tang ma cũng đã được đề cập đến nhưng chỉ mang tính khái quát chung chứ chưa đi sâu vào tìm hiểu, phân tích từng khía cạnh cụ thể. Năm 1978, Viện dân tộc học xuất bản cuốn Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) [69] đã đề cập, giới thiệu một cách khái quát về dân tộc Tày, trong đó có tang ma. Năm 1984, hai học giả Hà Văn Thư và Lã Văn Lô đã cho ra đời cuốn sách "Văn hóa Tày, Nùng" [63, tr. 50 - 54]. Trong đó, tang ma của người Tày, Nùng cũng đã được trình bày với một tiểu mục riêng góp phần giúp độc giả hiểu rõ hơn về các nghi lễ chính trong tang ma của người Tày, Nùng. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là những phác họa chung chứ các tác giả chưa tách riêng tang lễ của hai dân tộc Tày và Nùng để đi sâu nghiên cứu. Năm 1992, Bế Viết Đẳng và các nhà nghiên cứu của viện dân tộc học biên soạn cuốn sách "Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam" [18, tr. 165 - 166, 212 - 226] đã góp phần quan trọng trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về văn hóa của các dân tộc Tày, Nùng ở việt Nam. Đặc biệt, cuốn sách cũng đã dành một chương trình bày về tôn giáo chính thống và các tôn giáo du nhập, quan niệm về cái chết và sự tồn tại ở thế giới bên kia, các nghi lễ liên quan đến đời sống văn hóa, xã hội. Tang ma của người Tày, Nùng cũng đã được nghiên cứu khá chi tiết và chuyên sâu. Tuy nhiên, các tác giả đã không tách tang ma của các dân tộc Tày, Nùng thành một tiểu mục riêng.
Tác giả Đỗ Thúy Bình (1994) trong công trình “Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam” [9, tr. 227 - 254] đã miêu tả một cách khái lược, phân tích 6 nghi lễ chính trong tang ma của 3 dân tộc Tày, Nùng, Thái nhưng chưa có chuyên mục nghiên cứu riêng về tang ma của tộc người Tày. Ngoài những nghiên cứu trên, tác giả Hoàng Tuấn Nam (1998) đã công bố cuốn sách "Việc tang lễ cổ truyền của người Tày" [34]. Đây là một công trình nghiên cứu khá đầy đủ về tang lễ của người Tày. Từ các bước chuẩn bị, các bước tiến hành cũng như nghi lễ sau đám tang, về trách nhiệm của các đối tượng tham gia trong tang lễ. Tác giả cũng đã sưu tầm cả những bài tế ca trong đám tang của người Tày. Mặc dù vậy, cuốn sách mới đề cập đến tang ma của người Tày ở Việt Nam nói chung chứ chưa chỉ ra sự giống và khác nhau giữa tang ma của người Tày ở các khu vực khác, chưa chỉ rõ được những ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo, văn hóa xã hội trong đời sống hiện đại tác động đến nghi lễ tang ma của người Tày hiện nay. Tác giả Nguyễn Thị Yên (2009) trong công trình nghiên cứu "Tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng" [73, tr. 398 - 401, 437 - 523] cũng đã đề cập đến những vấn đề kiêng kỵ còn khá nặng nề trong tang lễ của người Tày, Nùng ở một số địa phương. Đặc biệt, tang lễ của những người làm nghề thầy cúng được tác giả xem xét nghiên cứu khá đầy đủ. Điều này đã góp phần quan trọng trong việc cung cấp nhiều cái nhìn mới hơn về phong tục tang ma của người Tày. Tác giả Hoàng Thị Cấp (2010) đã sưu tầm, biên dịch khá đầy đủ về những bài lượn trống trong tang lễ của nhóm người Tày trắng ở Hà Giang [10]. Cung cấp cho người đọc hiểu được ý nghĩa, giá trị của những bài lượn trống trong tang lễ của người Tày trắng. Ngoài ra, trong cuốn "Tế lễ - tế ca trong đám tang của người Tày ở huyện Quảng Uyên - Cao Bằng" (2012) của hai tác giả Hoàng Thị Nhuận,
Nông Vĩnh Tuân [38]. Các nghi thức tang ma được miêu tả cụ thể, các bài văn tế được biên dịch giúp cho người đọc hiểu rõ hơn nghi thức tang ma cũng như ý nghĩa của văn tế trong đám tang của người Tày huyện Quảng Uyên. Trong các cuốn "Địa chí Cao Bằng" (2000), "Lịch sử tỉnh Cao Bằng" (2000), phong tục tang ma của người Tày, Nùng và một số dân tộc thiểu số khác ở Cao Bằng cũng đã được trình bày một cách khái quát. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đều đã ít nhiều đề cập đến tang ma của người Tày, nhưng đó là những chuyên khảo về tang ma của người Tày ở Việt Nam nói chung. Thậm chí nhiều công trình đề cập đến nghi lễ tang ma của người Tày, Nùng nói chung; chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào về tang ma của người Tày, đặc biệt tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh, Cao Bằng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Tuy nhiên, để hiểu được những biến đổi trong tang ma người Tày huyện Trùng Khánh ở giai đoạn hiện nay dưới tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội, luận văn còn quan tâm nghiên cứu cả điều kiện tự nhiên và các vấn đề văn hóa, kinh tế, xã hội của cư dân. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian nghiên cứu: Luận văn đặt vấn đề nghiên cứu tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Tuy nhiên, Trùng Khánh là một địa bàn tương đối rộng với diện tích tự nhiên lên tới 46.872ha và dân số lên tới 48.713 người [7] . Vì vậy, trong luận văn này, tui chủ yếu tui tập trung nghiên cứu tại một số xã có đông người Tày sinh sống như: Đàm Thủy, Chí Viễn, Phong Châu, Đình Minh, Cảnh Tiên, Cao Thăng, Đức Hồng. - Thời gian nghiên cứu: Do hạn chế về điều kiện nghiên cứu và thời lượng nên luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu về tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh từ năm 1986 đến nay. Tuy nhiên để hiểu hết được giá trị
người chết phải sắm lễ vật gồm một mâm bánh dày, một con gà luộc hay một miếng thịt luộc (khoảng 1 kg), nhưng hiện nay nhiều người đã thay thế các loại tiện lễ vật bằng hoa quả, bánh kẹo với nhiều mẫu mã hiện đại được bán trên thị trường. Trong một số trường hợp, những lễ vật truyền thống như gạo, rượu đã được thay thế bằng tiền. Hình thức đưa phong bì, trước đây không hề có, cũng khá phổ biến ở khu vực gần chợ và thị trấn. Đồ mã là một trong những loại lễ vật biến đổi nhiều nhất trong tang ma. Trước kia, đồ mã đều do những nghệ nhân không chuyên ở địa phương tự làm, nhưng hiện nay do sự tác động của kinh tế thị trường đã xuất hiện nhiều điểm kinh doanh chuyên bán các loại đồ mã làm sẵn với nhiều màu sắc sặc sỡ, mẫu mã đẹp như nhà táng, cây hoa, cây tiền, ngựa giấy, mũ áo, tiền âm phủ, v.v...., người dân có nhiều sự lựa chọn hơn. Ông Nông Ích Mến trong đám tang cha mình là ông Nông Ích Khưu nói: “Gia đình chúng tui thống nhất mua đồ mã trọn gói kính tặng hương hồn cha, vừa nhanh gọn, tiện lợi. Vì nếu tự làm đồ mã thì sẽ mất nhiều thời gian, tốn công sức của nhiều người”. Tuy nhiên, sự hiện đại về đồ mã phần nào đã làm giảm đi giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Ngôi nhà táng do thầy phường làm với kiến trúc ba tầng được trang hoàng lộng lẫy đã thay thế bằng ngôi nhà thấp và đơn giản hơn, những họa tiết trang trí cầu kỳ đã bị giảm bớt; cây hoa truyền thống tự làm trước đây thường cao và lộng lẫy hơn đã được thay thế bằng cây hoa có cấu trúc gọn nhẹ, thuận lợi trong việc vận chuyển; những đồng tiền âm phủ tự cắt bằng giấy bản trước đây phần nào cũng đã được thay thế bằng những đồng tiền âm phủ in sẵn, trong đó có cả tiền polymer âm phủ, dola âm phủ trước đây chưa hề được sử dụng trong danh sách đồ mã truyền thống của người Tày. Sự thay đổi đó phần lớn diễn ra chủ yếu ở khu vực thị trấn và những địa phương gần chợ, những nơi buôn bán nhộn nhịp. Những địa phương thuộc vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại khó khăn, kinh tế kém phát
triển hơn thường bảo lưu được những cách truyền thống, đồ mã phúng viếng vẫn do các nghệ nhân địa phương tự làm. Xu hướng biến đổi về đồ lễ trong tang ma sẽ tiếp tục diễn ra ngày một mạnh mẽ. Đó là xu hướng phát triển tất yếu dưới tác động của nền kinh tế thị trường, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các địa phương, dân tộc. Đặc biệt là tác động của văn hóa hiện đại vào văn hóa truyền thống của người Tày. 4.3.2. Biến đổi về thời gian tổ chức nghi lễ Tang lễ của người Tày Trùng Khánh hiện nay đã rút ngắn về mặt thời gian, bỏ bớt các nghi lễ được đánh giá là không cần thiết. Trước đây tang ma truyền thống của người Tày diễn ra trung bình từ 3 - 7 ngày thậm chí một số gia đình giàu có còn kéo dài thời gian tang ma lên 10 ngày hay lâu hơn nữa để khuếch chương sự giàu có. Ngày nay, theo sự vận động của chính quyền địa phương (hay cuộc vận động đời sống văn hóa mới) thời gian tổ chức tang lễ được giảm xuống còn từ 2 - 3 ngày. Chị Hoàng Thu Hiền, phó bí thư Đảng Ủy xã Đàm Thủy cho biết: “Ở xã chúng tôi, kể từ khi vận động bà con rút ngắn thời gian tổ chức tang lễ, hầu như đều được người dân chấp thuận. Vì đám tang kéo dài nhiều ngày không chỉ liên quan đến vấn đề vệ sinh mà kéo theo những hệ lụy về gánh nặng kinh tế cộng thêm những ảnh hưởng đến sức khỏe của những đối tượng thụ tang phải thực hành các nghi lễ tang ma trong nhiều ngày”. Sự rút ngắn về mặt thời gian tổ chức tang ma tất yếu dẫn tới việc giản tiện, giảm bớt một số nghi lễ. Theo đó, phải có sự lược bỏ những nghi lễ không cần thiết mà chỉ tập trung vào những nghi lễ chính. Thầy tào, thầy phường cũng phải tự chọn những bài mo, bài xướng cho phù hợp. Phần lớn những nội dung mang tính chất giải trí như các điệu múa của thầy phường hay những phần giao lưu giữa thầy tào, thầy phường với tang gia đều bị bỏ bớt mà chỉ giữ lại những nội dung chính trong nghi lễ.
Xu hướng giảm bớt thời lượng và các nghi lễ trong tang ma còn do những thế hệ thầy tào lớp sau khởi xướng. Vì thực tế hiện nay, lực lượng thầy tào trong xã hội người Tày Trùng khánh không còn nhiều. So với các nghề cúng bái khác thì thầy tào được sử dụng rộng rãi hơn cả vì vừa có thể chủ trì đám tang, vừa có thể làm các lễ giải hạn, lễ mừng nhà mới, lễ đầy tháng trẻ em, v.v.... Chính vì vậy, mà nhiều thầy tào luôn phải “chạy sô” để đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân. Thực thế “cầu” nhiều hơn “cung” nên có những thầy tào phần vì mục đích phục vụ nhân dân, một phần coi đó là một trong những cách để kiếm tiền, trục lợi nên đã tự điều chỉnh các nghi lễ cho phù hợp với thời gian biểu của thầy. Việc gảm bớt những nghi lễ phức tạp, rườm rà không cần thiết, gây tốn kém trong tang ma của người Tày huyện Trùng Khánh, Cao Bằng, là cần thiết trong thời điểm hiện nay. Nhưng điều chỉnh, bỏ bớt các nghi lễ cụ thể nào để không mất đi giá trị văn hóa cổ truyền và phù hợp với xu hướng phát triển của văn hóa hiện đại là vấn đề cần được tiếp tục quan tâm không chỉ riêng bản thân các thầy tào, thầy phường mà cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban ngành có liên quan cùng toàn thể nhân dân. 4.3.3. Biến đổi phương tiện hành lễ Biểu hiện rõ nhất trong biến đổi về phương tiện hành lễ của thầy tào là trang phục. Trước kia, trang phục của thầy tào thường phải tự thêu, dệt với những họa tiết, hoa văn trang trí cầu kỳ, nhưng hiện nay trang phục của thầy tào đã có thể mua sẵn ở ngoài chợ. Tuy nhiên, hình thức trang trí của bộ trang phục này không thể đẹp bằng tự làm và tính thiêng cũng phần nào bị giảm bớt. Trong tang ma cổ truyền của người Tày, thầy tào thường treo những bức tranh thờ khi hành lễ. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết tranh thờ trong tang ma đã của người Tày ở Trùng Khánh đã không còn nữa, một phần vì để lâu nên
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
Nhà xuất bản: Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển
Ngày: 2014
Miêu tả: 161 tr. + CD-ROM
Luận văn ThS. Việt Nam học -- Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 4 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 4 2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................. 5 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 8 5. Đóng góp của đề tài ................................................................................................... 9 6. Cơ sở lý thuyết và Phương pháp nghiên cứu ......................................................... 9 7. Bố cục của luận văn ................................................................................................. 12 Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ CƢ DÂN ....... 13 1.1. Về địa bàn nghiên cứu ....................................................................................... 13 1.1.1. Vị trí địa lý .......................................................................................................... 13 1.1.2. Địa lý hành chính............................................................................................... 14 1.1.3. Địa hình, khí hậu, sông ngòi ............................................................................. 15 1.1.4. Đất đai, động thực vật, khoáng sản ................................................................. 17 1.2. Về cƣ dân .............................................................................................................. 18 1.2.1. Nguồn gốc, quá trình tộc người ....................................................................... 18 1.2.2. Dân số, sự phân bố dân số và hình thức cư trú .............................................. 22 1.2.3. Một số hoạt động kinh tế chính ........................................................................ 23 1.2.4. Về văn hóa tộc người ......................................................................................... 27 Tiểu kết chương ........................................................................................................... 35 Chƣơng 2: QUAN NIỆM VÀ CÁCH ỨNG XỬ VỚI THẾ GIỚI THẦN LINH ........................................................................................ 36 2.1. Quan niệm của ngƣời Tày về thế giới tự nhiên và con ngƣời .................... 36 2.1.1. Quan niệm về thế giới ba tầng ......................................................................... 36 2.1.2. Quan niệm về linh hồn, sự sống và cái chết .................................................... 39
2.2. Cách ứng xử với thế giới thần linh .................................................................. 43 2.2.1. Ứng xử với thần linh trong gia đình ................................................................ 43 2.2.2. Ứng xử với thần linh bên ngoài gia đình ......................................................... 45 2.2.3. Thầy cúng và vai trò của thầy cúng trong quan hệ với thần linh ................. 48 Tiểu kết chương ............................................................................................................ 55 Chƣơng 3: CÁC NGHI LỄ TRONG TANG MA ............................................... 56 3.1. Những quy tắc ứng xử trƣớc tang lễ ............................................................... 56 3.1.1. Ứng xử trong gia đình ....................................................................................... 56 3.1.2. Ứng xử của cộng đồng với gia đình có người thân vừa mất ......................... 59 3.2. Nghi lễ trong tang ma ngƣời chết thƣờng ...................................................... 65 3.2.1. Các nghi lễ trước khi phát tang ........................................................................ 65 3.2.2. Các nghi lễ từ khi phát tang đến khi chuẩn bị đưa tang ................................ 69 3.2.3. Các nghi lễ chuẩn bị đưa tang, lễ đưa tang .................................................... 76 3.2.4. Các nghi lễ sau khi chôn cất ............................................................................. 81 3.3. Nghi lễ tang ma cho các trƣờng hợp chết đặc biệt ....................................... 82 3.3.1. Tang ma trẻ em (nhang phi eng) ...................................................................... 82 3.3.2. Tang ma những người chết trẻ ......................................................................... 83 3.3.3. Tang ma những người chết bất đắc kỳ tử ........................................................ 84 3.3.4. Tang ma những người làm nghề thầy cúng. ................................................... 85 Tiểu kết chương ........................................................................................................... 87 Chƣơng 4: TANG MA CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA . 89 4.1. Những yếu tố tín ngƣỡng, tôn giáo tác động đến tang ma .......................... 89 4.1.1. Những yếu tố tín ngưỡng dân gian của người Tày trong tang ma ............... 89 4.1.2. Những yếu tố tôn giáo bên ngoài ảnh hưởng đến tang ma ............. 91 4.2. Giá trị tang ma của ngƣời Tày ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng .....100 4.2.1. Giá trị lịch sử tộc người ..................................................................................100 4.2.2. Giá trị nghệ thuật .............................................................................................102 4.2.3. Tang ma với vai trò kết nối gia đình và cộng đồng ......................................108 4.3. Biến đổi trong tang ma của ngƣời Tày Trùng Khánh hiện nay ..............110 4.3.1. Biến đổi về đồ lễ ...............................................................................................110 4.3.2. Biến đổi về thời gian tổ chức nghi lễ .............................................................112 4.3.3. Biến đổi phương tiện hành lễ..........................................................................113 4.4. Một số vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị trong tang ma của ngƣời Tày huyện Trùng Khánh ........................................................................................114 4.4.1. Bảo tồn các giá trị tang ma trong môi trường vốn có của nó .....................114 4.4.2. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, sưu tầm, quảng bá, khôi phục các giá trị trong tang ma..............................................................................................................115 4.4.3. Bảo tồn lực lượng thầy tào, thầy phường, thầy lễ ........................................116 Tiểu kết chương ..........................................................................................................118 KẾT LUẬN ...............................................................................................................119 TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................122 PHỤ LỤC ..................................................................................................................128
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số đang sinh sống trên mảnh đất Việt Nam, người Tày có số lượng dân cư đông nhất và cư trú chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Cao Bằng được coi là một trong những vùng đất cổ, là quê hương tộc người Tày. Đến nay, mặc dù có nhiều dân tộc anh em khác cùng cư trú trong khu vực, nhưng người Tày ở Cao Bằng vẫn chiếm số lượng nhiều hơn cả với 207.805 người [7], chiếm 40,97% trong tổng số dân toàn tỉnh. Trùng Khánh là một trong những huyện biên giới của tỉnh Cao Bằng, nơi cư trú chủ yếu của người Tày. Trong quá trình tồn tại và phát triển, một mặt người Tày ở đây đã bảo lưu được những giá trị văn hóa truyền thống, mặt khác họ cũng đang tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa từ các tộc người khác và những yếu văn hóa hiện đại cho phù hợp với xu hướng phát triển chung của khu vực và đất nước. Trải qua các thời kì lịch sử, ngay từ buổi đầu dựng nước, người Tày ở Cao Bằng đã luôn gắn bó, cùng chung lưng đấu cật với các dân tộc anh em cả nước trong lao động sản xuất cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cao Bằng là một trong những chiếc nôi sản sinh ra khối cư dân Âu Việt, một trong những lực lượng cùng với người Lạc Việt hợp thành nước Âu Lạc và là dân tộc Việt Nam ngày nay. Đặc biệt đã có nhiều cứ liệu lịch sử, nhiều nhà khoa học khẳng định Thục phán An Dương Vương là người Tày ở Cao Bằng đã kế tiếp Vua Hùng dựng nên nước Lạc Việt mà những dấu tích lịch sử và văn hóa ở Cao Bằng và thành Cổ Loa ngày nay là một minh chứng khẳng định điều đó. Chính vì vậy, nghiên cứu về văn hóa của người Tày ở Cao Bằng là một việc hết sức quan trọng không chỉ góp phần hiểu rõ hơn về tộc người Tày mà còn góp phần làm sáng tỏ lịch sử Việt Nam nói chung.
Nhắc đến văn hóa của người Tày, không thể không nhắc đến phong tục tang ma. Đây không chỉ đơn thuần là một nghi lễ biểu lộ tình cảm của những người còn sống với người đã mất mà còn là "một bảo tàng sống" chứa đựng rõ nét và sinh động các thông tin về lịch sử tộc người, về vũ trụ quan, nhân sinh quan, về vai trò của từng cá nhân cũng như cộng đồng trong nghi lễ. Tất cả những điều đó có giá trị hết sức quan trọng cần thiết được nghiên cứu bằng các công trình nghiên cứu chuyên sâu. Hơn hai thập kỷ qua, Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa và hội nhập, văn hóa cổ truyền của người Tày nói chung và phong tục tang ma nói riêng cũng đã có nhiều thay đổi. Những nghiên cứu chuyên về tang ma không chỉ dừng lại ở mục tiêu bảo tồn, lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống mà cần đi sâu tìm hiểu những tác động của đời sống xã hội và những biến đổi trong tang ma cho phù hợp với xã hội hiện đại mà vẫn giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hóa truyền thống. Chính vì vậy, tui quyết định chọn "Tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng" làm đề tài luận văn cao học của mình. 2. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng từ những quan niệm về cái chết, về thế giới sau khi chết đến các bước chuẩn bị cho đám tang, các nghi lễ tiến hành trong đám tang và cả những nghi lễ sau đám tang. - Chỉ ra được ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo, văn hóa khác tác động tới tang ma cùng với những biến đổi phong tục tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh (tỉnh Cao Bằng) trong thời điểm hiện nay. - Chỉ ra những giá trị của tang ma và định hướng bảo tồn, phát huy các giá trị ấy cho phù hợp với xã hội hiện nay.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Văn hóa của người Tày nói chung và phong tục tang ma nói riêng đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu với nhiều công trình chuyên khảo. Nhưng trước hết phải kể đến công trình của hai nhà khoa học Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn (1968) "Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam" [30, tr. 100 - 105]. Các tác giả tập trung phác họa giá trị văn hóa của ba tộc người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam. Tang ma cũng đã được đề cập đến nhưng chỉ mang tính khái quát chung chứ chưa đi sâu vào tìm hiểu, phân tích từng khía cạnh cụ thể. Năm 1978, Viện dân tộc học xuất bản cuốn Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) [69] đã đề cập, giới thiệu một cách khái quát về dân tộc Tày, trong đó có tang ma. Năm 1984, hai học giả Hà Văn Thư và Lã Văn Lô đã cho ra đời cuốn sách "Văn hóa Tày, Nùng" [63, tr. 50 - 54]. Trong đó, tang ma của người Tày, Nùng cũng đã được trình bày với một tiểu mục riêng góp phần giúp độc giả hiểu rõ hơn về các nghi lễ chính trong tang ma của người Tày, Nùng. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là những phác họa chung chứ các tác giả chưa tách riêng tang lễ của hai dân tộc Tày và Nùng để đi sâu nghiên cứu. Năm 1992, Bế Viết Đẳng và các nhà nghiên cứu của viện dân tộc học biên soạn cuốn sách "Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam" [18, tr. 165 - 166, 212 - 226] đã góp phần quan trọng trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về văn hóa của các dân tộc Tày, Nùng ở việt Nam. Đặc biệt, cuốn sách cũng đã dành một chương trình bày về tôn giáo chính thống và các tôn giáo du nhập, quan niệm về cái chết và sự tồn tại ở thế giới bên kia, các nghi lễ liên quan đến đời sống văn hóa, xã hội. Tang ma của người Tày, Nùng cũng đã được nghiên cứu khá chi tiết và chuyên sâu. Tuy nhiên, các tác giả đã không tách tang ma của các dân tộc Tày, Nùng thành một tiểu mục riêng.
Tác giả Đỗ Thúy Bình (1994) trong công trình “Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam” [9, tr. 227 - 254] đã miêu tả một cách khái lược, phân tích 6 nghi lễ chính trong tang ma của 3 dân tộc Tày, Nùng, Thái nhưng chưa có chuyên mục nghiên cứu riêng về tang ma của tộc người Tày. Ngoài những nghiên cứu trên, tác giả Hoàng Tuấn Nam (1998) đã công bố cuốn sách "Việc tang lễ cổ truyền của người Tày" [34]. Đây là một công trình nghiên cứu khá đầy đủ về tang lễ của người Tày. Từ các bước chuẩn bị, các bước tiến hành cũng như nghi lễ sau đám tang, về trách nhiệm của các đối tượng tham gia trong tang lễ. Tác giả cũng đã sưu tầm cả những bài tế ca trong đám tang của người Tày. Mặc dù vậy, cuốn sách mới đề cập đến tang ma của người Tày ở Việt Nam nói chung chứ chưa chỉ ra sự giống và khác nhau giữa tang ma của người Tày ở các khu vực khác, chưa chỉ rõ được những ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo, văn hóa xã hội trong đời sống hiện đại tác động đến nghi lễ tang ma của người Tày hiện nay. Tác giả Nguyễn Thị Yên (2009) trong công trình nghiên cứu "Tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng" [73, tr. 398 - 401, 437 - 523] cũng đã đề cập đến những vấn đề kiêng kỵ còn khá nặng nề trong tang lễ của người Tày, Nùng ở một số địa phương. Đặc biệt, tang lễ của những người làm nghề thầy cúng được tác giả xem xét nghiên cứu khá đầy đủ. Điều này đã góp phần quan trọng trong việc cung cấp nhiều cái nhìn mới hơn về phong tục tang ma của người Tày. Tác giả Hoàng Thị Cấp (2010) đã sưu tầm, biên dịch khá đầy đủ về những bài lượn trống trong tang lễ của nhóm người Tày trắng ở Hà Giang [10]. Cung cấp cho người đọc hiểu được ý nghĩa, giá trị của những bài lượn trống trong tang lễ của người Tày trắng. Ngoài ra, trong cuốn "Tế lễ - tế ca trong đám tang của người Tày ở huyện Quảng Uyên - Cao Bằng" (2012) của hai tác giả Hoàng Thị Nhuận,
Nông Vĩnh Tuân [38]. Các nghi thức tang ma được miêu tả cụ thể, các bài văn tế được biên dịch giúp cho người đọc hiểu rõ hơn nghi thức tang ma cũng như ý nghĩa của văn tế trong đám tang của người Tày huyện Quảng Uyên. Trong các cuốn "Địa chí Cao Bằng" (2000), "Lịch sử tỉnh Cao Bằng" (2000), phong tục tang ma của người Tày, Nùng và một số dân tộc thiểu số khác ở Cao Bằng cũng đã được trình bày một cách khái quát. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đều đã ít nhiều đề cập đến tang ma của người Tày, nhưng đó là những chuyên khảo về tang ma của người Tày ở Việt Nam nói chung. Thậm chí nhiều công trình đề cập đến nghi lễ tang ma của người Tày, Nùng nói chung; chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào về tang ma của người Tày, đặc biệt tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh, Cao Bằng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Tuy nhiên, để hiểu được những biến đổi trong tang ma người Tày huyện Trùng Khánh ở giai đoạn hiện nay dưới tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội, luận văn còn quan tâm nghiên cứu cả điều kiện tự nhiên và các vấn đề văn hóa, kinh tế, xã hội của cư dân. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian nghiên cứu: Luận văn đặt vấn đề nghiên cứu tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Tuy nhiên, Trùng Khánh là một địa bàn tương đối rộng với diện tích tự nhiên lên tới 46.872ha và dân số lên tới 48.713 người [7] . Vì vậy, trong luận văn này, tui chủ yếu tui tập trung nghiên cứu tại một số xã có đông người Tày sinh sống như: Đàm Thủy, Chí Viễn, Phong Châu, Đình Minh, Cảnh Tiên, Cao Thăng, Đức Hồng. - Thời gian nghiên cứu: Do hạn chế về điều kiện nghiên cứu và thời lượng nên luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu về tang ma của người Tày ở huyện Trùng Khánh từ năm 1986 đến nay. Tuy nhiên để hiểu hết được giá trị
người chết phải sắm lễ vật gồm một mâm bánh dày, một con gà luộc hay một miếng thịt luộc (khoảng 1 kg), nhưng hiện nay nhiều người đã thay thế các loại tiện lễ vật bằng hoa quả, bánh kẹo với nhiều mẫu mã hiện đại được bán trên thị trường. Trong một số trường hợp, những lễ vật truyền thống như gạo, rượu đã được thay thế bằng tiền. Hình thức đưa phong bì, trước đây không hề có, cũng khá phổ biến ở khu vực gần chợ và thị trấn. Đồ mã là một trong những loại lễ vật biến đổi nhiều nhất trong tang ma. Trước kia, đồ mã đều do những nghệ nhân không chuyên ở địa phương tự làm, nhưng hiện nay do sự tác động của kinh tế thị trường đã xuất hiện nhiều điểm kinh doanh chuyên bán các loại đồ mã làm sẵn với nhiều màu sắc sặc sỡ, mẫu mã đẹp như nhà táng, cây hoa, cây tiền, ngựa giấy, mũ áo, tiền âm phủ, v.v...., người dân có nhiều sự lựa chọn hơn. Ông Nông Ích Mến trong đám tang cha mình là ông Nông Ích Khưu nói: “Gia đình chúng tui thống nhất mua đồ mã trọn gói kính tặng hương hồn cha, vừa nhanh gọn, tiện lợi. Vì nếu tự làm đồ mã thì sẽ mất nhiều thời gian, tốn công sức của nhiều người”. Tuy nhiên, sự hiện đại về đồ mã phần nào đã làm giảm đi giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Ngôi nhà táng do thầy phường làm với kiến trúc ba tầng được trang hoàng lộng lẫy đã thay thế bằng ngôi nhà thấp và đơn giản hơn, những họa tiết trang trí cầu kỳ đã bị giảm bớt; cây hoa truyền thống tự làm trước đây thường cao và lộng lẫy hơn đã được thay thế bằng cây hoa có cấu trúc gọn nhẹ, thuận lợi trong việc vận chuyển; những đồng tiền âm phủ tự cắt bằng giấy bản trước đây phần nào cũng đã được thay thế bằng những đồng tiền âm phủ in sẵn, trong đó có cả tiền polymer âm phủ, dola âm phủ trước đây chưa hề được sử dụng trong danh sách đồ mã truyền thống của người Tày. Sự thay đổi đó phần lớn diễn ra chủ yếu ở khu vực thị trấn và những địa phương gần chợ, những nơi buôn bán nhộn nhịp. Những địa phương thuộc vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại khó khăn, kinh tế kém phát
triển hơn thường bảo lưu được những cách truyền thống, đồ mã phúng viếng vẫn do các nghệ nhân địa phương tự làm. Xu hướng biến đổi về đồ lễ trong tang ma sẽ tiếp tục diễn ra ngày một mạnh mẽ. Đó là xu hướng phát triển tất yếu dưới tác động của nền kinh tế thị trường, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các địa phương, dân tộc. Đặc biệt là tác động của văn hóa hiện đại vào văn hóa truyền thống của người Tày. 4.3.2. Biến đổi về thời gian tổ chức nghi lễ Tang lễ của người Tày Trùng Khánh hiện nay đã rút ngắn về mặt thời gian, bỏ bớt các nghi lễ được đánh giá là không cần thiết. Trước đây tang ma truyền thống của người Tày diễn ra trung bình từ 3 - 7 ngày thậm chí một số gia đình giàu có còn kéo dài thời gian tang ma lên 10 ngày hay lâu hơn nữa để khuếch chương sự giàu có. Ngày nay, theo sự vận động của chính quyền địa phương (hay cuộc vận động đời sống văn hóa mới) thời gian tổ chức tang lễ được giảm xuống còn từ 2 - 3 ngày. Chị Hoàng Thu Hiền, phó bí thư Đảng Ủy xã Đàm Thủy cho biết: “Ở xã chúng tôi, kể từ khi vận động bà con rút ngắn thời gian tổ chức tang lễ, hầu như đều được người dân chấp thuận. Vì đám tang kéo dài nhiều ngày không chỉ liên quan đến vấn đề vệ sinh mà kéo theo những hệ lụy về gánh nặng kinh tế cộng thêm những ảnh hưởng đến sức khỏe của những đối tượng thụ tang phải thực hành các nghi lễ tang ma trong nhiều ngày”. Sự rút ngắn về mặt thời gian tổ chức tang ma tất yếu dẫn tới việc giản tiện, giảm bớt một số nghi lễ. Theo đó, phải có sự lược bỏ những nghi lễ không cần thiết mà chỉ tập trung vào những nghi lễ chính. Thầy tào, thầy phường cũng phải tự chọn những bài mo, bài xướng cho phù hợp. Phần lớn những nội dung mang tính chất giải trí như các điệu múa của thầy phường hay những phần giao lưu giữa thầy tào, thầy phường với tang gia đều bị bỏ bớt mà chỉ giữ lại những nội dung chính trong nghi lễ.
Xu hướng giảm bớt thời lượng và các nghi lễ trong tang ma còn do những thế hệ thầy tào lớp sau khởi xướng. Vì thực tế hiện nay, lực lượng thầy tào trong xã hội người Tày Trùng khánh không còn nhiều. So với các nghề cúng bái khác thì thầy tào được sử dụng rộng rãi hơn cả vì vừa có thể chủ trì đám tang, vừa có thể làm các lễ giải hạn, lễ mừng nhà mới, lễ đầy tháng trẻ em, v.v.... Chính vì vậy, mà nhiều thầy tào luôn phải “chạy sô” để đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân. Thực thế “cầu” nhiều hơn “cung” nên có những thầy tào phần vì mục đích phục vụ nhân dân, một phần coi đó là một trong những cách để kiếm tiền, trục lợi nên đã tự điều chỉnh các nghi lễ cho phù hợp với thời gian biểu của thầy. Việc gảm bớt những nghi lễ phức tạp, rườm rà không cần thiết, gây tốn kém trong tang ma của người Tày huyện Trùng Khánh, Cao Bằng, là cần thiết trong thời điểm hiện nay. Nhưng điều chỉnh, bỏ bớt các nghi lễ cụ thể nào để không mất đi giá trị văn hóa cổ truyền và phù hợp với xu hướng phát triển của văn hóa hiện đại là vấn đề cần được tiếp tục quan tâm không chỉ riêng bản thân các thầy tào, thầy phường mà cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban ngành có liên quan cùng toàn thể nhân dân. 4.3.3. Biến đổi phương tiện hành lễ Biểu hiện rõ nhất trong biến đổi về phương tiện hành lễ của thầy tào là trang phục. Trước kia, trang phục của thầy tào thường phải tự thêu, dệt với những họa tiết, hoa văn trang trí cầu kỳ, nhưng hiện nay trang phục của thầy tào đã có thể mua sẵn ở ngoài chợ. Tuy nhiên, hình thức trang trí của bộ trang phục này không thể đẹp bằng tự làm và tính thiêng cũng phần nào bị giảm bớt. Trong tang ma cổ truyền của người Tày, thầy tào thường treo những bức tranh thờ khi hành lễ. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết tranh thờ trong tang ma đã của người Tày ở Trùng Khánh đã không còn nữa, một phần vì để lâu nên

Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm vào Link, đợi vài giây sau đó bấm Get Website để tải:
You must be registered for see links
You must be registered for see links
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: